I - Tìm hiểu chung
1. Đại Việt sử kí toàn thư là một tác phẩm lịch sử nhưng đậm chất văn học, thể hiện nghệ thuật kể chuyện và khắc họa chân dung nhân vật lịch sử. Bằng nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, tác giả lựa chọn những chi tiết tiêu biểu có khả năng thể hiện rõ nét nhất tính cách và những phẩm chất tốt đẹp nhất của nhân vật.
2. Qua đoạn trích Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, tác giả đã xây dựng một hình tượng đẹp về một người anh hùng nổi tiếng của dân tộc Việt Nam. Qua những câu chuyện về lối ứng xử của Trần Hưng Đạo với nhà vua, với tướng lĩnh và người thân, tác giả đã làm nổi bật những nét tính cách và phẩm chất cao đẹp của Hưng Đạo Đại Vương.
3. Cách đọc
Thể hiện giọng kể xen lẫn đối thoại, nhấn giọng ở các sự kiện, đảm bảo phù hợp đặc trưng của sử kí.
II - Kiến thức cơ bản
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là một trong những vị anh hùng của dân tộc Việt Nam, là trụ cột của nhà Trần, là vị tướng có vai trò quan trọng trong việc nhà Trần ba lần đánh thắng quân xâm lược Mông – Nguyên. Với vai trò lịch sử quan trọng và những phẩm chất tốt đẹp của một vị tướng tài, Đại Vương đã được thần thánh hoá và có mặt ở hầu hết những đền thờ trên khắp nước Nam. Khi viết về các nhân vật lịch sử, người viết sử thường chú trọng đề cao tinh thần vì nghĩa lớn, vì cộng đồng. Cũng như Thái sư Trần Thủ Độ hay Thái phó Tô Hiến Thành, Hưng Đạo đại vương là người luôn đặt quyền lợi của đất nước, của dân tộc lên trên quyền lợi của gia đình, gia tộc.
Đoạn kể về Trần Hưng Đạo cũng được viết với kết cấu quen thuộc của kiểu bài bình sử. Sau lời giới thiệu về thời gian, sự kiện, tác giả kể đến chi tiết quan trọng nhất, thể hiện được tầm tư tưởng vĩ đại của Hưng Đạo Vương. Khi nhà vua hỏi về kế sách trị nước, ông đã hiến một kế sách trị nước rất đúng đắn. Và hạt nhân của kế sách đó là “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”. Sau khi đưa ra một loạt những bài học trị nước, ông đã chỉ ra rằng trị nước là một việc phức tạp, thành bại phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Tuỳ thuộc từng hoàn cảnh cụ thể mà đấng quân vương có kế sách phù hợp. Khi giặc đến, có thể dùng kế “thanh dã” (vườn không nhà trống), biết dùng người tài giỏi và “lòng dân không lìa” cũng là bài học quý giá. Kế sách trị nước còn là “vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả nước nhà góp sức” để đánh đuổi ngoại xâm. Kế sách phù hợp ắt sẽ thành công. Câu trả lời của Hưng Đạo Vương chứa đựng những kế sách trị nước quý giá, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của ông. Trong đó, ông đặc biệt nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết vua tôi và đường lối “lấy dân làm gốc” trong việc trị nước. Tài năng và tấm lòng luôn thiết tha với vận mệnh dân tộc của Hưng Đạo Đại Vương đã kết tụ trong đường lối trị nước ấy.
Hưng Đạo Đại Vương còn là người luôn biết đặt lợi ích của cộng đồng, của dân tộc lên trên quyền lợi riêng của gia đình. Để làm nổi bật phẩm chất ấy, người chép sử đã chọn chi tiết Trần Quốc Tuấn đem lời cha dặn ra hỏi ý kiến hai gia nô và hai con và phản ứng của ông khi nghe câu trả lời của họ. Hoàng hậu Chiêu Thánh (tức Lí Chiêu Hoàng) không có con nối dõi, Thái sư Trần Thủ Độ vì nghiệp vương của nhà Trần đã buộc Yên Sinh Vương Trần Liễu (cha của Hưng Đạo Vương) phải nhường vợ là công chúa Thuận Thiên cho em trai là vua Trần Thái Tông (tức Trần Cảnh). Đó là nguyên nhân mối bất hoà. Lời cha dặn trước lúc qua đời là phải đoạt được ngôi vua để trả thù nhà, Quốc Tuấn “ghi lời nhưng không cho là phải”. Việc ông hỏi ý kiến gia nô và con trai nhằm mục đích vừa xác định lại sự đúng đắn của quyết định, vừa có ý thăm dò tư tưởng của mọi người. Phản ứng của Quốc Tuấn khi nghe câu trả lời của Quốc Tảng đã chứng tỏ phẩm chất anh hùng của ông. Không quên lời cha nhưng vì vận mệnh dân tộc, vì đạo nghĩa cương thường ông đã gạt mối thù nhà sang một bên để lo cho đất nước. Vì thế mà vua tôi nhà Trần mới có thể trên dưới một lòng để có ba lần chiến thắng quân Mông – Nguyên, ghi vào lịch sử Việt Nam những trang sử vàng chói lọi.
Quốc Tuấn còn là người biết giữ đạo trên dưới, ông luôn “kính cẩn giữ tiết làm tôi”, chú ý dạy “đạo trung” cho tướng sĩ và ông là tấm gương sáng về “trung quân ái quốc”. Tấm lòng trung nghĩa của ông đã khiến cho nhiều anh hùng thời ấy khâm phục, và trở thành những môn khách trong nhà ông. Sau họ đều trở thành tướng tài của nhà Trần như Dã Tượng, Yiết Kiêu, Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão… Lòng trung nghĩa của ông còn được lưu truyền rộng rãi trong dân gian với câu nói nổi tiếng : “Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng” khi ông trả lời vua Trần. Quốc Tuấn không chỉ là người nhìn xa trông rộng trong mưu lược cầm quân mà còn lo nghĩ tới việc lâu dài một cách chu đáo. Chỉ một chi tiết ông dặn người nhà cách an táng khi mình qua đời cũng đủ thấy tầm nhìn chiến lược của một vị đại vương.
Với những phẩm chất ấy của một vị tướng tài có nhân cách, Hưng Đạo Đại Vương đã được dân gian thần thánh hoá. Người viết sử đã chọn chi tiết nhân dân tin vào sự hiển linh của Hưng Đạo Vương để cho thấy một cách sâu sắc lòng cảm phục và ngưỡng mộ của nhân dân đối với ông. Những phẩm chất đẹp đẽ của ông – người anh hùng dân tộc luôn hết lòng vì dân tộc – đã trở nên bất tử trong lòng người dân nước Nam từ xưa đến nay.
Lựa chọn không nhiều chi tiết, lối kể chuyện tự nhiên, giản dị và chân thực, tác giả đã khắc hoạ một hình tượng anh hùng dân tộc vừa rất thật vừa rất cao quý. Đoạn trích đã xây dựng thành công hình tượng người anh hùng dân tộc và truyền tải một cách xúc động những phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam yêu nước thương nòi ; đồng thời tác giả đã thể hiện rõ thái độ ngợi ca, tình cảm trân trọng và lòng cảm phục của mình với Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
III - Liên hệ
Trần Quốc Tuấn (1231 – 1300) là nhà chỉ huy quân sự kiệt xuất, anh hùng dân tộc. Ông là con của An Sinh vương Trần Liễu. Công chúa Thuỵ Bà, em ruột Trần Liễu, đã đem ông về nuôi như con mình ; lớn lên, mặt mũi khôi ngô, thông minh hơn người, văn võ đều giỏi lại có lòng yêu dân, yêu nước sâu sắc.
Năm 1258, quân Mông Cổ tiến vào nước ta, ông được vua Thái Tông cử làm Tiết chế, chỉ đạo cuộc kháng chiến. Sau chiến thắng đầu tiên, triều Trần rất tin tưởng vào khả năng quân sự của ông. Năm 1284, nhà Nguyên ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta lần thứ hai, ông lại được cử làm Tiết chế Quốc công, thống lĩnh các lực lượng quân sự, lãnh đạo cuộc kháng chiến. Ông đã tiến hành cuộc tổng duyệt binh ở bến Đông Bộ đầu (bắc Hà Nội). Các vương hầu đưa quân bản bộ về tham dự. Trong cuộc tổng duyệt binh này, ông đã đọc bài Hịch tướng sĩ nổi tiếng, nói lên quyết tâm bảo vệ Tổ quốc của mình, kích động lòng yêu nước trong quân sĩ, cổ vũ họ xông vào cuộc chiến đấu vì nước, vì dân. Sau đó, ông phân công các tướng đưa quân đi phòng vệ các nơi hiểm yếu. Trong những ngày chuẩn bị, ông cũng góp phần hoà giải mối nghi ngờ trong dòng họ, đoàn kết hơn nữa lực lượng lãnh đạo. Quân Nguyên tấn công nước ta từ hai phía nam và bắc. Tình thế hết sức nguy ngập, ông buộc phải cho quân ta vừa đánh vừa rút lui để bảo toàn lực lượng, mặt khác cùng hai vua Trần rút về phía nam, kêu gọi nhân dân ở các vùng giặc đi qua, kể cả Thăng Long, thực hiện chiến thuật “vườn không nhà trống”. Thượng hoàng Thánh Tông lo lắng, hỏi ông xem có nên hàng hay không, ông đã khảng khái trả lời : “Bệ hạ hãy chém đầu thần trước đã, rồi hãy hàng !”. Từ đó, hai vua Trần yên tâm cùng ông chỉ đạo cuộc kháng chiến. Trên đường từ Thiên Trường (Nam Định) lên vùng biển Đông Bắc để tránh sự truy đuổi của giặc, ông một mình hộ vệ hai vua, tay cầm một chiếc gậy đầu bịt sắt nhọn. Một số người có ý hơi lo ngại, ông biết vậy bèn vứt mũi sắt nhọn đi. Tháng 5 năm 1285, thấy thời cơ đã đến, sau khi bàn bạc cẩn thận, ông cho lệnh tổng phản công. Quân sĩ và nhân dân cùng phối hợp đánh cho giặc Nguyên tan tành ở các trận Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Vạn Kiếp, đuổi chúng ra khỏi bờ cõi.
Năm 1288, vua Nguyên cho quân tướng tiến sang đánh trả thù. Vua Trần hỏi ông : “Năm nay thế giặc ra sao ?”, ông đáp: “Năm nay giặc đến dễ đánh”. Nắm chắc được chỗ mạnh chỗ yếu của giặc, ông quyết tâm giáng cho chúng một đòn quyết định. Chiến dịch Bạch Đằng được chuẩn bị. Tháng 4 năm 1288, toàn bộ lực lượng thuỷ quân của giặc do Ô Mã Nhi chỉ huy đã bị tiêu diệt trên sông Bạch Đằng. Bộ binh của chúng bị truy đuổi đến tận biên giới. Thất bại nặng nề trong cuộc xâm lược thứ ba đã buộc nhà Nguyên từ bỏ mưu đồ xâm chiếm nước ta. Ông được vua Trần phong tước Đại vương.
Không ham phú quý, danh vọng và quyền hành, ông xin về thái ấp Vạn Kiếp sống những năm tháng cuối đời tuy không lúc nào quên việc phòng thủ đất nước.
… Tháng 9 năm đó, ông mất ở Vạn Kiếp, Vua Trần đã truy tặng ông chức Thái sư Thượng phụ Thượng quốc công, tước Nhân Võ Hưng Đạo đại vương. Các con của ông đều là những danh tướng lập nhiều công trong kháng chiến chống Mông – Nguyên. Ông còn là tác giả hai bộ sách quân sự Binh thư yếu lượcvà Vạn Kiếp tông bí truyền thư.