Dàn ý
1. Mở bài
- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
2. Thân bài
- Hai câu thơ là lời cảm thán của Kiều khi đứng trước nấm mồ lạnh lẽo của Đạm Tiên, đó cũng là lời than thở của Nguyễn Du trước nỗi đau mà người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu đựng.
- "Đau đớn thay": Lời thơ như một lời thở dài đầy đau xót của tác giả.
- Bản thân Nguyễn Du đã có những năm tháng phiêu dạt giữa xã hội, phải chịu cảnh đói nghèo, vì thế ông hiểu được những số phận nghèo khó và cả hoàn cảnh đau khổ của những người phụ nữ trong xã hội cũ.
=> Lời thương cảm, tấm lòng nhân đạo đầy cao cả của Nguyễn Du dành cho những người phụ nữ - thân phận "thấp cổ bé họng" trong xã hội phong kiến đương thời..
- Nguyên nhân đã tạo nên số phận bất hạnh của những người phụ nữ:
+ Đó là một xã hội với Nho giáo là chủ, không có quyền bình đẳng dành cho phụ nữ.
+ Những người phụ nữ bị tước đoạt quyền được bình đẳng như nam giới.
- "Phận đàn bà" mà Nguyễn Du đau xót than thở là kẻ "bạc mệnh" còn phải chịu những đày đọa về thể xác và tinh thần, bị chà đạp về nhân phẩm, nhân cách, bị rẻ rúng như một món hàng.
+ Nhân vật Đạm Tiên mà Nguyễn Du xây dựng: Bất hạnh, sinh ra trong sự nghèo khó, phải bán thân, bán nghệ để nuôi sống mình, khi chết không ai thương nhớ, xót xa: "Sống làm vợ... không chồng".
+ Nhân vật Thúy Kiều: Người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng cũng chỉ là một món hàng trong tay những kẻ buôn phấn bán hương: "Cò kè... ngoài bốn trăm".
=> Xã hội phong kiến ấy đã đưa đẩy nàng Kiều, buộc nàng phải bán mình để cứu cha và em...
- Nguyễn Du thương cảm cho những thân phận người phụ nữ yếu đuối, chịu thiệt thòi, bất hạnh trong tình yêu, hôn nhân:
+ Đó là những người chinh phụ có chồng đi lính: Chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã tước đoạt đi hạnh phúc, tình yêu của bao người vợ hiền.
+ Những người phụ nữ không được quyền quyết định hôn nhân của mình, phải nghe theo lời cha mẹ "Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó".
=> Nhà thơ thấu hiểu, xót xa trước thân phận nhỏ bé, "ba chìm bảy nổi" của người phụ nữ.
- Liên hệ, mở rộng với cuộc sống hiện đại ngày nay: Bên cạnh những người phụ nữ được sống đúng với bản thân, được đối xử bình đẳng, được tự do yêu thương, hôn nhân..., vẫn còn những người phụ nữ bị bạo lực, bị khinh thường, bị hành hạ.
3. Kết bài
- Hai câu thơ "Đau đớn... lời chung" giúp chúng ta được cảm nhận sâu sắc về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa.
- Đánh giá về tình cảm, thái độ của nhà thơ Nguyễn Du qua hai câu thơ.
Bài mẫu
Vút qua năm tháng “đêm trường dạ tối tăm mù mịt”, nhiều câu thơ Kiều đọng lại trong tâm hồn nhân gian bao ám ảnh:
Đau đớn thay phận đàn bà,
“Phận” là thân phận, số phận. Theo quan niệm cũ số phận của con người được sung sướng hay đau khổ là do một thế lực huyền bí, thiêng liêng định đoạt. Câu thơ thứ nhất là lời cảm thán cho số phận đàn bà đau khổ.
“Bạc mệnh” hay mệnh bạc là số phận, số mệnh tiền định mỏng manh, đen tối, trải qua nhiều đau thương bất hạnh. “Bạc mệnh” không chỉ riêng ai mà là “lời chung”, là số phận đáng thương của hầu hết mọi người phụ nữ trong xã hội cũ.
Hai câu thơ trên là tiếng khóc của Thuý Kiều khi đứng trước nấm mồ Đạm Tiên trong một buổi chiều thanh minh. Đó là tiếng khóc của nàng cho mọi người phụ nữ tài hoa bạc mệnh ngày xưa, và cũng tự khóc cho đời mình mai sau (sự cảm). Ý thơ mang tính chất khái quát rất cao, biểu hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du qua Truyện Kiều.
Hai câu thơ trên đã nói lên bi kịch về thân phận của người phụ nữ ngày xưa: đau khổ, bạc mệnh. Nguyễn Du đã sống trong một thời đại đen tối là lúc chế độ phong kiến suy tàn, đầy rẫy thối nát, bất công và dã man. “Truyện Kiều” đã phản ánh một cách sống động và chân thực cái hiện thực đen tối ấy của xã hội phong kiến:
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
“Phận đàn bà” trong xã hội ấy là “đau đớn”, là “bạc mệnh”, tủi nhục không kể xiết. Lễ giáo phong kiến khe khắt, cổ hủ nặng nề: trọng nam khinh nữ (nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô), đạo “tam tòng” như sợi dây oan nghiệt thít chặt vào cổ người đàn bà (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Thân phận bếp núc, không được học hành, không có chút quyền hành gì ngoài xã hội. Nam nữ “thụ thụ bất thân”. Người con gái và nhan sắc chỉ để “mua vui” cho bọn vua chúa, quan lại, kẻ quyền quý… Hai chữ “bạc mệnh” trong lời thơ đã cực tả nỗi “đau đớn”, tủi nhục của “khách má hồng”.
Nguyễn Du đã phản ánh một sự thật đau lòng trong xã hội phong kiến suy tàn, thổi nát. Nạn mất mùa, dịch bệnh, tệ áp bức bóc lột nặng nề của vua quan, chiến tranh, loạn lạc triền miên đã dìm người dân lanh trong máu, nước mắt và đói rét. Phụ nữ và trẻ em là lớp người đau thương nhất: góa bụa, côi cút… Có người phải ăn xin “chết lăn rãnh đến nơi, thịt da béo cầy sói” (Những điều trông thấy). Có giai nhân “nổi danh tài sắc một thì” nhưng bạc mệnh: “Sống làm vợ khắp người ta, Hại thay thác xuống làm ma không chồng” (Đạm Tiên). có thiếu nữ hiếu thảo, tài sắc vẹn toàn nhưng phải trải qua số kiếp “đoạn trường” nên phải nếm mùi cay đắng nhục nhã “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” (Thuý Kiều).
Nguyễn Du bằng sự trải nghiệm của đời mình, đã từng mười năm trời lưu lạc, không thuốc men lúc ốm đau, vợ con chia lìa, anh em tan tác (Anh em tan tác nhà không có – Ngày tháng xoay vần tóc bạc rồi – Thơ chữ Hán), nên ông đã có sự đồng cảm sâu sắc, cảm thương vô hạn cho bao nỗi đau đớn của người phụ nữ bạc mệnh. Ông đã lên tiếng tố cáo những thế lực hắc ám, bạo tàn (quan lại, bọn lưu manh, lũ buôn thịt bán người, đồng tiền hôi tanh và bạo lực…) đã chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc của con người, của người phụ nữ. “Truyện Kiều” là tiếng kêu thương thống thiết, ai oán, não nùng. Tiếng kêu thương ấy, nhà thơ ấy, nhà thơ đã gửi vào thân phận một người đàn bà “Những oan khổ lưu ly – Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!”.
Hai câu thơ:
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Đúng như Tố Hữu đã nói “còn đọng nỗi đau nhân tình”, “Tố Như ơi lệ chảy quanh thân Kiều!…”. Nó chứa chan tinh thần nhân đạo cao đẹp.
Câu thơ của Nguyễn Du cho đến nay vẫn còn làm xúc động lòng người. Cách mạng đã xác nhận quyền nam nữ bình đẳng. Người phụ nữ đã có vai trò rộng lớn trong xã hội. Đảm đang việc nước, đảm đang việc nhà, người phu nữ đã và đang phát huy tài năng, đức hạnh trong sản xuất, học tập và chiến đầu:
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ
Hai câu thơ của Nguyễn Du tuy không còn ý nghĩa phổ biến nữa, nhưng trong xã hội hiện nay vẫn còn không ít bất công, tàn dư của tư tưởng phong kiến, đã và đang làm cho người phụ nữ bị thiệt thòi, đau khổ. Vì thế cuộc đấu tranh để thực sự giải phóng phụ nữ phải được tiếp tục.
Qua hai câu thơ:
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Ta thấy trái tim yêu thương mênh mông của thiên tài Nguyễn Du, ta cảm nhận sâu sắc giá trị nhân bản tuyệt vời của Truyện Kiều. Một lần nữa trong “Văn Chiêu hồn”, Nguyễn Du lại thống thiết kêu lên:
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu!
Hơn bất cứ nghệ sĩ nào, Nguyễn Du đã dành cho người phụ nữ những tình cảm thắm thiết, cảm động nhất. Ông mãi mãi bất tử về tấm lòng nhân đạo mênh mông…