Dàn ý
1.1. Thế nào là “thiên cổ hùng văn”? (là áng văn hùng tráng cả nghìn đời còn lưu truyền).
1.2. Vì sao gọi “Bình Ngô đại cáo” là “thiên cổ hùng văn”?
- “Bình Ngô đại cáo” được gọi là hùng văn vì nội dung thể hiện một tinh thần yêu nước mãnh liệt, tinh thần chiến đấu hết sức mạnh mẽ quyết liệt, khí thế hào hùng, lòng căm thù giặc sôi sục. Bài cáo đã ghi lại một thời kì đau thương mà oanh liệt của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống quân Minh với những chiến thuật hết sức đúng đắn và sáng tạo đã đem lại những trận đánh long trời lở đất làm cho quân thù phải khiếp sợ, đẩy chúng đến sự thất bại toàn diện và nhục nhã.
- Bài cáo còn viết với nghệ thuật xuất sắc: lời văn biền ngẫu hùng tráng, hơi văn cuồn cuộn như bão giông, như sóng lớn, từ ngữ sắc bén như những nhát dao chém thẳng vào quân xâm lược, phép đối kết hợp với cấu trúc câu của loại phú cận thể tạo nên tiết tấu mạnh mẽ thể hiện được tất cả các cảm xúc hào sảng bừng bừng trong huyết quản của tác giả ngay trong những ngày nghĩa quân Lam Sơn thắng trận giòn giã.
- Bài cáo mãi mãi là âm vang hào hùng trên non sông đất Việt vì đã ghi lại được ý chí, khát vọng chiến thắng, hòa bình, độc lập cua toàn dân; vì đã khẳng định được quyền tự chủ và ý chí chiến đấu đến cùng để giành quyền tu chủ của dân tộc trước một tên xâm lược sừng sỏ. Bài cáo còn nêu cao tư tưởng. nhân nghĩa để khẳng định đạo lí ngàn đời của nhân dân Việt Nam.
- Sự bất hủ của bài báo là do thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Trãi, nhưng còn có sự góp phần của dịch giả. Bài dịch chữ Nôm quả là một công trình dịch thuật xuất sắc.
2. Chứng minh
- “Bình Ngô đại cáo” là một bản hùng ca xuất sắc về nội dung và nghệ thuật. Bài văn ca ngợi đất nước và dân tộc với lối văn trong sáng, tràn đầy sức mạnh của lòng tự tin và tự hào.
“Như nước Đại Việt ta từ trước... Chứng cứ còn ghi”.
- Một bản cáo trạng đanh thép về tội ác của quân xâm lược:
“Nướng dân đen... Ai bảo thần dân chịu được” (phân tích đế thấy rõ lòng căm thù sôi sục của tác giả).
- Nỗi niềm trăn trở lo âu cho vận mệnh của đất nước thể hiện tình yêu nước thương dân sâu sắc:
“Ngẫm thù lớn... Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi”.
- Cảm xúc dạt dào khi diễn tả thời cơ của khởi nghĩa, khi tập hợp được lực lượng nhân dân, khi lực lượng nghĩa quân đá phát triển:
“Nhân dân bốn cõi một nhà... chén rượu, ngọt ngào”.
- Chiến lược chiến thuật tài tình cho áng văn chương bất hủ này.
“Thể trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh...”
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn...”
- Các câu tường thuật chiến thắng là những lời hào hùng nhất, như có sức mạnh xô núi lấp biển:
“Trận Bồ Đằng... nhơ để ngàn năm"
“Ngày mười tám..."
“Gươm mài đá...”
- Kết thúc bài cáo là những lời ca trang trọng và tươi vui nhất, là niềm hạnh phúc dạt dào.
3. Nhận xét chung.
Tư tưởng nhân nghĩa là nguồn gốc của giá trị văn chương, đấy chính là cái bệ phóng để đưa tác phẩm từ quá khứ vào tương lai. Nghệ thuật cấu trúc văn bản và dùng từ là đôi cánh để nâng cao tác phẩm hơn nữa, để đưa tác phẩm bay mãi về phía trước.
- Nguyễn Trãi là một người yêu nước, yêu nước sâu sắc, mạnh mẽ thiết tha với tâm hồn và khí phách của người anh hùng. Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước lá thương dân, để cứu nước phải dựa vào dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi người. “Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi cuối cùng chẳng qua là lòng yêu nước, thương dân: cái nhân, cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt tàn bạo vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân” Phạm Văn Đồng).
- “Trước Lê Lợi, đã từng có chiến thắng oanh liệt đuổi sạch quân Nguyên xám lược ở thời nhà Trần, sau thời Lê Lợi, sẽ có chiến thắng thần tộc của vua Quang Trung đánh đuổi 20 vạn quân Thanh xâm lược, nhưng trong văn học sử chỉ có một áng văn Bình Ngô đại cáo, bởi các lẽ: không có ba Nguyễn Trãi để viết ba áng văn khải hoàn mà lịch sử đòi hỏi ở ba thời điểm, mà chỉ có một Nguyễn Trãi cụ thể, hiệu ức Trai, ở đầu triều Lê cùng với tài thao lược kinh bang tế thế, đã có cái thiên tài viết văn” (Xuân Diệu).
Bài mẫu
Trong văn trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận lỗi lạc hơn cả. Ông để lại khối lượng văn chính luận khá đồ sộ, trong đó Bình Ngô đại cáo được coi là áng “thiên cổ hùng vàn” bậc nhất trong văn học chữ Hán cổ điển nước ta.
Có thể hiểu “thiên cổ hùng văn” là áng văn hào hùng muôn đời. Trước Nguyễn Trãi, thời Lí Trần đã có những áng văn chính luận nổi tiếng như Chiếu dời đô (Lí Công Uẩn), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn). Nhưng chỉ đến Bình Ngô đại cáo, tính chất hùng ca mới được thể hiện một cách toàn diện từ nội dung tư tưởng đến các hình thức nghệ thuật. Âm hưởng hùng tráng của sáng tác được khởi đầu từ chính nhan đề Bình Ngô đại cáo. Đại cáo không phải là bài cáo thông thường mà là bài cáo mang tính chất quốc gia trọng đại. Bình Ngô đại cáo là áng văn yêu nước lớn của thời đại, là bản tuyên ngôn về chủ quyền độc lập dân tộc, bản cáo trạng tội ác kẻ thù, bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Tính chất hùng tráng còn được thể hiện trong qui mô, bố cục của bài cáo. Dễ dàng nhận thấy Bình Ngô đại cáo là áng văn đài, nội dung lớn, được chia làm bốn đoạn được đánh số như trong văn bản, mỗi đoạn đều có trọng tâm. Đoạn thứ nhất khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lí độc lập của dân tộc; đoạn thứ hai tố cáo, lên án tội ác của giặc Minh; đoạn thứ ba kể lại diễn biến cuộc chiến từ mở đầu đến thắng lợi hoàn toàn, nêu cao sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa và sức mạnh của lòng yêu nước; đoạn thứ tư tuyên bố kháng chiến thắng lợi, rút ra bài học lịch sử.
Bình Ngô đại cáo xứng đáng là áng “thiên cổ hùng văn” còn bởi nó chứa đựng một tư tưởng lớn lao của Nguyễn Trãi. Xuyên suốt chiều dài tác phẩm là tư tưởng nhân nghĩa. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa trước hết là yên dân, giúp dân trừ bạo, nhân nghĩa là chống xâm lược. Đạo quân vì dân chiến đấu chống giặc ngoại xâm cũng chính là đạo quân nhân nghĩa:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo…
Trên lập trường nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã phơi bầy tội ác của các thế lực phản động và bè lũ xâm lược:
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tờ bán nước cảu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Chắc hẳn khi viết những dòng văn này, Nguyễn Trãi phải đau đớn và căm phẫn lắm! Tấm lòng nhân nghĩa của ông không thể dung thứ cho tội ác tây trời không thế thờ ơ tmđc tình cảnh muôn dân, bị đày doạ khủng khiếp như thế. Và càng xót thương muôn dân bao nhiêu, con người ấy lại càng mài sắc ý chỉ đấu tranh tiêu diệt quân xâm lược bấy nhiêu. Lúc này, nhân nghĩa trờ thành kim chỉ nam cho mọi hành động của đội quân điếu phạt:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Chiến đấu vì đại nghĩa nên đạo quân Lam Sơn luôn là đạo quân bách chiến bách thắng. Sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn là sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa hợp nhất với sức mạnh của lòng yêu nước. Thế cho nên, hai lần cất quân xâm lược nước ta cũng là hai lần giặc Minh nhận những đòn thua thảm bại:
Cứu binh hai đạo tan tành quay gót chẳng kịp;
Quán giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng.
Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng;
Trước sự cầu xin tha tội của quân giặc, quân ta cũng không truy sát đến cùng mà thể lỏng trời (…) mở đường hiếu sinh. Thực chất, hành động nhân nghĩa đó còn có cội nguồn từ suy nghĩ để dân được nghỉ ngơi dưỡng sức: Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Như vậy, nhân dân là động lực, là sức mạnh, là đích đến của mộc chiến và nhân nghĩa chính là tư tường bao trùm lên toàn bộ động lực, sức mạnh, mục đích đó. Có thể nói cả bài cáo là khúc ca hùng tráng về tư tưởng nhân nghĩa.
Trong bài cáo, Nguyễn Trãi đã dựng lên bức tranh toàn cảnh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Từ hình tượng đến ngôn ngữ, từ màu sắc đến âm thanh, nhịp điệu, tất cả đều mang đặc điểm bút pháp anh hùng ca.
Chiến thắng của ta, sức mạnh của ta, sự thất bại thảm hại của quân giặc và khung cảnh chiến trường, tất cả đều được biểu hiện bằng những hình tượng phong phú, đa dạng, đo bằng sự lớn rộng, kì vĩ của thiên nhiên:
– Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
– Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
– Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm;
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
– Ghé gớm thay sắc phong văn phải đổi,
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
Về mặt ngôn ngữ, trong nguyên văn cũng như bản dịch, các động từ mạnh liên kết với nhau thành những rung chuyển dồn dập, dữ dội. Các tính từ chỉ mức độ ở điểm tối đa tạo thành hai mảng trắng, đen đối lập, thể hiện khi thể chiến thắng của ta và sư thất bại của địch. Câu văn khi dài, khi ngắn, biến hoá linh hoạt trên nên nhạc điệu dồn dập, sảng khoái. Âm thanh giòn giã hào hùng như sóng trào,bão cuốn. Đó là nhịp điệu của triều dâng, sóng dậy hết lớp này đến lớp khác:
Ngày mười tám…
Ngày hai mươi…
Ngày hăm lăm…
Ngày hăm tám…
Đó là nhịp của gió lay, bão giật, trận này nối tiếp trận khác:
Gươm mài đá, / đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, / nước sông phải cạn.
Đánh một trận, / sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận, / tan tác chim muông…
Chính bút pháp nghệ thuật đậm chất anh hùng ca này kết hợp với tư tưởng lớn lao, vĩ đại đã mang đến tính hùng tráng cho Bình Ngô đại cáo, đưa bài cáo lên vị trí “thiên cổ hùng văn”.
Sau Bình Ngô dại cáo, văn học trung đại còn xuất hiện nhiều áng văn nghị luận khác nhưng có lẽ không sáng tác nào vượt lên được nó ở tính chất hùng tráng đó. Đọc áng “thiên cố hùng văn” này, chúng ta mới phần nào cảm nhận được sức mạnh hơn mười vạn quân từ mỗi trang nghị luận của nhà tư tưởng, nhà văn kiệt xuất Nguyễn Trãi.
Nguồn: Sưu tầm