Dàn ý
I. Mở bài
- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận
II. Thân bài
1. Mô típ “thân em”.
- Là mô típ quen thuộc được sử dụng để nói về tiếng khóc than của người phụ nữ không được làm chủ số phận của cuộc đời mình
- “Thân em” thường được so sánh với hai đối tượng:
+ Những vật nhỏ nhoi, tầm thường không đáng được quan tâm: "Thân em như giếng giữa đàng", "thân em như quả cau khô", "thân em như trái bần trôi",...
+ Những thứ tốt đẹp nhưng không được coi trọng: "Thân em như tấm lụa đào", "thân em như cánh hoa hồng", "thân em như đóa hoa rơi",...
=> Cách so sánh gợi lên thân phận nhỏ bé, bất hạnh của người phụ nữ.
=> Hai tiếng “thân em” thốt lên gợi cảm giác mềm mỏng, yếu đuối, rụt rè, khiêm nhường. Người phụ nữ tự than cho số phận mình
2. Người phụ nữ tự ý thức về vẻ đẹp của mình
- Hình ảnh so sánh “tấm lụa đào”
+ Nghĩa đen: "Tấm lụa đào" là một mảnh vải đẹp, mềm mại, có giá trị. Tấm lụa đào là món đồ trang sức trang trí cho con người hoặc đồ vật.
+ Nghĩa bóng: "Tấm lụa đào" gợi liên tưởng đến vẻ đẹp của người phụ nữ, mềm mại nuột nà. Trong cuộc sống, người phụ nữ cũng âm thầm, lặng lẽ chịu đựng nhiều bất công.
=> Đây là hình ảnh so sánh rất đẹp, rất thanh cao.
- So sánh với bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương để thấy sự đồng cảm của đời sau “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”
=> Người phụ nữ tự ý thức được vẻ đẹp hình thức và nội tâm của mình
- Từ láy “phất phơ”:
+ Miêu tả trạng thái của tấm lụa đào khi đứng trong gió
+ Nói đến sự vô định, nổi trôi, không tự làm chủ được số phận của người phụ nữ.
- Hình ảnh “chợ”
+ Nơi để trao đổi, giao lưu buôn bán, rất phức tạp.
+ Sự hiện diện của một xã hội phức tạp với đủ các loại người.
- Câu hỏi tu từ “biết vào tay ai”: Thể hiện sự chua xót, bất lực, vô vọng của người phụ nữ trước số phận.
=> Người phụ nữ nhỏ bé, bất hạnh không được làm chủ cuộc đời mình, ngay cả giá trị, phẩm hạnh cũng phụ thuộc vào người khác.
3. Nghệ thuật
- Sử dụng các hình ảnh so sánh, ẩn dụ gợi liên tưởng độc đáo.
- Sử dụng các từ láy, câu hỏi tu từ
- Giọng điệu xót thương, ngợi ca.
4. Ý nghĩa của bài ca dao
- Thể hiện sự trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ
- Nói nên niềm cảm thông, chia sẻ với số phận bấp bênh của người phụ nữ.
- Tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc của người phụ nữ
III. Kết bài
- Khái quát lại vấn đề
Bài mẫu
Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Đã có nhiều điển hình về sự bất hạnh đó. Một nàng Kiều gian truân, ngậm đắng nuốt cay khóc thầm cho cuộc đời mình. Một Vũ Nương chịu hàm oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn bao nhiêu, bao nhiêu được biết và không biết nữa. Đến nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi đã trở thành thông lệ. Còn phụ nữ, họ không có khả năng chống chọi nữa hay là sức phản kháng của họ đã yếu dần, yếu dần cho đến khi lời cáo buộc trở thành một lời than thân buồn tủi:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mảnh như khói tỏa vào không gian, như thân phận người phụ nữ vậy.
Ca dao là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác giả dân gian có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ nên mở đầu ca dao là một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng; "Thân em", từ "thân" gợi nên một cảm giác nhỏ nhoi, yếu đuối. Người con gái khi tự giới thiệu mình cũng rụt rè, khiêm nhường thốt lên hai tiếng "thân em". Thân phận của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận "bảy nổi ba chìm" của "thân em vừa trắng lại vừa tròn". Nguyễn Du thương xót thốt lên "Đau đớn thay phận đàn bà" và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú "Lặn lội thân cò khi quãng vắng". Còn ca dao lại nói về đời người con gái qua hình ảnh liên tưởng như dải "lụa đào". Biện pháp so sánh ở đây thật nhẹ nhàng và thanh thoát, thấm vào lòng người đọc, người nghe. Dải lụa đào mang dáng vẻ đẹp, nhẹ nhàng như chính tâm hồn và phẩm chất người phụ nữ, lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng để may mặc, trang trí thêm cho người hay khung ảnh. Và phải chăng người phụ nữ trong cuộc đời cũ cũng vậy, họ là một món đồ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công. Dải lụa đào là một hình ảnh so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu. Vì thế câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ vắt ra mà thành:
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Dải lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán người mua. Liệu ai có con mắt xanh để biết giá trị của tấm lụa đào. Từ "phất phơ" không có hướng cố định cũng như "hoa trôi man mác biết là về đâu". Bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, không thể chủ động định được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày tự hỏi cuộc đòi mình sẽ "vào tay ai". Một Gã Giám Sinh buôn sắc bán hương. Một Trương Sinh đa nghi, ích kỉ hay là một Kim Trọng hào hoa phong nhã? Họ hoàn toàn biết về số phận của mình cũng như mảnh lụa mềm nhẹ kia không biết có được một người tri kỉ chọn lựa hay không? Trong suốt cuộc đời mình, người phụ nữ xưa bị đẩy vào trạng thái thụ động, chỉ quanh quẩn trong nhà và quanh quẩn vói việc thờ chồng, thờ cha, theo con. Dải lụa bay nhè nhẹ trong gió, phó mặc ngọn gió đưa mình đến một bàn tay thô bạo. Bay vào đôi mắt hữu tình, phong nhã. Câu hỏi buông ra "biết vào tay ai" thật tinh tế và khéo léo, nó tạo cho người đọc một cảm giác xót xa. Câu hỏi đó có lẽ đã bám suốt cuộc đời người con gái.
Toàn bộ câu ca dao là một lời than. Nó được sinh ra từ số phận cam chịu của người phụ nữ thời phong kiến. Không một ai trong số những tác giả vô danh sáng tác câu ca dao trên lại có thể thanh thản khi nghĩ về đứa con tinh thần của mình. Câu ca dao là sản phẩm quá trình đông tụ những giọt nước mắt ngược vào lòng. Từng lời từng chữ trong câu ca toát lên ý ngậm ngùi. Nước mắt đã chảy. Câu ca dao là tiếng lòng của bao nhiêu người, là tiếng than của bao nhiêu thân phận!
Với cách so sánh thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc. Tưởng chừng như những đám mây đang quấn lấy cảm xúc của con người, ôm trọn trong lòng nó tâm trạng của những người phụ nữ để rồi dần dần len lỏi vào từng ngóc ngách của dải lụa đào đang phất phơ giữa chợ. Bao nhiêu câu hát than thân của người phụ nữ được sáng tác và lan truyền nhưng câu nào cũng có sự liên hệ, liên tưởng đến những thứ nhỏ bé mỏng manh như: nước, hạt mưa, miếng cau, trái bầu... Vì thế câu ca dao đã lột tả được tâm trạng của hầu hết giới nữ: người thiếu nữ vừa tới tuổi trâm cài lược giắt đã lo âu cho số phận của mình, lo ngại cho hạnh phúc hẩm hiu của mình. Tất cả tạo nên một dòng cảm xúc buồn thương không ngừng chảy từ người này sang người khác, từ đời này sang đời khác vào không gian một tiếng vang vọng mãi. Người phụ nữ thời phong kiến đã chịu nhiều đau khổ, chấp nhận làm đẹp cho những người xung quanh. Số phận của họ như dải lụa bay trong gió không biết sẽ về đâu. Câu ca dao trong đề là lời than thân yếu ớt. Phải chăng người phụ nữ xưa cũng từng ao ước:
Ví đây đôi phận làm trai được.
Những ước muốn đó tồn tại được bao lâu hay là lại phải quay trở về với những câu than thân bất lực?
(Lê Huỳnh Phương - Trường PTTH Bùi Thị Xuân)