Dàn ý Thuyết minh một thể loại văn học: thơ Thất ngôn bát cú Đường luật (5 mẫu)

Dàn ý thuyết minh về thể thơ thất ngôn bát cú hay nhất  1

I. Mở bài:

- Giới thiệu: Trong văn học Việt Nam, đặc biệt là văn học trung đại, thế thơ thất ngôn bát cú Đường luật chiếm một vị trí quan trọng.

-Các nhà thơ lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều có những bài thơ hay viết theo thể thơ này.

II. Thân bài:

- Giới thiệu xuất xứ của thể thơ: Xuất hiện từ đời Đường - Trung Quốc và được thâm nhập vào Việt Nam từ rất lâu.

- Nêu đặc điểm của thể thơ:

+ Gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ.

+ Bài thơ gồm bốn phần đề - thực - luận - kết.

+ Phần đề gồm hai câu đầu, giới thiệu chung về vấn đề cần nói tới.

+ Hai câu 3-4 gọi là phần thực, có nhiệm vụ tả thực vấn đề.

+ Hai câu 5-6 gọi là phần luận. Phần này cũng đối nhau, có nhiệm vụ bàn luận, mở rộng vấn đề, làm cho ý thơ sâu sắc hơn.

+ Hai câu cuối gọi là phần kết, với nhiệm vụ kết thúc, tổng kết vấn đề.

+ Bài thơ Đường luật gieo vần ở tiếng cuối câu 1 - 2 - 4 - 6 - 8 và là vần bằng.

+ Bài thơ còn có niêm, câu 1 dính với câu 8; câu 2 với câu 3; câu 4 với câu 5; câu 6 với câu 7. Niêm có nghĩa là sự giống nhau về B - T theo nguyên tắc: “Nhất, tam, ngũ bất luận; Nhị, tứ, lục phân minh”.

+ Thông thường, thơ thất ngôn bát cú Đường luật ngắt nhịp 3/4 hoặc 4/3, đôi khi ngắt nhịp theo 2/2/3 hoặc 3/2/2 tùy theo mỗi bài.

- Ưu - nhược điểm: Thơ thất ngôn bát cú Đường luật ngắn gọn; hàm súc, cô đọng; giàu nhạc điệu; lời ít, ý nhiều nhưng khá gò bó, đòi hỏi niêm, luật chặt chẽ nên không dễ làm.

- Trong quá trình làm, nên lấy các ví dụ từ các bài thơ đã học để minh họa.

III. Kết bài:

- Nêu giá trị của thể thơ này.

Dàn ý thuyết minh về thể thơ thất ngôn bát cú chi tiết nhất  2

1. Mở bài:

- Giới thiệu thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật hay còn gọi là thơ Đường luật.

2. Thân bài:

- Giới thiệu xuất xứ của thể thơ Đường luật: Xuất hiện từ đời Đường - Trung Quốc và được thâm nhập vào Việt Nam từ rất lâu.

- Đặc điểm của thể thơ Đường luật:

+ Gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ.

+ Bài thơ gồm bốn phần đề - thực - luận - kết.

+ Phần đề gồm hai câu đầu, giới thiệu chung về vấn đề cần nói tới.

+ Hai câu 3-4 gọi là phần thực, có nhiệm vụ tả thực vấn đề.

+ Hai câu 5-6 gọi là phần luận. Phần này cũng đối nhau, có nhiệm vụ bàn luận, mở rộng vấn đề, làm cho ý thơ sâu sắc hơn.

+ Hai câu cuối gọi là phần kết, với nhiệm vụ kết thúc, tổng kết vấn đề.

+ Bài thơ Đường luật gieo vần ở tiếng cuối câu 1 - 2 - 4 - 6 - 8 và là vần bằng.

+ Bài thơ còn có niêm, câu 1 dính với câu 8; câu 2 với câu 3; câu 4 với câu 5; câu 6 với câu 7. Niêm có nghĩa là sự giống nhau về B - T theo nguyên tắc: “Nhất, tam, ngũ bất luận; Nhị, tứ, lục phân minh”.

+ Thông thường, thơ thất ngôn bát cú Đường luật ngắt nhịp 3/4 hoặc 4/3, đôi khi ngắt nhịp theo 2/2/3 hoặc 3/2/2 tùy theo mỗi bài.

- Ưu - nhược điểm: Thơ thất ngôn bát cú Đường luật ngắn gọn; hàm súc, cô đọng; giàu nhạc điệu; lời ít, ý nhiều nhưng khá gò bó, đòi hỏi niêm, luật chặt chẽ nên không dễ làm.

- Trong quá trình làm, nên lấy các ví dụ từ các bài thơ đã học để minh họa.

3. Kết bài:

- Thơ Thất ngôn bát cú Đường luật có vị trí quan trọng là một trong những thể thơ hay góp phần vào những thành tựu rực rỡ về thơ ca của nền văn học.

Dàn ý thuyết minh về thể thơ thất ngôn bát cú hay nhất  3

Mở bài:

Giới thiệu thể thơ thất ngôn tứ tuyệt

Thân bài:

Nêu đặc điểm của thể thơ.

- Mỗi bài có bốn câu, mỗi câu có bảy tiếng.

- Số dòng số chữ trong câu trong bài bắt buộc không được thêm bớt

- Luật bằng trắc: có bài gieo vần bằng hoặc gieo vần trắc nhưng bằng là phổ biến

- Cách đối: đối hai câu đầu hoặc hai câu cuối, có bài vừa đối hai câu đầu, vừa đối hai câu cuối hoặc không có đối.

- Cách hiệp vần: Thường chữ cuối câu một bắt vần với chữ cuối câu 2,4. Chữ cuối câu hai bắng vần với chữ cuối câu cuối.

- Bố cục:

+ 4 phần: khai, thừa, chuyển, hợ

+ 2 phần: 2 câu đầu tả cảnh, hai câu cuối tả tình

- Những nhận xét, đánh giá chung

- Ưu điểm: là thể thơ Đường có sự kết hợp hài hoà cân đối cổ điển nhạc điệu trầm bổng đăng đối nhịp nhàng. Có nội dung rất đa dạng và phong phú.

Nhược điểm: Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt có thi pháp chặt chẽ, nghiêm cách, vô cùng đa dạng nhưng không hề đơn giản, số câu số chữ bắt buộc không được thêm bớt.

Kết bài:

Nêu vị trí của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt: Có vị trí quan trọng là một trong những thể thơ hay góp phần vào những thành tựu rực rỡ về thơ ca của nền văn học.

Dàn ý thuyết minh về thể thơ thất ngôn bát cú chi tiết nhất  4

I. Mở bài:

Văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX trở về trước, có một thể thơ được các nhà thơ nước ta thường sử dụng để sáng tác, đó là thể thơ thất ngôn bát cú. Đây là thể thơ xuất hiện từ đời Đường bên Trung Quốc truyền sang nước ta rất sớm và trở thành thể thơ quen thuộc của các nhà thơ nước ta.

II. Thân bài:

1. Nguồn gốc thể thơ:

Thơ thất ngôn bát cú thật ra là loại cổ thi xuất hiện rất sớm bên Trung Quốc, đến đời Đường mới được các nhà thơ đặt lại các quy tắc cho cụ thể, rõ ràng và từ đó phát triển mạnh mẽ. Đây là loại thơ mà mỗi bài thơ thường có tám câu, mỗi câu 7 chữ, tuân theo các quy tắc hết sức chặt chẽ:

2. Các quy tắc:

a/ Dàn ý: thông thường chia làm 4 phần:

_ Đề (câu 1 – 2): Câu thứ nhất là câu phá đề (mở ý cho đầu bài). Câu thứ hai là câu thừa đề (tiếp ý của phá đề để chuyển vào thân bài).

_ Thực (câu 3 – 4): Còn gọi là cặp trạng, nhiệm vụ giải thích rõ ý chính của đầu bài.

_ Luận (câu 5 – 6): Phát triển rộng ý đề bài.

_ Kết (hai câu cuối): Kết thúc ý toàn bài.

b/ Vần: thường được gieo ở cuối câu 1, 2, 4, 6, 8.

c/ Ngắt nhịp: thường ngắt nhịp 2/2/3; 4/3.

d/ Đối: Có 2 cặp đối: Câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6, đối ở 3 mặt: đối thanh, đối từ loại và đối nghĩa. Nghĩa có thể đối một trong hai ý: đối tương hổ hay đối tương phản.

e/ Niêm: Câu 1 niêm với câu 8, 2 – 3, 4 – 5, 6 – 7, tạo âm điệu và sự gắn kết giữa các câu thơ với nhau.

f/ Luật bằng trắc: thường căn cứ vào tiếng thứ hai trong câu một. Nếu tiếng thứ hai là thanh bằng ta nói bài thơ ấy viết theo luật bằng; nếu tiếng thứ hai là thanh trắc ta nói bài thơ viết theo luật trắc. Luật bằng trắc trong từng câu quy định:

Nhất, tam, ngũ bất luận.

Nhị, tứ, lục phân minh.

_ Chẳng hạn bài thơ viết theo luật bằng sau:

Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu.

Câu 1: Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,

B T B

Câu 2: Chạy mỏi chân thì hãy ở tù,

T B T

Câu 3: Đã khách không nhà trong bốn biển,

T B T

Câu 4: Lại người có tội giữa năm châu.

B T B

.................................................. .......

_ Bài thơ viết theo luật trắc:

Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan

Câu 1: Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

T B T

Câu 2: Cỏ cây chen lá, đá chen hoa

B T B

Câu 3: Lom khom dưới núi, tiều vài chú

B T B

Câu 4: Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

T B T

.................................................. ...........

3. Các biệt thể của thể thơ:

Trong quá trình sử dụng, các nhà thơ đã sáng tạo thêm nhiều biệt thể mới của thể thơ Đường luật như:

_ Tiệt hạ: ý, lời mỗi câu thơ đều lơ lửng tuỳ người đọc suy nghĩ.

_ Yết hậu: thơ tứ tuyệt mà câu cuối chỉ có một vài chữ.

_ Thủ vĩ ngâm: câu tám lập lại y hệt câu một.

4. Đánh giá:

Tuy thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật phải tuân thủ theo những nguyên tắc chặt chẽ khó có thể làm được những bài thơ hay. Tuy nhiên nhiều nhà thơ Việt Nam như Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,... đã sử dụng thể thơ Đường luật đã để lại nhiều bài thơ có giá trị và trong quá trình sử dụng đã dân tộc hoá thể thơ này về nhiều phương diện.

III. Kết bài:

Ngày nay trong quá trình phát triển văn học, thể thơ Thất ngôn bát cú đường luật không còn được người làm thơ ưa thích sử dụng, do những quy tắc chặt chẽ của nó không đáp ứng được những cách thể hiện phong phú đa dạng tâm hồn tình cảm của người yêu thơ. Tuy nhiên, thể thơ Thất ngôn bát cú đường luật vẫn là thể thơ có một giá trị bền vững lâu dài trong nền văn học Việt Nam.

Dàn ý thuyết minh về thể thơ thất ngôn bát cú hay nhất  5

I. Mở bài

- Trong văn chương thời trung đại của nước ta, thể thơ phổ biến là thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Thể thơ này được quy định chặt chẽ từ đời Đường, Trung Quốc, thường được gọi là thơ luật, để phân biệt với thơ cổ phong. Thơ Đường luật thất ngôn bát cú chẳng những là một loại văn bài thi cử ngày xưa mà còn là thể loại sáng tác chủ yếu được các nhà thơ nước ta ưa chuộng.

- Ta hãy thuyết minh thể thơ trên với bài minh họa Cuốc kêu cảm hứng của Nguyễn Khuyến:

Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ

Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ?

Năm canh máu chảy đêm hè vắng,

Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.

Có phải tiếc xuân mà đứng gọi

Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.

Ban đêm ròng rã kêu ai đó,

Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.

II. Thân bài.

Bài thơ được hình thành dựa trên một điển cố và một biểu tượng: điển cố vua Thục khi chết hóa thành chim cuốc, biểu tượng tiếng kêu chim cuốc thể hiện lòng yêu nước. Đối với Nguyễn Khuyến, tiếng cuốc kêu khơi gợi một tâm sự, một tâm trạng: tâm sự đau xót vì nước mất, tâm trạng bâng khuâng, ngơ ngẩn. Đặc biệt là suốt bài thơ không có một chữ “cuốc” nào, nghĩa là không phạm đề. Nhưng ta vẫn hiểu, nói về tiếng kêu của chim cuốc là có kí thác tâm sự yêu nước thầm kín trong bài thơ.

Trong thơ, thanh âm giữ vai trò quan trọng hàng đầu, thể hiện nhạc điệu thơ, tức là tiết tấu và vần, sau đó là ngôn ngữ thơ.

A. Tiết tấu.

1. Yếu tố đầu tiên của tiết tấu là lượng thơ.

Mỗi dòng thơ trong bài Cuốc kêu cảm hứng đều có 7 lời (thất ngôn) và mỗi dòng thơ đều trọn ý; bài thơ gồm 8 câu thơ (bát cú). Chính lượng thơ cùng với những yếu tố thi luật sẽ giúp ta phân biệt thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú với các thể thơ khác.

2. Trên độ dài của lượng thơ, tiết tấu được thực hiện bằng cách phân nhịp. Các dòng thơ trong bài thất ngôn bát cú phân theo nhịp chẵn - lẻ. Hai câu 3, 4 có nhịp 4/3:

Năm canh máu chảy / đêm hè vắng,

Sáu khác hồn tan / bóng nguyệt mờ.

Để không trùng lặp, hai câu kế tiếp dù vẫn có nhịp chẵn - lẻ nhưng được thay đổi để không trùng nhịp với hai câu trên, nên có nhịp 2/2/3:

Có phải / tiếc xuân / mà đứng gọi

Hay là / nhớ nước / vẫn nằm mơ.

3. Nhịp thơ chẳng những được tổ chức theo lượng thơ, mà chủ yếu là theo luật phối thanh, gồm luật bằng trắc và phép niêm.

- Từng câu trong bài thơ phải theo luật bằng trắc nhất định. Đó là cách sắp xếp đúng vị trí những lời mang thanh bằng, trắc trong câu thơ:

Nếu lời thứ 2, thứ 6 thanh bằng thì lời thứ 4 thanh trắc, câu thơ có luật bằng:

Năm canh máu chảy đêm hè vắng,

B           T       B

Nếu lời thứ 2, thứ 6 thanh trắc thì lời thứ 4 thanh bằng, câu thơ có luật trắc:

Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.

T        B          T

Còn luật thơ toàn bài càn cứ vào luật của câu 1: bài Cuốc kêu cảm hứng có luật trắc vì câu 1 theo luật trắc.

Ngoài ra luật bằng trắc của các dòng thơ hòa hợp, cân xứng nhau tạo thành phép niêm. Trong bài bát cú từng đôi câu thơ niêm với nhau: câu 1 niêm câu 8, câu 2 niêm câu 3 câu 4 niêm câu 5, câu 56 niêm câu 7.

Chính luật bằng trắc va phép niêm tạo nên sự hài hòa về nhạc điệu, góp phần tạo sức rung cảm cho bài thơ khi được ngâm lên.

4. Vừa tạo nên sự cân đối cho bài thơ, vừa cân đối ý thơ là phép đối. Đó là sự bố trí hài lòng thơ song song vô số lời, đối lập về bằng trắc nhưng tương đồng về cú pháp. Trong thơ Đường luật thất ngôn bát cú, phép đối được thực hiện nghiêm ngặt ở hai câu thực (3, 4):

Năm canh/máu chảy / đêm hè / vắng,

Sáu khắc /  hồn tan / bóng nguyệt / mơ.

Ý thơ đối nhau, cùng bàn về tâm sự. Câu trên hoài tưởng nơi yên vui ngày xưa mà gợi nhớ. Câu dưới nằm mơ thấy đất nước thanh bình ngày cũ mà xót xa.

5. Bố cục của bài Đường luật thất ngôn bát cú gồm 4 đoạn: đề, thực, luận, kết. Trong bài thơ Cuốc kêu cảm hứng này:

- Câu phá đề (1) nêu cảm xúc mở đầu qua tiếng kêu (của chim cuốc) gợi nỗi sầu khắc khoải.

Câu phá đề (2) gợi điển cố Thục Đề - đỗ quyên để đưa xuống ý các câu dưới.

Hai câu thực (3, 1) tả tiếng kêu bi thương và cái chết thảm thiết của chim cuốc.

Hai câu luận (5, 6) bàn về tâm sự tiếc xuân và nhớ nước.

Hai câu kết (7, 8) nói lên cái tình cua người nghe để kết thúc bài.

B. Vần thơ.

Vần là hiện tượng hiệp các khuôn vần giữa các âm tiết trên những dòng thơ, có tác dụng liên kết các dòng thơ, tạo nên sự hòa âm, đồng thời giúp ta dễ nhớ, dễ thuộc thơ.

Bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú chỉ gieo một vần (độc vận) cho toàn bài, ở âm tiết cuối dòng 1 và các dòng chẵn 2, 4, 6, 8. Ta thấy bài Cuốc kêu cảm hứng chỉ gieo một vần chính “ơ” trong tiếng lơ u hoài, chuyên xuống trong các tiếng giờ, mờ trầm lắng, rồi đưa lên mất hút trong những tiếng mơ, ngơ chơi vơi...

C. Ngôn ngữ.

Ngôn ngữ và cú pháp bài thơ cùng ghi nhận nhiều nét đặc sắc. Về ngôn ngữ, Nguyễn Khuyến sử dụng những trạng từ gợi cảm xúc: khắc khoải, lửng lơ, ròng rã, ngẩn ngơ. Nhà thơ cũng lược bỏ những giới từ, chỉ giữ lại một chuỗi thực từ: năm canh, máu cháy, đêm hè vắng... càng làm tăng thêm cảm giác thê thảm về cái chết của chim cuốc. Biện pháp đảo trang trong các câu thơ 1, 3, 4 thể hiện tâm trạng bâng khuâng, ngơ ngẩn...

III. Kết bài.

Thơ làm ta xúc cảm vì ý và rung động vì lời. Khi cảm thông tâm sự của nhà thơ, thì trong một chừng mực nào đó, ta rung động với những vần thơ êm ái, lời thơ gợi cảm, âm điệu du dương trầm bổng. Đó chính là sự đóng góp của nhạc điệu cho bài thơ.

Tâm sự ưu quốc của Nguyễn Khuyến kí thác vào tiếng kêu của chim cuốc đã làm đau lòng một lớp người đồng cảnh ngộ với nhà thơ, và có lẽ cho tất cả mọi người dân mất nước được diễn đạt bằng thể thơ niêm luật chặt chẽ mà phóng khoáng, gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc.