Bình giảng bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”của Bác Hồ ( 3 mẫu)

Bình Giảng Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó  1

"Ôi sáng xuân nay, Xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về... im lặng. Con chim hót

Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ...".

(Theo chân Bác - Tố Hữu)

Sau 30 năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, đầu năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật về tới Pác Bó, Cao Bằng. Giây phút ấy vô cùng thiêng liêng và cảm động.

Hang Pác Bó đã trở thành nơi sống và hoạt động bí mật của Người. Bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" được Bác Hồ viết vào tháng 2 năm 1941 theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật:

"Sáng ra bờ suối, tối vào hang,

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng;

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

Cuộc đời cách mạng thật là sang!"

Bài thơ phản ánh hoạt động phong phú, sôi nổi, phong thái ung dung tự tại và tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ vĩ đại trong hoàn cảnh bí mật khó khăn gian khổ.

Câu thơ mở đầu gợi lên cuộc sống hoạt động bí mật của nhà thơ vào những ngày đầu mới về nước đang "nhóm lửa". Hai vế tiểu đối đầy ấn tượng:

"Sáng ra bờ suối tối vào hang".

Câu thơ có thời gian, không gian và hành động. Thời gian là "sáng" và "tối": không gian là "suối" và "hang", hoạt động là "ra" và "vào". Mọi hoạt động đã trở thành nền nếp, từ sáng đến tối, từ suối đến hang, từ ra đến vào, khi cách mạng còn trứng nước, hoạt động chính trị gây dựng phong trào là chính, còn bí mật và nhiều khó khăn. Người chiến sĩ vĩ đại của dân tộc đã sống và làm việc tại Pác Bó: "sáng ra bờ suối tối vào hang". Quy luật vận động ấy thể hiện một tinh thần làm chủ hoàn cảnh rất chủ động và lạc quan.

Câu thơ thứ hai, ba chữ "vẫn sẵn sàng" có hai cách hiểu khác nhau rất lí thú. Sống và hoạt động bí mật nơi suối rừng hang động chí có cháo bẹ rau măng nhưng sẵn có, đủ dùng ở nơi suối hang này. Đằng sau vần thơ là nụ cười của một con người lão thực, gian khổ khó khăn vẫn lạc quan yêu đời. Sau này, ý tưởng "giàu cố hào phóng" này, được Người nhắc lại trong bài ''Cảnh rừng Việt Bắc" đầu xuân 1947:

"Khách đến thì mời ngô nếp nướng,

Săn về thường chén thịt rừng quay.

Non xanh nước biếc tha hổ dạo,

Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say...".

"Vẫn sẵn sàng", "tha hồ dạo", "mặc sức say",... là những cách nói "sang trọng", hóm hỉnh và yêu đời.

Cách hiểu thứ hai: Mặc dù thiếu thốn khó khăn, phải ăn cháo bẹ rau măng, nhưng tinh thần cách mạng vẫn hăng say, vẫn nhiệt tình. Gian khổ biết bao, nhưng với tinh thần "vẫn sẵn sàng", Người bền bỉ sáng niềm tin "nhóm lửa":

"Ai hay ngọn lửa trong hang núi

Mà sáng muôn lòng, vạn kiếp sau!"

(Theo chân Bác)

Khác với người xưa "công thành, thân thoái", mai danh ẩn tích ở chốn lâm tuyền, Hồ Chí Minh đã sống và chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp:

"Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng".

Đất nước cần, Bác viết "Đường cách mệnh". Phong trào và cán bộ cần, Người "dịch sử Đảng". Hình ảnh "bùn đá chông chênh" không chỉ nói lên khó khăn thiếu thốn chồng chất mà còn biểu lộ tinh thần phấn đấu hi sinh vì sự thăng lợi của cách mạng.

Câu cuối bài thơ đọc lên nghe rất thú vị. Một câu cảm thán vang xa:

"Cuộc đời cách mạng thật là sang!"

"Sang" nghĩa là sang trọng, cao sang. Một cách nói, một lối sống, một quan niệm nhân sinh và ứng xử tuyệt đẹp. Vượt lên trên gian khổ, khắc nghiệt là sang. Chỉ có "cháo bẹ rau măng", chỉ có "bàn đá chông chênh" mà vẫn sang. Sang vì lạc quan tin tưởng về con đường cách mạng đánh Nhật đuổi Tây nhất định thắng lợi. Sang vì lí tưởng, vì đời sống tâm hồn phong phú, vì ung dung tự tại. Nhà thơ Tố Hữu đã có vần thơ rất hay nói về cái sang của Bác Hồ kính yêu:

"Mong manh áo vải hồn muôn trượng,

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn".

(Bác ơi)

"Tức cảnh Pác Bó" là một bài thơ hồn nhiên, giản dị mà sâu sắc, đẹp. Thơ là tâm hồn, là cuộc đời, là cách ứng xử của Bác Hồ. Bài tứ tuyệt viết về Pác Bó đã vượt qua một hành trình 60 năm. Nó như một chứng tích lịch sử về những ngày tháng gian khổ của cách mạng Việt Nam và của lãnh tụ nơi suối lạnh hang sâu đầu nguồn. Nó gợi lên trong lòng mỗi chúng ta bài học về tinh thần lạc quan yêu đời, biết sống và hướng về một lí tưởng cao đẹp.

Bình Giảng Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó  2

Sáng ra bờ suối tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đa chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng quá là sang

Đọc thơ Hồ Chí Minh, thi sĩ Xuân Diệu nhận xét: rất dễ mà cũng lại rất khó. Dễ vì thơ Bác nói toàn những điều gần gũi, chẳng có gì xa là hay cầu kì, rắc rối. Nhưng lại rất khó vì không phải ai cũng hiểu được những ý tứ sâu xa và cảm nhận được giá trị nhiều mặt của bài thơ. Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ như thế.

Sáng ra bờ suối tối vào hang

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng

bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang

Tháng 2 năm 1941 Bác về Pác Bó và đến tháng 5-1941, Người chủ toạ Hội nghị trung ương lần thứ tám, thành lập Mặt trận Việt Minh, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa. Bài thơ trên nằm trong chùm thơ Pác bó được viết vào thời gian này.

Trong "Con đường dẫn tôi đến với Bác", Đặng Văn Cáp có nhắc đến địa danh Pác Bó: "Hang Pác Bó âm u, ẩm thấp nhưng địa hình chung quanh thật hùnh vĩ lại có những nét rất nên thơ. (...) những ngọn núi chót vót xanh rì với dây leo trên những cành cây cổ thụ rũ xuống dòng suối nước trong xanh rì rào chảy...". Cảnh đẹp ấy đã gợi nguồn thi tứ cho Bác song chính cảm quan cách mạng lại đóng vai trò quyết định cho việc tạo nên hồn cốt các bài thơ. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập trong thơ Bác là ở đó, cổ điển và hiện đại, nghệ sĩ và chiến sĩ, tất cả hài hoà, thăng hoa trong một nghệ thuật thơ điêu luyện.

Bài thơ mở ra bằng việc nói tới cảnh vật:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Câu thơ bảy chữ bị ngắt làm đôi với hai từ chỉ thời gian: sáng và tối đặt đầu hai vế. Sáng thì ra bờ suối còn tối thì vào hang. Nhịp thơ đều đặn cùng tiểu đối cho phép ta cảm nhận sự hoạt động dường như đã trở thành nếp, thường nhật, nhịp nhàng. Khai đề một bài thơ tứ tuyệt bằng cảnh vật, Hồ Chí Minh đã bắt được vào mạch truyền thống của thơ ca cổ điển. Nhưng thay vì miêu tả rõ đặc điểm, đặc tính của cảnh như thơ xưa, Người chỉ đơn thuần nhắc đến suối, đến hang, khắc sâu ấn tượng về địa điểm. Cũng như thế, "sáng" và "chiều" là thời gian biểu gắn với hoạt động thực tế của người làm cách mạng chứ không phải thứ thời gian đầy tính ước lệ và gợi cảm của người xưa. Đâu phải Bác thờ ơ, hờ hững với thiên nhiên. Một con người dù "bị trói chân tay" vẫn cảm nhận được "chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng" chắc chắn phải có tôm hồn nhạy cảm và phong phú. Chỉ có điều, ở đây, yêu cầu của công việc cách mạng đã được Bác đặt cao hơn mà thôi.

Về cấu trúc câu thơ, có người muốn sửa lại thành: "tối ra bờ suối, sáng vào hang" mới phù hợp với tình hình giữ bí mật của Cách mạng lúc bấy giờ. Nghệ thuật là sự phản ánh hiện thực qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Thơ ca đòi hỏi phải bắt dễ sâu vào đời sống song không có nghĩa photocoppy lại y nguyên thực tế ấy. Nếu đảo lại vị trí của hai từ chỉ thời gian, câu thơ se chỉ dừng lại ở mức độ làm tư liệu lịch sử. Chính cái hành động "tối vào hang", "sáng ra bờ suối" mới thể hiện được đặc trưng luôn hướng ra ánh sáng, sự sống, tương lại của hình tượng thơ Bác. Đó chẳng phải là niềm tin, là tinh thần lạc quan cách mạng hay sao?

Nếu câu một có tính chất nêu sự việc một cách khái quát thì câu hai lại đi vào chi tiết cụ thể:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Hình ảnh thơ cứ gợi ta nhớ về cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của Bạch Vân cư sĩ thuở xưa:

Thu ăn mặng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

(Chín mươi)

Cháo bẹ là thứ cháo nấu bằng ngô nếp non, cùng với rau măng vốn là hai thức ăn "đặc sản" của chốn núi rừng. Trong thơ của mình, có lần Bác đã nhắc đến cái thú của cuộc sống giản dị nơi đây:

Đặt vào mạch chung đó, câu thơ của Hố Chí Minh hàm chứa tình cảm mến yêu với thiên nhiên quê hương đất nước. Phục vụ cho cuộc sống của người làm cách mạng nơi đây, cháo bẹ, rau măng "vẫn sẵn sàng", nghĩa là đầy đủ, chưa bao giờ thiếu thốn. Cái đầy đủ của thực tế hay là sự đầy đủ của một tâm hồn chiến sĩ- nghệ sĩ mang vóc dáng của những người "an bần lạc đạo" thuở xưa?

Từ trước đến nay, có không ít người cho rằng Bác đang nói về cuộc sống sinh hoạt thiếu thốn, vất vả, khó khăn của người chiến sĩ cách mạng trong những ngày ở chiến khu Việt Bắc. Và cái "vẫn sẵn sàng" kia chính là tư thế, là tinh thần chiến đấu không bao giờ chịu chồn chân, lùi bước. Văn chương là sự đồng sáng tạo. Bởi vậy sẽ thật khiên cưỡng nếu bắt hình ảnh thơ chỉ có duy nhất một cách hiểu đúng. Dẫu hiểu theo cách nào thì câu thơ cũng phơi phới niềm lạc quan, tin tưởng.

Tôi nhớ mãi câu nói của Bu-da-ren: "Với Bác Hồ không có nơi nào là khu rừng cám của thi ca". Quả vậy, hang Pác Bó, suối Lê-nin, chao bẹ, rau măng- những vật thật của chiến khu Việt Bác đi vào thơ thạt nhuần nhị, tự nhiên. Chúng vừa là hình ảnh của thực tế vừa mang đậm khí vị thanh cao của cuộc sống những bậc tiên phong đạo cốt. Cái hay của thơ Hồ chí Minh là ở chỗ hình tượng thơ cứ đi về giữa hai thé giới đó. Như một tất yếu, cái "bàn đa chông chênh" xuất hiện ở câu chuyển cũng mang đặc điểm này.

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Hình tượng thơ Bác bao giờ cũng thế, từ cụ thể mà vươn lên tầm khái quát, trở thành những biểu tượng. Cái chông chênh của bàn đá hay cũng là cái chông chênh của tình hình cách mạng dân tộc?

Giữa khung cảnh trời đát có núi non, suối nguồn, bàn thạch, người xưa thường uống rượu, múa vài ba đường kiếm hay san thi, định kinh, "Kinh Dịch chấm son mài". Còn Hồ Chí MInh lại "dịch sử Đảng"- công việc lớn lao, có ảnh hưởng lớn tới phong trào cách mạng nước ta. Cách nói đầy khiêm tốn. Thực chất việc "dịch" của Bác là tìm tòi, sáng tạo, nối kết con đường đi của cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.

Câu thơ mang hàm ý đối lập. Dẫu bàn đá có chông chênh, dẫu tính thế có khó khăn, thử thách, người chiến sĩ Cách mạng vẫn ung dung, tự tin, vẫn kiên trì đi theo con đường mà Đảng đã chọn.

Câu kết bài thơ đầy bất ngờ:

Cuộc đời cách mạng quá là sang

Đó là cái sang trọng toát ra từ sự dư giả về quyết tâm và tinh thần. Câu thơ ngụ một nét cười hóm hỉnh đầy lạc quan của người chiến sĩ cách mạng.

"Tức ảnh Pác Bó" là bài thơ giản dị pha lẫn giọng vui đùa, hóm hỉnh. Qua bài thơ, ta thấy được tư thế ung dung của Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh cuộc sống cách mạng gặp phải nhiều gian khổ. Mặt khác, bài thơ cũng cho thấy sự gắn bó sâu sắc giữa tâm hồn nhà thơ với thiên nhiên, quê hương, đất nước.

Bình Giảng Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó  3

Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ tứ tuyệt tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ thể hiện niềm vui, niềm tin mãnh liệt và nghị lực phi thường của Bác trong hoàn cảnh sống và làm việc giữa núi rừng Việt Bắc, sau mấy chục năm trời xa cách đất nước và dân tộc.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang,

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.

Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,

Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Thơ tứ tuyệt thường ngắn gọn, hàm súc nên muốn hiểu ý thơ, trước hết chúng ta phải nắm được hoàn cảnh ra đời của bài thơ.

Tháng 6 - 1940, tình hình thế giới có nhiều biến động lớn. Thực dân Pháp đầu hàng phát xít Đức. Lúc này, Bác đang hoạt động bí mật ở Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc). Tháng 2 năm 1941, Bác về nước và chọn Pác Bó làm căn cứ để từ đây trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Hoàn cảnh sống của Bác lúc này vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Trời rét, sức khỏe yếu nhưng Bác phải ở trong cái hang nhỏ ẩm ướt, tối tăm. Ăn uống hết sức kham khổ, thức ăn hằng ngày phần lớn là cháo bột ngô và măng rừng. Bàn làm việc của Bác là một phiến đá ven suối.

Nhưng thiếu thốn, gian khổ không làm Bác bận lòng. Bác dành trọn tâm huyết để lãnh đạo phong trào cách mạng nên quên hết mọi gian nan; một mực phấn chấn, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.

Ba câu đầu của bài thơ tả cảnh sống và làm việc của Bác. Câu thứ nhất nói về nơi ở, câu thứ hai nói về cái ăn, câu thứ ba nói về phương tiện làm việc. Câu thứ tư đậm chất trữ tình, nêu cảm tưởng của Bác về cuộc sống của mình lúc bấy giờ. Trong hiện thực gian khổ, khó khăn, tâm hồn Bác vẫn ngời sáng một tinh thần cách mạng.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Cái hang Bác ở có tên là hang Cốc Bó, chỉ khoảng hơn một mét vuông dưới đáy là tương đối bằng phẳng, đủ kê một tấm ván thay cho giường. Vách hang chỗ lồi cao, chỗ lõm sâu, không khí lạnh lẽo, ẩm thấp. Trước cửa hang là dòng suối nhỏ chảy sát chân ngọn núi. Bác đặt tên là suối Lênin và núi Mác. Bàn làm việc của Bác là phiến đá kê trên hai hòn đá và một hòn đá thấp hơn làm ghế cũng ở gần bờ suối.

Không gian sinh hoạt của Bác chia làm hai phần: một là hang, hai là suối. Hành động cũng chia hai: ra suối, vào hang. Thời gian biểu hằng ngày đều đặn: sáng ra, tối vào. Sáng ra bờ suối là để làm việc, tối vào hang là để nghỉ ngơi. Sự thật gần như chỉ có thế. Thực ra chất thơ giấu trong âm điệu, vẫn là nhịp 4/3 hay 2/2/1 /2 của câu thơ Đường luật bảy chữ, nhưng lồng vào trong đó là cái đều đặn, khoan thai như nhịp tuần hoàn của trời đất. Sáng rồi tối, tối rồi sáng; ra rồi vào, vào rồi ra... đơn giản, quen thuộc mà bền vững, ung dung.

Cái gian khổ của hoàn cảnh sống, sự hiểm nguy do kẻ thù luôn rình rập... tất cả đều như lặn chìm, tan biến trước phong thái an nhiên, tự tại của Bác Hồ:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Bữa cơm đơn sơ, đạm bạc, quanh quẩn chỉ có cháo ngô và măng đắng, măng nứa, rau rừng... hết ngày này sang ngày khác, vẫn sẵn sàng nghĩa là các thứ đó luôn luôn có sẵn xung quanh. Mặt khác, cháo bẹ, rau măng còn gợi nhớ tới cảnh sống an bần lạc đạo của người xưa:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

hoặc:

Trúc biếc, nước trong ta sẵn đó

(Nguyễn Trãi)

Sự thiếu thốn đã được thi vị hóa thành phong lưu. Xưa là ước lệ, tượng trưng, nay hoàn toàn là sự thật. Chỉ phớt qua một chút xưa là câu thơ đậm đà thêm ý vị.

Nhưng ý vị nhất vẫn là giọng điệu thơ. Cháo bẹ, rau măng cũng như Sáng ra, tối vào là nhịp điệu an nhiên, khoan hòa bên trong. Ba chữ vẫn sẵn sàng nâng câu thơ lên thành một lời bình phẩm với giọng điệu lạc quan, gần như tự hào, nghĩa là an nhiên, tự tại ở mức cao hơn.

Hai câu thơ đầu tả thực, câu thơ thứ ba vừa tả thực vừa trữ tình, ở trên chưa có bóng dáng con người thì đến đây, con người đã hiện ra sống động và có hành động rõ ràng:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

Nếu trong cụm từ vẫn sẵn sàng mới thấp thoáng một chút vui thì đằng sau tính từ chông chênh đã là một nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy. Chông chênh vốn nghĩa là không vững, không có chỗ dựa chắc chắn. Chiếc bàn đá của Bác quả là chông chênh thật vì nó chỉ là một phiến đá. Đó là thứ bàn làm việc bất đắc đĩ. Nhưng hàm ý của từ chông chênh không nhằm nói tới đặc điểm của cái bàn đá cụ thể mà là ẩn dụ về tình thế muôn vàn khó khăn của cách mạng nước ta và cách mạng thế giới lúc bấy giờ. Năm ấy, phe phát xít đang thắng ở khắp các mặt trận. Vậy mà trong cái thế chông chênh đó, Bác Hồ vẫn bình tĩnh dịch sử Đảng (lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô, viết bằng tiếng Nga) cho cán bộ ta nghiên cứu và học tập những kinh nghiệm phong phú, quý báu để vận dụng vào thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc.

Việc làm này của Bác có tác dụng đặt nền móng về mặt lí luận cho cách mạng Việt Nam. Đấy là một điều hết sức cần thiết. Đem đối lập tính chất nghiêm túc, quan trọng của công việc với cái vẻ đơn sơ, chông chênh của bàn đá, mới nghe tưởng chừng có chút hài hước, đùa vui nhưng kì thực lại mang ý nghĩa cách mạng thật lớn lao.

Nhớ lại thời gian đó, cả thế giới đang đứng trước nguy cơ chìm đắm trong thảm họa phát xít. Vậy mà Hội nghị Trung ương Đảng ta lần thứ VIII (tháng 5 - 1941) vẫn khẳng định rằng cách mạng trong nước sẽ thắng lợi. Đó chẳng phải là trong chông chênh tình thế mà Bác vẫn khẳng định thắng lợi chắc chắn của sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc hay sao? Đó là tầm nhìn chiến lược, tầm suy nghĩ sáng suốt của một lãnh tụ tài ba.

Lắng nghe giọng điệu câu thơ mới thấy thật rõ. Ở nhịp bốn (Bàn đá chông chênh) âm thanh tuy có phần trúc trắc (ba thanh bằng, một thanh trắc), gợi liên tưởng đến tình thế nguy hiểm; nhưng ở nhịp ba (dịch sử Đảng), trái lại, âm thanh rắn, khỏe, (ba thanh trắc) tỏ rõ ý chí kiên quyết chiến đấu và tin tưởng. Câu thơ toát lên một tư thế chủ động, vững vàng trước mọi nguy nan của Bác, điểm thêm một nụ cười thanh thoát, cao vời.

Người xưa khi bất đắc chí thường lánh về chốn núi rừng để vui thú lâm tuyền cho khuây khỏa tâm hồn, nhưng Bác lại khác. Bác đến với núi rừng không phải với mục đích ở ẩn mà là để mưu tính cho từng bước đi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.

Xưa, trong những ngày lánh mình ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã thi vị hóa cuộc sống đạm bạc của mình:

Côn Sơn có suối nước trong,

Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm.

Côn Sơn có đá tần vần,

Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi.

Nay, Bác Hồ làm việc trong cảnh:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.

Trong bóng dáng của vị tiên bên suối là cốt cách của một lãnh tụ cách mạng kiên cường.

Nếu ở ba câu thơ đầu, niềm vui, niềm tự hào còn ẩn chứa bên trong thì đến câu thơ kết, niềm vui ấy đã bộc lộ rõ ràng qua từ ngữ, tiết tấu và âm hưởng. Cái nghèo nàn, thiếu thốn vật chất đã được chuyển hóa thành cái giàu sang tinh thần. Bác đánh giá hiện thực ấy với nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy của một triết nhân:

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Như vậy, suối không chỉ là chỗ làm việc, hang không chỉ là chỗ nghỉ ngơi mà hang còn mở ra phía suối, tạo nên không gian thoáng đãng, đủ chỗ cho nhịp sống của con người hoà vào nhịp của đất trời. Gian nan, vất vả cũng như tan biến vào cái nhịp tuần hoàn, thư thái ấy. Cháo bẹ và rau măng là kham khổ, nghèo nàn, nhưng đã được nâng lên thành cái sẵn sàng, đầy đủ, thành một thoáng vui. Đến việc dịch sử Đảng trên bàn đá chông chênh thì đã lồng lộng cái thế vững chắc của tiến trình cách mạng giữa gian nguy. Cuộc đời cách mạng thật là sang!Tinh thần của bài thơ tụ lại cả ở từ sang này. Niềm tin, niềm tự hào của Bác tỏa sáng cả bài thơ.

Chính sự ra vào ung dung, tinh thần vẫn sẵn sàng, khí tiết, cốt cách vững vàng trong tình thế chông chênh đã làm nên cái sang, cái quý trong cuộc đời của con người một lòng một dạ phấn đấu hi sinh cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và nhân loại bị áp bức trên toàn thế giới.

Bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn nhưng đã giúp chúng ta hiểu thêm về một quãng đời hoạt động của Bác Hồ. Vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, Bác vẫn sống ung dung, thanh thản và tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh đó, bài thơ còn là bài học thấm thía về thái độ sống và quan điểm sống đúng đắn, tích cực của một chiến sĩ cộng sản chân chính.