Viết bài văn thuyết minh về tác gia Nguyễn Du (20 mẫu)

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du  1

Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tức ngày 3/1/1766 ở kinh thành Thăng Long trong một gia đình quý tộc lớn. Thân sinh ông là Hoàng Giáp Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), làm quan đến tham tụng (tể tướng) tước Xuân quận công triều Lê. Mẹ ông là bà Trần Thị Tần, quê Kinh Bắc, đẹp nổi tiếng. 13 tuổi lại mồ côi mẹ, ông phải ở với người anh là Nguyễn Khản. Đời sống của người anh tài hoa phong nhã, lớn hơn ông 31 tuổi này rất có ảnh hưởng tới nhà thơ.

Sự thăng tiến trên đường làm quan của Nguyễn Du khá thành đạt. Nhưng ông không màng để tâm đến công danh. Trái tim ông đau xót, buồn thương, phẫn nộ trước “những điều trông thấy” khi sống lưu lạc, gần gũi với tầng lớp dân đen và ngay cả khi sống giữa quan trường. Ông dốc cả máu xương mình vào văn chương, thi ca. Thơ ông là tiếng nói trong trái tim mình. Đấy là tình cảm sâu sắc của ông đối với một kiếp người lầm lũi cơ hàn, là thái độ bất bình rõ ràng của ông đối với các số phận con người. Xuất thân trong gia đình quý tộc, sống trong không khí văn chương bác học, nhưng ông có cách nói riêng, bình dân, giản dị, dễ hiểu, thấm đượm chất dân ca xứ Nghệ.

Về văn thơ nôm, các sáng tác của ông có thể chia thành 3 giai đoạn. Thời gian sống ở Tiên Điền – Nghi Xuân đến 1802, ông viết “Thác lời trai phường nón Văn tế sống 2 cô gái Trường Lưu”. Đây là 2 bản tình ca thể hiện rất rõ tâm tính của ông, sự hoà biểu tâm hồn tác giả với thiên nhiên, với con người. Ba tập thơ chữ Hán thì "Thanh hiên thi tập" gồm 78 bài, viết lúc ở Quỳnh Côi và những năm mới về Tiên Điền, là lời trăn trở chốn long đong, là tâm sự, là thái độ của nhà thơ trước cảnh đời loạn lạc. Sau 1809, những sáng tác thơ của ông tập hợp trong tập “Nam Trung Tạp Ngâm” gồm 40 bài đầy cảm hứng, của tâm sự, nỗi niềm u uất.

Truyện Kiều được Nguyễn Du chuyển dịch, sáng tạo từ cuốn tiểu thuyết “Truyện Kim Vân Kiều" của Thanh Tâm Tài Nhân, tên thật là Tử Văn Trường, quê ở huyện Sơn Am, tỉnh Triết Giang, Trung Quốc. Truyện Kiều đã được nhân dân ta đón nhận một cách say sưa, có nhiều lúc đã trở thành vấn đề xã hội, tiêu biểu là cuộc tranh luận xung quanh luận đề "Chánh học và tà thuyết" giữa cụ Nghè Ngô Đức Kế và ông Phạm Quỳnh thu hút rất nhiều người của 2 phía cùng luận chiến. Không chỉ ảnh hưởng sâu sắc trong tầng lớp thị dân, Truyện Kiều còn được tầng lớp trên say mê đọc, luận. Vua Minh Mạng là người đầu tiên đứng ra chủ trì mở văn đàn ngâm vịnh truyện Kiều và sai các quan ở Hàn Lâm Viện chép lại cho đời sau. Đến đời Tự Đức, nhà vua thường triệu tập các vị khoa bảng trong triều đến viết và vịnh Truyện Kiều ở văn đàn, ở Khu Văn Lâu.

Ngày nay, Truyện Kiều vẫn đang được các nhà xuất bản in với số lượng lớn, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đánh giá cao Truyện Kiều. Dịch giả người Pháp Rơ-Ne-Crir-Sắc khi dịch Truyện Kiều đã viết bài nghiên cứu dài 96 trang, có đoạn viết: "Kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh một cách xứng đáng với kiệt tác của bất kỳ quốc gia nào, thời đại nào”. Ông so sánh với văn học Pháp: “Trong tất cả các nền văn chương Pháp không một tác phẩm nào được phổ thông, được toàn dân sùng kính và yêu chuộng bằng quyển truyện này ở Việt Nam". Và ông kết luận: "Sung sướng thay bậc thi sĩ với một tác phẩm độc nhất vô nhị đã làm rung động và ca vang tất cả tâm hồn của một dân tộc". Năm 1965 được Hội đồng Hoà bình thế giới chọn làm năm kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du.

Nguyễn Du là nhà thơ sống hết mình, tư tưởng, tình cảm, tài năng nghệ thuật của ông xuyên suốt các tác phẩm của ông, xuyên suốt cuộc đời ông và thể hiện rõ nhất qua áng văn chương tuyệt vời là Truyện Kiều. Đọc Truyện Kiều ta thấy xã hội, thấy đồng tiền và thấy một Nguyễn Du hàm ẩn trong từng chữ, từng ý. Một Nguyễn Du thâm thuý, trải đời, một Nguyễn Du chan chứa nhân ái, hiểu mình, hiểu đời, một Nguyễn Du nóng bỏng khát khao cuộc sống bình yên cho dân tộc, cho nhân dân.

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du 2

Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc có “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân).

Nguyễn Du, tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ất Dậu) trong một gia đình có nhiều đời và nhiều người làm quan to dưới triều Lê, Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc có tài xướng ca.

Quê hương Nguyễn Du là vùng đất địa linh, nhân kiệt, hiếu học và trọng tài. Gia đình Nguyễn Du có truyền thống học vấn uyên bác, có nhiều tài năng văn học. Gia đình và quê hương chính là “mảnh đất phì nhiêu” nuôi dưỡng thiên tài Nguyễn Du.

Thời thơ ấu, Nguyễn Du sống trong nhung lụa. Lên 10 tuổi lần lượt mồ côi cả cha lẫn mẹ, cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu gặp những sóng gió trong cơn quốc biến ba đào: Sống nhờ Nguyễn Khản (anh cùng cha khác mẹ làm Thừa tướng phủ chúa Trịnh) thì Nguyễn Khản bị giam, bị Kiêu binh phá nhà phải chạy trốn. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam trường rồi làm một chức quan ở tận Thái Nguyên. Chẳng bao lâu nhà Lê sụp đổ (1789) Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình rồi vợ mất, ông lại về quê cha, có lúc lên Bắc Ninh quê mẹ, nhiều nhất là thời gian ông sống không nhà ở kinh thành Thăng Long.

Hơn mười năm chìm nổi long đong ngoài đất Bắc, Nguyễn Du sống gần gũi nhân dân và thấm thìa biết bao nỗi ấm lạnh kiếp người, đặc biệt là người dân lao động, phụ nữ, trẻ em, cầm ca, ăn mày… những con người “dưới đáy” xã hội. Chính nỗi bất hạnh lớn trong cuộc đời đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du – nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

Miễn cưỡng trước lời mời của nhà Nguyễn, Nguyễn Du ra làm quan. Năm 1813 được thăng chức Học sĩ điện cần Chánh và được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Năm 1820, ông lại được cử đi lần thứ hai nhưng chưa kịp đi thì mất đột ngột ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18-9-1820). Suốt thời gian làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du sống trầm lặng, ít nói, có nhiều tâm sự không biết tỏ cùng ai.

Tư tưởng Nguyễn Du khá phức tạp và có những mâu thuẫn: Trung thành với nhà Lê, không hợp tác với nhà Tây Sơn, bất đắc dĩ làm quan cho nhà Nguyễn. Ông là một người có lí tưởng, có hoài bão nhưng trước cuộc đời gió bụi lại buồn chán, Nguyễn Du coi mọi chuyện (tu Phật, tu tiên, đi câu, đi săn, hành lạc…) đều là chuyện hão nhưng lại rơi lệ đoạn trường trước những cuộc bể dâu. Nguyễn Du đã đứng giữa giông tố cuộc đời trong một giai đoạn lịch sử đầy bi kịch. Đó là bi kịch của đời ông nhưng chính điều đó lại khiến tác phẩm của ông chứa đựng chiều sâu chưa từng có trong thơ văn Việt Nam.

Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán là: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, tổng cộng 250 bài thơ Nôm, Nguyễn Du có kiệt tác Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) và một số sáng tác đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; vè Thác lèn trai phường nón.

Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du tâm sự:

“Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

Chính “những điều trông thấy" khiến tác phẩm của Nguyễn Du có khuynh hướng hiện thực sâu sắc. Còn nỗi “đau đớn lòng” đã khiến Nguyễn Du trở thành một nhà thơ nhân đạo lỗi lạc.

Nguyễn Du là nhà thơ “đứng trong lao khổ mà mở hồn ra đón lấy tất cả những vang vọng của cuộc đời” (Nam Cao). Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giống những trang nhật kí đời sống, nhật kí tâm hồn vậy. Nào là cảnh sống lay lắt, nào là ốm đau, bệnh tật cho đến cảnh thực tại của lịch sử… đều được Nguyễn Du ghi lại một cách chân thực (Đêm thu: Tình cờ làm thơ; Ngồi dèm…). Nguyễn Du vạch ra sự đối lập giữa giàu – nghèo trong Sở kiến hành hay Thái Bình mại giả ca… Nguyễn Du chống lại việc gọi hồn Khuất Nguyên về nước Sở của Tống Ngọc là bởi nước Sở “cát bụi lấm cả áo người” toàn bộ “vuốt nanh”, “nọc độc”, “xé thịt người nhai ngọt xớt”… Nước Sở của Khuất Nguyên hay nước Việt của Tố Như cũng chỉ là một hiện thực: Cái ác hoành hành khắp nơi, người tốt không chốn dung thân. Truyện Kiều mượn bôi cảnh đời Minh (Trung Quốc) nhưng trước hết là bản cáo trạng đanh thép ghi lại “những điều trông thấy” của Nguyễn Du về thời đại nhà thơ đang sống. Phản ánh với thái độ phê phán quyết liệt, đó là khuynh hướng hiện thực sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du.

Sáng tác của Nguyễn Du bao trùm tư tưởng nhân đạo, trước hết và trên hết là niềm quan tâm sâu sắc tới thân phận con người. Truyện Kiều không chỉ là bản cáo trạng mà còn là khúc ca tình yêu tự do trong sáng, là giấc mơ tự do công lí “tháo cũi sổ lồng”. Nhưng toàn bộ Truyện Kiều chủ yếu là tiếng khóc xé ruột cho thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp, đặc biệt là người phụ nữ.

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

Không chỉ Truyện Kiều mà hầu hết các sáng tác của Nguyễn Du đều bao trùm cảm hứng xót thương, đau đớn: Từ Đọc Tiểu Thanh kí đến Người ca nữ đất Long Thành, từ Sở kiến hành đến Văn tế thập loại chúng sinh… thậm chí Nguyễn Du còn vượt cả cột mốc biên giới, vượt cả ranh giới ta – địch và vượt cả sự cách trở âm dương để xót thương cho những kẻ chết trận, phơi “xương trắng” nơi “quỉ môn quan”.

Không chỉ xót thương, Nguyễn Du còn trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, cùng những khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du đã vượt qua một số ràng buộc của ý thức hệ phong kiến và tôn giáo để vươn tới khẳng định giá trị tự thân của con người. Đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông đem lại cho văn học Việt Nam trong thời đại ông.

Nguyễn Du đã đóng góp lớn về mặt tư tưởng, đồng thời có những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật.

Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ Nôm Nguyễn Du thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai thể thơ dân tộc: Lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh). Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển.

Nguyễn Du đóng góp rất lớn, rất quan trọng cho sự phát triển giàu đẹp của ngôn ngữ văn học Tiếng Việt: Tỉ lệ từ Hán – Việt giảm hẳn, câu thơ tiếng Việt vừa thông tục, vừa trang nhã, diễm lệ nhờ vần luật chỉnh tề, ngắt nhịp đa dạng, tiểu đối phong phú, biến hóa. Thơ Nguyễn Du xứng đáng là đỉnh cao của tiếng Việt văn học Trung Đại. Đặc biệt Truyện Kiều của Nguyễn Du là “tập đại thành” về ngôn ngữ văn học dân tộc.

Xin được mượn những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu tri âm cùng Tố Như để thay cho lời kết:

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”.

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du 3

 I. Tác giả Nguyễn Du:

Nguyễn Du là một nhà thơ kiệt xuất, Danh nhân văn hóa thế giới, một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã đánh một móc son chói lọi trong tiến trình phát triển của nền văn học thế kỉ 18, 19 và nền văn học dân tộc.

* Quê hương và gia đình:

Quê hương địa linh nhân kiệt, hiền tài xuất chúng:

Nguyễn Du sinh năm 1765, mất năm 1820, tựu Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Ông còn có biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ, Nam Hải điếu đồ.

Quê Nguyễn Du ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, một địa phương có truyền thống hiếu học, nhiều người học cao hiểu rộng, đỗ đạt trở thành quán lớn. Đây là vùng đất địa linh nhân kiệt, có nhiều anh tài xuất chúng.

Gia đình đại quý tộc có truyền thông văn chương nhiều đời:

Nguyễn Du sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc phong kiến, nhiều đời làm quan lớn và có truyền thông văn chương. Cha ông là Nguyễn Nghiễm, từng ở ngôi Tể tướng mười lăm năm. Anh trai Nguyễn Khản làm quan đến chức Thượng Thư Bộ Hộ, kiêm Đô Ngự Sử. Mẹ ông là Trần Thị Tần, người tỉnh Bắc Ninh, có tài ca xướng nổi tiếng trong vùng.

Sinh trưởng trong vùng đất địa linh, nhân kiệt, hiếu học và trọng tài, gia đình lại có truyền thống học vấn uyên bác, có nhiều tài năng văn học. Gia đình và quê hương chính là “mảnh đất phì nhiêu” nuôi dưỡng thiên tài Nguyễn Du.

Thời đại bão tố và cuộc đời gian truân, lận đận:

Nguyễn Du sống vào nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, trong hoàn cảnh xã hội có nhiều biến động dữ dội. Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực, chém giết lẫn nhau. Chiến tranh sảy ra liên miên, ruộng đồng bị hoảng, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, điêu đứng; xã hội loạn lạc, tăm tối. Bão táp phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đánh đổ các tập đoàn phong kiến thống trị, quét sạch hai mươi vạn quân Thanh xâm lược.

Sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, bản thân lại có tài năng văn chương nhưng thời đại Nguyễn Du do những biến động xã hội nên gia đình cũng như bản thân ông cũng có những thăng trầm, sa sút, nhiều lúc vô cùng bi đát.

Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, cuộc đời Nguyễn Du phải trải qua những năm tháng gian truân, trôi dạt, vất vả, long đong hết nơi này đến nơi khác (Trải qua “mười năm gió bụi”, Nguyễn Du lang thang hết ở quê vợ, rồi quê mẹ, quê cha trong nghèo túng, hết sức khổ cực và tủi nhục).

Khi nhà Nguyễn phục hưng, Nguyễn Du có ra làm quan cho triều Nguyễn Gia Long, ông giữ nhiều chức vụ khác nhau: Tham tri bộ Lễ, Cai bạ Quảng Bình, Chánh sứ bộ…Tuy có những thành tựu nhất định trên quần trường nhưng đó là những năm tháng làm quan bất đắc chí.

Ông mất tại Huế năm 1820, thọ 58 tuổi.

Là người có hiểu biết sâu rộng, am hiểu văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc. Nhà thơ đã sống nhiều năm lưu lạc, tiếp xúc với nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều cảnh đời, nhiều số phận khác nhau, đã tạo cho ông một vốn sống phong phú và niềm cảm thông sâu sắc với mọi kiếp người bị đày đọa. Nguyễn Du là người có trái tim giàu lòng nhân ái, nhìn đời với con mắt của một người đứng giữa giông tố cuộc đời và điều đó khiến tác phẩm của ông hàm chứa một chiều sâu nhân văn chưa từng có trong văn thơ Việt Nam.

Sự nghiệp sáng tác:

Nguyễn Du là tác giả có nhiều thành tựu kiệt xuất về văn chương, ở thể loại nào ông cũng đạt được sự hoàn thiện ở trình độ kinh điển.

Về thơ chữ Hán, ông có ba tập thơ:

+ “Thanh Hiên thi tập” (78 bài) được viết trước khi ông ra làm quan cho nhà Nguyễn.

+ “Nam trung tạp ngâm” (40 bài) viết trong thời gian ông ở Huế, Quảng Bình.

+ “Bắc hành tạp lục” (131 bài) viết trong thời gian Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc.

Về chữ Nôm:

+ “Văn chiêu hồn” (Văn tế thập loại chúng sinh) được viết theo thể thơ song thất lục bát dài 184 câu.

+ Đặc biệt là “Truyện Kiều”, một kiệt tác văn học xuất chúng. Với tác phẩm này đã đưa tên tuổi Nguyễn Du vươn lên đỉnh cao của nền thi ca dân tộc, xứng đáng được tôn vinh “Văn chương thiên cổ sư”.

Tài năng văn chương, vốn sống phong phú, tấm lòng trắc ẩn kết tinh ở một trái tim yêu thương vĩ đại đối với con người trong một bối cảnh lịch sử cụ thể đã tạo nên thiên tài Nguyễn Du.

Những vấn đề của thời đại tác động sâu sắc lên bản thân, cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du. Chính những năm tháng sống lẩn tránh khiến Nguyễn Du có điều kiện tiếp cận gần gũi những cảnh đời nghèo khó, bất hạnh, đáng thương trên cuộc đời; giúp ông thấu hiểu nỗi cơ cực và tủi nhục của con người. Phong trào Tây Sơn dấy lên rồi nhanh chóng bị dập tắt, khiến cho hình tượng người anh hùng và khát vọng thực hiện công lý trong Nguyễn Du có phần hụt hẫng. Ông cố vùng vẫy tìm lấy một lối thoát cho chính mình, nhưng cuối cùng cũng bế tắt. Để rồi, ông kết tinh tất cả cuộc đời mình trong tuyệt phẩm Truyện Kiều như một tiếng kêu đau thương bất tận.

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du 4

Hiệu là Tố Như, Thanh Hiên, con Nguyễn Nghiễm, làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (Nghệ Tĩnh) văn chương vượt hẳn bạn bè, nhưng học vị chỉ là tam trường (tú tài). Nguyễn Du gặp nhiều khó khăn hồi con thanh niên. Mười một tuổi mồ côi cha, mười ba tuổi mất mẹ, suốt đời trai trẻ ăn nhờ ở đâu: hoặc ở nhà anh ruột (Nguyễn Khản), nhà anh vợ (Đoàn Nguyễn Tuấn), có lúc làm con nuôi một võ quan họ Hà, và nhận chức nhỏ: chánh thủ hiệu uý. Do tình hình đất nước biến động, chính quyền Lê Trình sụp đổ, Tây Sơn quét sạch giặc Thanh, họ Nguyễn Tiên Điền cũng sa sút tiêu điều: "Hồng Linh vô gia, huynh đệ tán". Nguyễn Du trải qua 10 năm gió bụi. Năm 1802, ra làm quan với triều Nguyễn được thăng thưởng rất nhanh, từ tri huyện lên đến tham tri (1815), có được cử làm chánh sứ sang Tàu (1813). Ông mất vì bệnh thời khí (dịch tả), không trối trăng gì, đúng vào lúc sắp sửa làm chánh sứ sang nhà Thanh lần thứ hai.

Nguyễn Du có nhiều tác phẩm. Thơ chữ Hán như Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục. Cả ba tập này, nay mới góp được 249 bài nhờ công sức sưu tầm của nhiều người. Lời thơ điêu luyện, nhiều bài phản ánh hiện thực bất công trong xã hội, biểu lộ tình thương xót đối với các nạn nhân, phê phán các nhân vật chính diện và phản diện trong lịch sử Trung Quốc, một cách sắc sảo. Một số bài như Phản chiêu hồn, Thái Bình mại ca giả, Long thành cầm giả ca đã thể hiện rõ rệt lòng ưu ái trước vận mệnh con người. Những bài viết về Thăng Long, về quê hương và cảnh vật ở những nơi Nguyễn Du đã đi qua đều toát lên nỗi ngậm ngùi dâu bể. Nguyễn Du cũng có gắn bó với cuộc sống nông thôn, khi với phường săn thì tự xưng là Hồng Sơn liệp hộ, khi với phường chài thì tự xưng là Nam Hải điếu đồ. Ông có những bài ca dân ca như Thác lời con trai phường nón, bài văn tế như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, chứng tỏ ông đã tham gia sinh hoạt văn nghệ dân gian với các phường vải, phường thủ công ở Nghệ Tĩnh.

Tác phẩm tiêu biểu cho thiên tài Nguyễn Du là Đoạn trường tân thanh và Văn tế thập loại chúng sinh, đều viết bằng quốc âm. Đoạn trường tân thanh được gọi phổ biến là truyện kiều, là một truyện thơ lục bát. Cả hai tác phẩm đều xuất sắc, tràn trề tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, phản ánh sinh động xã hội bất công, cuộc đời dâu bể. Tác phẩm cũng cho thấy một trình độ nghệ thuật bậc thầy.

Truyện Kiềuđóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hoá Việt Nam. Nhiều nhân vật trong Truyện Kiều trở thành điển hình cho những mẫu người trong xã hội cũ, mang những tính cách tiêu biểu Sở Khanh, Hoạn Thư, Từ Hải, và đều đi vào thành ngữ Việt Nam. Khả năng khái quát của nhiều cảnh tình, ngôn ngữ, trong tác phẩm khiến cho quần chúng tìm đến Truyện Kiều, như tìm một điều dự báo. Bói Kiều rất phổ biến trong quần chúng ngày xưa. Ca nhạc dân gian có dạng Lẩy Kiều. Sân khấu dân gian có trò Kiều. Hội họa có nhiều tranh Kiều. Thơ vịnh Kiều nhiều không kể xiết. Giai thoại xung quanhi cũng rất phong phú. Tuồng Kiều, cải lương Kiều, phim Kiều cũng ra đời. Nhiều câu, nhiều ngữ trong Truyện Kiều đã lẫn vào kho tàng ca dao, tục ngư. Từ xưa đến nay, Truyện Kiềuđã là đầu đề cho nhiều công trình nghiên cứu, bình luận và những cuộc bút chiến. Ngay khi Truyện Kiều được công bố (đầu thế kỷ XIX) ở nhiều trường học của các nho sĩ, nhiều văn đàn, thi xã đã có trao đổi về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Đầu thế kỷ XX, cuộc tranh luận về Truyện Kiều càng sôi nổi, quan trọng nhất là cuộc phê phán của các nhà chí sĩ Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng phản đối phong trào cổ xuý Truyện Kiều do Phạm Quỳnh đề xướng (1924).

Năm 1965, Nguyễn Du chính thức được nhà nước làm lễ kỷ niệm, Hội đồng hoà bình thế giới ghi tên ông trong danh sách những nhà văn hoá thế giới. Nhà lưu niệm Nguyễn Du được xây dựng ở làng quê ông xã Tiên Điền. Trường viết văn để đào tạo những cây bút mới mang tên ông.

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du 5

Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương

 Dẫu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng

Nhân tình nhắm mắt chưa xong

 Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như?

(Tố Hữu – Kính gửi cụ Nguyễn Du)

Đã gần ba thế kỉ trôi qua nhưng những vần thơ thấm đẫm nước mắt và tràn trề tình thương mà Nguyễn Du để lại vẫn còn nguyên giá trị. Tác phẩm của Nguyễn Du thể hiện những nỗi lòng u uất, những tâm trạng thổn thức đến bất an. Nguyễn Du được coi là một thiên tài, một danh nhân văn hóa không chỉ của Việt Nam mà của cả nhân loại. Nhắc đến Nguyễn Du, chúng ta không thể không nói đến một trái tim luôn đau nỗi đau của con người. Mọi nỗi buồn đau, thống khổ của kiếp người vang động đến đều có thể khiến cho trái tim ấy rỉ máu. Từ đó Nguyễn Du viết nên những dòng thơ xót xa mà thấm đẫm tình người. Trong cuộc đời mình, ông cũng trải qua không ít dâu bể, biến cố nên mở đầu kiệt tác Truyện Kiều ông viết:

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Nguyễn Du sinh năm 1765, mất năm 1820, tên chữ là Tố Như, quê ở Tiên. Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc có truyền thống khoa bảng và văn chương ở Thăng Long. Năm 1802, ông được cử đi sứ Trung Quốc lần thứ hai, chưa kịp đi thì mắc bệnh mà mất. Ông để lại cho nền văn học, nước nhà một sự nghiệp văn chương đồ sộ trong đó Truyện Kiều xứng đáng là niềm tự hào của dân tộc ta.

Cuộc đời Nguyễn Du gắn liền với nhiều biến động lịch sử: chế độ phong kiến rơi vào khủng hoảng trầm trọng, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổi lên ở khắp nơi mà tiêu biểu là khởi nghĩa Tây Sơn. Ông trải qua một cuộc đời nhiều thăng trầm, lúc sống xa hoa, quyền quý, khi lưu lạc gió bụi nơi đất khách quê người. Bởi thế ông tích lũy được vốn sống phong phú và học tập được ngôn ngữ của nhân dân. Đó phải chăng là cơ sở cho tư tưởng nhân đạo trong thơ văn Nguyễn Du?

Đọc và tìm hiểu những sáng tác của Nguyễn Du, ta sẽ thấy ông xót xa nhất cho con người trong cảnh bể dâu trước những đổi thay trớ trêu của cuộc đời. Đó là những khi thân phận con người trở nên mỏng manh, bị vùi dập, bị giày xéo. Cả xã hội phong kiến lẫn định mệnh mù quáng đã vào hùa với nhau để hành hạ con người. Mà trong cảnh bể dâu kia, thân phận bi kịch điển hình nhất là những người tài sắc. Họ như những bông hoa nở trong dông tố, danh nhân cũng hóa nạn nhân, vàng ngọc cũng bị coi như đất bùn.

Tư tưởng nhân đạo trong thơ Nguyễn Du được thể hiện qua sự căm phẫn của ông đối với những thế lực chà đạp con người, hủy hoại tài năng:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn

Phong vận kì oan ngã tự cư.

(Đọc Tiểu Thanh Kí)

Ông luôn bày tỏ nỗi đau một cách bi phẫn trước những kiếp người thấp cổ bé họng, trước sự thất bại của cái thiện, cái mĩ. Trong trái tim bao la của ông, ta thấy cái phần thông thiết nhất luôn được dành cho thân phận bi kịch của những con người tài hoa bạc mệnh, đặc biệt là những người phụ nữ. Họ là những nạn nhân đáng thương nhất trong cuộc đời đầy lang sói, lắm biến thiên dâu bể này. Đó là Đạm Tiên “nổi danh tài sắc một thì” mà phải chịu cảnh “sống làm vợ khắp người ta” để rồi “nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương” và cuối cùng chỉ còn lại “sè sè nấm đất bên đường”. Đó là Tiểu Thanh “son phấn có phần chôn vẫn hận – văn chương không mệnh đốt còn vương”. Tiêu biểu hơn tất cả là Thúy Kiều “sắc đành đòi một tài đành họa hai” mà phải chịu một đời truân chuyên chìm nổi “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”, muốn thoát khỏi kiếp sống ô nhục lại bị đạp xuống sâu hơn, bế tắc hơn… Tất cả những thân phận phụ nữ tài sắc mà bất hạnh ấy được Nguyễn Du tổng kết trong hai câu thơ ứa máu khái quát quy luật nghiệt ngã của cuộc đời:

Đau đớn thay phận đàn bà

 Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

(Văn chiêu hồn)

Viết về những con người ấy, Nguyễn Du bày tỏ lòng nhân ái của con người đối vóri con người nhưng cũng chính là nỗi niềm của người tri kỉ, của kẻ cùng hội cùng thuyền, đồng bệnh tương lân. Nguyễn Du tìm thấy mình ở trong họ, tìm thấy họ ở trong mình. Cho nên lời thơ của ông chân thành đến tận đáy lòng. Ông truyền tất cả những đau đớn của trái tim vào những trang viết để tạo nên những “Tiếng thơ ai động đất trời”. Nguyễn Du đã sống và đã nếm trải đến cùng vị mặn của dòng nước mất. Không chỉ xót xa cho những người phụ nữ, Văn tế thập loại chúng sinh là một tiếng khóc lớn khóc cho tất cả những sô' phận bi thảm của con người. Tất cả họ khi sông dù mũ cao áo dài như những thư sinh nho sĩ hay những người cùng đinh chân lấm tay bùn… khi chết đi đều là những cô hồn thất thểu, vất vưởng, khổ đau, không nơi nương tựa. Nguyễn Du khóc cho họ, khóc cho tất cả. Khi họ sống ông vẫn phân biệt rõ ràng kẻ ngay người gian, kẻ ông yêu người ông ghét nhưng khi họ chết đi, Nguyễn Du thương tất cả. Ông đang sống trong cõi dương trần thế mà dường như lại chìm hẳn vào cõi chết để tìm đến, chia sẻ với trăm ngàn oan hồn bạc mệnh:

Sống đã chịu một đời phiền não

Chết lại nhờ hớp cháo lá đa.

Người đọc như chết lặng trước những lời thơ nghẹn ngào như một tiếng thở dài, một tiếng nấc đau đớn. Nguyễn Du với “con mắt trông thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” (Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân) đã nhìn thấy những cô hồn bước đi lặng lẽ về một nơi vô định trong bóng tối thăm thẳm mịt mùng. Người cũng đã lặng lẽ rơi nước mắt trong từng con chữ làm nhức nhôi hàng triệu người đọc nhiều thế hệ.

Nhắc đến Nguyễn Du ta không thể không nhắc đến Truyện Kiều bởi đây là đỉnh cao trong sự nghiệp của ông nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Tuy Truyện Kiều vay mượn cốt truyện từ tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) nhưng Nguyễn Du đã có sự sáng tạo tài tình làm nên một kiệt tác tiêu biểu cho cảm hứng nhân đạo và nỗi đau thân phận con người. Truyện Kiều cũng là một bài ca về tình yêu tự do và ước mơ công lí với những triết lí mà Nguyễn Du gửi gắm qua từng nhân vật, từng biến cố. Thúy Kiều đã bước qua lốì vườn khuya hay bước qua hàng rào phong kiến để đi theo tiếng gọi của con tim? Ước mơ công lí giữa màn đêm của xã hội phong kiến tối tăm được Nguyễn Du gửi gắm qua hình tượng người anh hùng Từ Hải – người bẻ gãy xiềng xích trói buộc con người để tìm lại công bằng, lẽ phải:

Chọc trời, khuấy nước mặc dầu,

Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?

Nguyễn Du xây dựng nên một Từ Hải với ước mơ thực hiện những khát vọng mang đậm tư tưởng nhân nghĩa nhưng cuối cùng lại dành cho chàng một kết cục đau buồn là cái chết. Nhưng Từ Hải đã chết vững vàng và hiên ngang như muốn để lại cho người đời bài học đau đớn: không thể khuất phục quân thù vì những người kiên quyết đòi hỏi tự do và công lí như Từ Hải không thể có chỗ đứng trong cái chế độ phong kiến lỗi thời mà Hồ Tôn Hiến là hiện thân.

Truyện Kiều là tiếng kêu đứt ruột cho những nỗi đau của con người, tiếng khóc thương cho tình cảm cao đẹp bị chia lìa, xót xa cho nhân phẩm bị chà đạp. Qua Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết lên bản cáo trạng đanh thép tố cáo các thế lực chà đạp quyền sống của con người. Đó là những kẻ như quan xử kiện, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thư, Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến… Nguyễn Du luôn đau đáu nỗi đau chung của con người nên trước cảnh tối tăm phơi bày trước mắt, ông đã cất lên tiếng thét bi phẫn trước những thế lực tàn bạo đó – không chỉ có con người mà còn một thế lực vô hình khác nhưng cũng bạo tàn không kém: thế lực của đồng tiền. Đồng tiền dơ bẩn là nguyên nhân của tất cả. Xã hội mục nát bấy giờ đang chịu sự điều khiển của một kẻ giấu mặt là đồng tiền. Những lời thơ của Nguyễn Du còn đọng lại nỗi đau về nhân tình thế thái, về cuộc đời của con người trong xã hội đầy rẫy xấu xa. Vì vậy ngay khi mở đầu Truyện Kiều, ông đã viết:

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Hình ảnh bể dâu trong câu thơ được nhà thơ lấy ý từ câu “Thương hải biến vi tang điền” (Biển xanh hóa thành ruộng dâu). Đó chính là hình ảnh của sự thay đổi, sự biến chuyển nhanh chóng ngay trước mắt khiến con người tưởng như là ảo giác nhưng lại là sự thực rành rành. Đó là xã hội với sự thay đổi nhanh chóng không thể ngờ mà Nguyễn Du đã sông và chứng kiến. Chính vì thế, “những điều trông thấy” làm tâm can tác giả quặn thắt, đau xót vô cùng. Qua cuộc đời lênh đênh, chìm nỗi của Thúy Kiều, bức tranh chân thực về xã hội loạn lạc thời bấy giờ hiện ra rõ ràng hơn bao giờ hết. Nguyễn Du dành không biết bao nhiêu lời thương xót cho Thúy Kiều mỗi khi nàng phải chịu sự xô đẩy của số phận. Thương những con người tài hoa bao nhiêu, ông lại căm ghét xã hội bạc ác hại người bấy nhiêu. Nguyễn Du vừa thương xót Thúy Kiều, lại vừa oán giận:

Hồng quần với khách hồng quần

Đã xoay đến thế còn vần chưa tha.

Truyện Kiều vừa là nỗi đau của cuộc đời, vừa là nỗi thương xót của Nguễn Du với con người, với thân phận má đào. Trái tim Nguyễn Du có một sự cảm thông đặc biệt khiến cho ông có khả năng hóa thân thành người trong cuộc, nhập thân vào nhân vật để nói lên những tâm sự sâu xa thầm kín nhất của cõi lòng. Chính điều này làm nên giá trị nhân đạo sâu sắc, lớn lao của Đoạn trường tân thanh, khiến cho tiếng thơ của ông vượt thời gian đến với người đọc chúng ta ngày nay và muôn đời sau.

Với những giá trị tư tưởng và nghệ thuật sâu sắc, độc đáo, những sáng tác văn chương của Nguyễn Du đã trở thành những tác phẩm lưu giữ linh hồn dân tộc với tư tưởng nhân đạo bao trùm. Mộng Liên Đường đã từng nhận xét về Nguyễn Du như sau: “Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nưởc mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thìa ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột”.

Với những đóng góp to lớn của mình, Nguyễn Du xứng đáng là đại thi hào dân tộc, là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam chúng ta và là Danh nhân văn hóa thế giới được cả nhân loại tôn vinh.

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du 6

Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh hiên, sinh năm Ất dậu, niên hiệu Cảnh Hưng. Gia phả họ Nguyễn làng Tiên Điền phát hiện năm 1966 có ghi chú ngày sinh của Nguyễn Du là 23 tháng 11 năm Ất dậu. Nguyễn Du ra đời trong một gia đình đại quý tộc, có thế lực vào bậc nhất đương thời.

Cụ Lê Thước, người có công đóng góp trong việc tìm hiểu gia thế của Nguyễn Du đã tìm ra được Nguyễn Du có cùng một ông tổ xa đời với Nguyễn Trãi, vị anh hùng và nhà thơ lớn của dân tộc ở thế kỷ XV.

Thời Lê sơ, họ Nguyễn của Nguyễn Du vốn ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, tỉnh Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội). Bấy giờ họ này có một người là Nguyễn Thiến, đậu trạng nguyên dưới thời nhà Mạc (1532), sau theo giúp nhà Lê, làm quan đến chức Thượng thư Bộ Lại, Đông các đại học sỹ, được phong tước Thư Qụân Công. Ông có hai người con trai là Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn, đều được phong tước công. Gặp hoạ, Nguyễn Nhiệm, con Nguyễn Miễn trốn được, chạy vào làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh mai danh ẩn tích và sinh cơ lập nghiệp ở đấy. Bấy giờ vùng này còn hết sức hoang vắng. Người địa phương không biết tên, gọi ông là Nam Dương công. Đó là ông tổ của họ Nguyễn làng Tiên Điền. Từ đời Nam Dương công đến đời Nguyễn Nghiễm, ông thân sinh của Nguyễn Du, tất cả là sáu đời.

Nguyễn Nghiễm sinh ngày 14 tháng 3 nhuận năm Mậu tý, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ tư, tức ngày 14/5/1708. Ông thông minh học rộng, làm quan từng giữ chức Tể tướng trong triều đình. Lúc ấy người con đầu của ông là Nguyễn Khản được bổ chức Nhập thị bồi tụng, hai cha con cùng ở trong chính phủ. Ông mất ngày 17 /11 năm Ất mùi, tức ngày 07/0/1776, có cả thảy tám người vợ và hai mươi mốt người con, cả trai lẫn gái.

Mẹ Nguyễn Du là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, tên là Trần Thị Tần, con gái một ông làm chức câu kê (kế toán), người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay là huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Bà sinh ngày 03 tháng 7 năm Canh thân, niên hiệu Cảnh Hưng, tức ngày 24/8/1740, trẻ hơn chồng mười hai tuổi. Mẹ Nguyễn Du sinh được tất cả năm người con, bốn trai một gái. Năm 1775 người con đầu của bà là Nguyễn Trụ mất mới mười tám tuổi, năm sau chồng mất. Hai cái tang kế tiếp nhau trong hai năm liền làm cho bà đau buồn, lâm bệnh, và hai năm sau khi chồng mất, bà cũng qua đời ngày 06/7 năm Mậu tuất, tức ngày 17/8/1778, mới ba mưoi chín tuổi.

Gia đình cũng như dòng họ Nguyễn Du có rất nhiều người làm quan dưới triều Lê – Trịnh. Người địa phương có câu ca dao nói về dòng họ này:

“Bao giờ ngàn Hống hết cây,

Sông Rum hết nước, họ này hết quan”.

Nhưng gia đình Nguyễn Du không phải chỉ có nhiều người làm quan, mà còn có nhiều người viết sách, làm văn, nghĩa là một gia đình có truyền thống về văn học. Nguyễn Quỳnh ông nội Nguyễn Du là một nhà triết học chuyên nghiên cứu Kinh Dịch. Nguyễn Nghiễm một sử gia, đồng thời là một nhà thơ. Nguyễn Khản anh cả Nguyễn Du giỏi thơ Nôm, hay làm thơ đối đáp với Trịnh Sâm. Tương truyền Nguyễn Khản là một trong những người có dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra tiếng Việt. Rồi Nguyễn Đề anh cùng mẹ với Nguyễn Du, Nguyễn Thiện cháu gọi Nguyễn Du bằng chú ruột, Nguyễn Hành em ruột Nguyễn Thiện đều là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng.

Các tác phẩm của Nguyễn Du

Qua các tác phẩm của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm. Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành… nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao là Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện thơ.

Chính trên cơ sở này mà trong thơ Nguyễn Du luôn luôn vang lên âm thanh, bừng lên màu sắc của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của một bức tranh hiện thực đa dạng. Và giữa những âm thanh, màu sắc, đường nét vô cùng phong phú đó, Nguyễn Du hiện ra: vừa dạt dào yêu thương, vừa bừng bừng căm giận. Đây là chỗ đặc sắc và cũng là chỗ tích cực nhất trong nghệ thuật của Nguyễn Du. Từ thơ chữ Hán đến truyện Kiều, nó tạo nên cái sức sống kỳ lạ ở hầu hết tác phẩm của ông.

Văn bản

Sáng tác của Nguyễn Du được lưu hành ngay từ lúc ông còn sống. Tương truyền Truyện Kiều được Phạm Quý Thích nhuận sắc và cho in ở phố Hàng Gai – Hà Nội lúc ấy. Sau khi Nguyễn Du mất chỉ vài chục năm, vua Tự Đức từng có sớ cho quan tỉnh Nghệ An thu thập tất cả di cảo của Nguyễn Du để đưa về kinh. Từ đó đến nay, việc sưu tập, nghiên cứu phổ biến di sản văn học của Nguyễn Du vẫn còn tiếp tục. Còn có những ý kiến hồ nghi tác giả một số bài thơ chữ Hán vẫn được coi là của Nguyễn Du. Việc xác định thời điểm ra đời của các tác phẩm chưa được giải quyết, kể cả thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều. Mặc dù đã mất nhiều công sức, nhưng các ý kiến trong giới nghiên cứu vẫn còn rất khác nhau.

Tác phẩm bằng chữ Hán

Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được ba nhà nho là: Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập: Thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nhà xuất bản Văn hóa, 1959) chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965 Nhà xuất bản Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài như sau:

Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.

Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.

Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.

Tác phẩm bằng chữ Nôm

Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có:

Đoạn trường tân thanh (Tiếng than van mới đau lòng đứt ruột. Tên phổ biến là Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc. Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học (bộ mới) ghi: "Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn".

Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), viết bằng thể thơ song thất lục bát hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên "Đông Dương tuần báo" năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.

Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.

Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.

Thuyết minh về Nguyễn Du 7

 Kể đến những tác giả, tác phẩm xuất sắc của văn học trung đại Việt Nam, ta nghĩ ngay đến Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều của ông. Với tấm lòng nhân đạo tha thiết và tài năng văn học kiệt xuất, Nguyễn Du để lại ấn tượng sâu sắc qua những sáng tác của ông, đặc biệt là Truyện Kiều.

 Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên (1765 – 1820), quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Xuất thân trong gia đình quý tộc, nhiều đời làm quan, có truyền thống văn chương. Cha là Nguyễn Nghiễm làm tới tể tướng dưới triều Lê, cũng là người giỏi văn chương. Mẹ là bà Trân Thị Tân người con gái xứ Kinh Bắc. Anh khác mẹ (con bà chính) Nguyễn Khản làm tới Tham Tụng, Thái Bảo trong triều. Nguyễn Du sống ở thời đại đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam, đó là sự kì khủng hoảng trầm trọng, giai cấp thông trị thối nát, tham lam, tàn bạo, các tập đoàn phong kiến (Lê – Trịnh- Nguyễn) chém giết lẫn nhau. Nông dân nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi, đời sống nhân dân khổ cực, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, tiêu biểu là phong trào Tây Sơn mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Huệ. Những yếu tố này tác động nhiều tới tình cảm, nhận thức của Nguyễn Du. Ông sớm lâm vào cảnh mồ côi (9 tuổi cha mất, 12 tuổi mẹ mất), phải sống phiêu bạt nhiều năm, nhiều nơi, lúc ở Thăng Long, lúc lại vào quê nội Hà Tĩnh, có giai đoạn về quê vợ ở Thái Bình. Những biến động lịch sử và cuộc đời đó đã tác động nhiều đến tâm hồn và tư tưởng của Nguyễn Du. Bởi thế ông cũng có nhiều tâm trạng: trung thành với nhà Lê, chống quân Tây sơn, sau này làm quan triều Nguyễn nhưng lại rụt rè, u uất. Có thể nói cuộc đời ông chìm nổi, gian truân, đi nhiều nơi, tiếp xúc nhiều hạng người, đời từng trải, vôn sông phong phú, có nhận thức sâu rộng, được coi là một trong năm người giỏi nhất nước Nam lúc bấy giờ. Ông còn là người có trái tim giàu lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc với những người nghèo khổ, với nhũng đau khổ của nhân dânệ Nguyễn Du nổi tiếng trước hết bởi cái tâm của một người luôn nghĩ đến nhân dân, luôn bênh vực cho những cuộc đời. nhữne số phận éo le, oan trái, đặc biệt là thân phận người phụ nữ.

 Nguyễn Du cũng là người có năng khiếu văn học bẩm sinh, bậc thầy trong việc sử dụng tiếng Việt, ngôi sao chói lọi trong nền văn học trung đại Việt Nam. Về sự nghiệp, văn học Nguyễn Du có nhiều sáng tạo lớn cả về chữ Hán và chữ Nôm. Các sáng tác chữ Hán có Thanh Hiên thi tập (78 bài), Bắc hành tạp lục (125 bài), Nam trung tạp ngâm (40 bài)… sáng tác chữ Nôm có Vân chiêu hồn, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, tiêu biểu là tác phẩm Truyện Kiều hay còn gọi là Đoạn trường tân thanh.

 Truyện Kiều ra đời đầu thế kỉ XIX (khoảng từ 1805 – 1809), lúc đầu có tên là "Đoạn trường tân thanh" (Tiếng kêu mới đứt ruột), sau này đổi thành "Truyện Kiều". Tác phẩm viết dựa trên cuốn tiểu thuyết "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) nhưng đã có sự sáng tạo tài tình và thay đổi, bổ sung nhiều yếu tố trong cốt truyện cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Là truyện thơ Nôm được viết bằng thơ lục bát, dài 3254 câu, chia làm 3 phần (Gặp gỡ và đính ước; Gia biến và lưu lạc; Đoàn tụ). Đề tài của truyện là viết về cuộc đời Kiều nhưng thông qua đó tố cáo xã hội phong kiến lúc bấy giờ đã chà đạp, xô đẩy người phụ nữ vào bước đường cùng; đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của Thuý Kiều và của người phụ nữ nói chung. Tác phẩm còn thể hiện rất rõ hiện thực cuộc sống đương thời với "con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ tới muôn đời" của nhà thơ.

 Truyện Kiều kể về cuộc đời truân chuyên của người con gái tài sắc Thuý Kiều. Thuý Kiều là một cô gái sinh trưởng trong gia đình họ Vương có ba chị em: Thuý Kiều, Thuý Vân và Vương Quan. Kiều là người con gái tài năng và nhan sắc thuộc bậc trên người. Nàng còn là người con hiếu nghĩa. Trong hội đạp thanh, Kiều gặp Kim Trọng, họ đã yêu nhau sau đó đính ước. Khi Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú, gia đình Kiều gặp tai biến, Kiều phải bán mình chuộc cha. Mã Giám sinh mua Kiều về Lâm Tri. Tú Bà lập mưu biến nàng thành gái lầu xanh. Thúc Sinh chuộc Kiều và cưới nàng làm vợ lẽ. Nàng lại bị Hoạn Thư – vợ Thúc Sinh sai lính đến bắt về làm hoa nô và bày trò đánh ghen. Nàng trốn khỏi nhà Thúc Sinh. Nhưng lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh phải vào lầu xanh lần thứ hai. Tại đây, Kiều gặp Từ Hải – một anh hùng "đội trời, đạp đất", chàng chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, giúp Kiều báo ân, báo oán. Kiều lại mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị chết đứng. Kiều bị ép lấv viên thổ quanể Nhục nhã, đau đớn, nàng nhảy xuống sông Tiền Đường tự tư. được sư Giác Duyên cứu và đi tu. Kim Trọng trở lại sau nửa năm, chàng kết duyên với Thuý Vân theo lời trao duyên của Kiều.

 Sau này, Kim Trọng và Vương Quan đã bỏ nhiều công sức tìm Thúy Kiều. Rất may họ đã gặp lại Thuý Kiều, Kiều được đoàn tụ với gia đình và Kim Trọng sau mười lăm năm lưu lạc.

 Giá trị của Truyện Kiều được thể hiện trên hai phương diện chủ yếu là nội dung và nghệ thuật.

 Giá trị nội dung thể hiện qua giá trị hiện thực và nhân đạo.

 Giá trị hiện thực của tác phẩm là phản ánh hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị. Sức mạnh của đồng tiền và số phận những con người bị áp bức, nạn nhân của đồng tiền, đặc biệt là người phụ nữ. Gia đình nhà Vương ông đang sống bình yên, chỉ vì một lời không đâu vào đâu của thằng bán tơ "vu oan giá hoạ", thế là cuộc sống yên lành bị phá vỡ, tai hoạ ở đâu ập xuống nhà Kiều. Sau cái cớ ấy bọn sai nha tiến vào nhà Kiều cướp phá đánh đập, chúng đã được một lũ quan lại dung túng, bảo hộ, giật dây. Kẻ cầm đầu lũ vô lại đấy đã thảng thắn đòi: "Có ba trăm lạng, việc này mới xong". Tên quan xử kiện vụ án của Kiều được Nguyễn Du đặc tả: "Trông lên mặt sắt đen sì". Hồ Tôn Hiến, tên quan lớn nhất trong Truyện Kiều, đại diện cho triều đình phong kiến với tư cách là một Tổng đốc trọng thần nhưng lại "Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình". Sức mạnh của đồng tiền khi nó nằm trong tay kẻ xấu thật kinh khủng, đồng tiền đã thành một thế lực vạn năng chi phối mọi hoạt động, làm băng hoại lương tâm, nhân phẩm của con người. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã viết về đồng tiền trong Truyện Kiều: "Quan lại vì tiền mà bất chấp công lí, sai nha vì tiền mà tra tấn cha con Vương ông, Tú bà, Mã Giám sinh vì tiền mà làm nghề buôn thịt bán người, Sở Khanh vì tiền mà táng tận lương tâm, Khuyển Ưng vì tiền mà lao vào tội ác, cả một xã hội chạy theo đồng tiền". Cuộc đời đầy nước mắt của người con gái tài sắc Thuý Kiều cũng bắt đầu từ chính sức mạnh và sự bất nhân của đồng tiền.

 Giá trị nhân đạo được thể hiện trước hết là sự trân trọng đề cao con người từ ngoại hình, phẩm chất, tài năng khát vọng đến ước mơ và tình yêu chân chính. Về ngoại hình, ta thấy Thuý Vân là một thiếu nữ đoan trang phúc hậu, Thuý Kiều đẹp thuộc diện "sắc trung chi thánh"- quá ư là hơn người, hơn đời, Kim Trọng mang vẻ đẹp của một văn nhân thư sinh, Từ Hải đẹp kiểu người anh hùng: vai năm tấc rộng thân mười thước cao. về phẩm chất Thuý Vân là một cô gái ngoan. Kim Trọng – một chàng trai chung tình. Thuý Kiểu tài năng (Cầm, kì, thi, hoạ) – một người con hiếu thảo, giàu đức hy sinh, người yêu chung thuỷ. Tình yêu Kim Kiều – Tinh yêu hồn nhiên trong trắng, nó vượt sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến trong thời điểm chế độ phong kiến suy tàn.

 Bên cạnh đó Truyện Kiều còn lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của con người, đề cao tự do và công lí. Thuý Kiều điển hình cho người phụ nữ trong xã hội xưa, mười lăm năấiì lưu lạc của nàng là một chuỗi bi kịch. Dường như bao nhiêu nỗi cực khổ của người đàn bà thời trước đều ập xuống vai nàng. Từ một cô tiểu thư khuổ các, Kiều trở thành hàng hoá để cho người ta mua bán, rồi Kiều bị lừa gạt bị rơi vào lầu xanh tới hai lần, đem thân đi làm lẽ, làm đứa ở, rồi bị đánh đòn, lãng nhục trở thành tội phạm ở công đường, bị sỉ nhục, bị rơi vào cảnh giết chồng, kết thúc là phải tự vẫn. Cuộc đời Thuý Kiều là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo xã hội phong kiến bất nhân, xã hội ấy làm cho người lương ìhiện phải tìm đến cái chết. Còn khát vọng tự do và công lý được ông gửi gắm qua nhân vật Từ Hải và màn báo ân báo oán.

 Mặt khác Truyện Kiều còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước những đau khổ của con người đặc biệt là người phụ nữ. Nguyễn Du như khóc cùng tiếng đàn và cuộc đời của Thuý Kiều, ông cũng bày tỏ thái độ trân trọng Kiều cho dù có lúc nàng đã là hạng người dưới đáy của xã hội.

 Mặt khác, Truyện Kiều của Nguyễn Du có thể khắc sâu trong lòng nhân dân như vậy còn ở giá trị nghệ thuật. Trong tác phẩm của mình ông đã bộc lộ sự tài hoa, sắc sảo trong nghệ thuật tự sự, miêu tả nhân vật, tả cảnh, sử dụng ngôn từ… hay nói đúng hơn là giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Vê ngôn ngữ: Truyện Kiều là một kiệt tác nghệ thuật, với bút pháp của một nghệ sĩ thiên tài, tiếng Việt trong Truyện Kiều đã đạt đến độ giàu và đẹp. Vê nghệ thuật tự sự, thành công của Truyện Kiều trên tất cả các phương diện: ngôn ngữ kể chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả -  tả cảnh ngụ tình.

 Nhận xét về Nguyễn Du và Truyện Kiều, tác giả Mộng Liên Đường trong lời tựa Truyện Kiều đã viết: "Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thìa, ngậm ngùi, đau đớn đến đứt ruột. Tố Như sử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh cũng hệt, đàm tình đã thiết, nếu không có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy" chính là đã khái quát rất tuyệt vòi về giá trị của Truyện Kiều trên mọi phương diện.

 Từ quê hương, xã hội, gia đình, cuộc đời, năng khiếu bẩm sinh, đã tạo cho Nguyễn Du có trái tim yêu thương vĩ đại, một thiên tài văn chương với sự nghiệp văn học có giá trị lớn. Ông là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, là danh nhân văn hoá thế giới, đóng góp to lớn đối với sự phát triển của văn học Việt Nam. Nguyễn Du và Truyện Kiều sẽ sống mãi với dân tộc và trở thành linh hồn của dân tộc.

Thuyết minh về Nguyễn Du 8

Nguyễn Du được mệnh danh là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa của thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc có con mắt nhìn thấu “sáu cõi” và tấm lòng “nghĩ suốt ngàn đời”

Nguyễn Du hay còn có tên gọi Tố Như với tên hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ât Dậu) trong một gia đình có nhiều đời và nhiều người làm quan to dưới thời Lê, Trịnh. Cha ông là Nguyễn Nghiễm từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc

Khi thuyết minh về tác giả Nguyễn Du không ai là không nhớ đến vùng quê hương ông, vùng đất địa linh, nhân kiệt, hiếu học và trọng tài. Gia đình Nguyễn Du có truyền thống học vấn uyên bác, có nhiều tài năng về văn học. Gia đình và quê hương chính là “mảnh đất phì nhiêu” nuôi dưỡng tâm hồn thiên tài Nguyễn Du.

Thời thơ ấu, Nguyễn Du được sống trong nhung lụa. Khi lên 10 tuổi ông lần lượt mồ côi cả cha lẫn mẹ, cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu vấp phải những sóng gió trong cơn quốc biến ba đào: Ông phải sống nhờ Nguyễn Khản người anh cùng cha khác mẹ làm Thừa tướng phủ chúa Trịnh, một thời gian sau thì Nguyễn Khản bị giam, bị Kiêu binh phá nhà ông phải chạy trốn. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam trường rồi làm một chức quan ở Thái Nguyên. Chẳng bao lâu nhà Lê sụp đổ ( năm1789) Nguyễn Du tạm lánh về quê vợ ở Thái Bình, rồi vợ mất, ông lại về quê cha, có lúc lên Bắc Ninh quê mẹ, ông trải qua một thời gian dài sống không nhà ở kinh thành Thăng Long.

Hơn mười năm chìm nổi long đong ngoài đất Bắc, Nguyễn Du sống gần gũi nhân dân và thấm thìa biết bao nỗi ấm lạnh của kiếp người, đặc biệt là người dân lao động phụ nữ, trẻ em, cầm ca, ăn mày… những con người “dưới đáy” của xã hội. Chính nỗi bất hạnh lớn trong cuộc đời đã hun đúc nên một thiên tài Nguyễn Du – nhà nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại.

Miễn cưỡng trước lời mời của triều đình nhà Nguyễn, Nguyễn Du ra làm quan. Năm 1813 được thăng chức Học sĩ điện cần Chánh và được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Năm 1820, ông lại được cử đi lần thứ hai nhưng chưa kịp đi thì mất đột ngột ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18-9-1820). Suốt thời gian làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du sống một cuộc sống trầm lặng, ít nói, có nhiều tâm sự không biết tỏ cùng ai.

Tư tưởng của Nguyễn Du khá phức tạp và có những mâu thuẫn khó giải thích: ông trung thành với nhà Lê, không hợp tác với nhà Tây Sơn, nhưng bất đắc dĩ làm quan cho nhà Nguyễn. Ông là một người có lí tưởng, có hoài bão nhưng trước cuộc đời gió bụi lại buồn chán, Nguyễn Du coi mọi chuyện đều là chuyện hão nhưng lại rơi lệ đoạn trường trước những cuộc bể dâu. Nguyễn Du đã đứng giữa giông tố cuộc đời trong một giai đoạn lịch sử đầy bi kịch. Đó là bi kịch của đời ông nhưng chính điều đó lại khiến tác phẩm của ông chứa đựng chiều sâu chưa từng có trong thơ văn Việt Nam.

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du, ta không thể bỏ qua ba tập thơ chữ Hán nổi tiếng của ông là: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, với tổng cộng 250 bài thơ Nôm, Nguyễn Du có kiệt tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều), Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) và một số sáng tác đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; vè Thác lèn trai phường nón.

Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du tâm sự:

“Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

Chính “những điều trông thấy” khiến tác phẩm của Nguyễn Du có khuynh hướng hiện thực sâu sắc. Còn nỗi “đau đớn lòng” đã khiến Nguyễn Du trở thành một nhà thơ nhân đạo lỗi lạc.

Nguyễn Du là nhà thơ “đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả mọi vang động của đời” (Nam Cao). Thơ chữ Hán của Thanh Hiên giống những trang nhật kí đời sống, nhật kí tâm hồn vậy. Nào là cảnh sống, nào là ốm đau, bệnh tật cho đến cảnh thực tại của lịch sử… đều được Nguyễn Du ghi lại một cách chân thực thể hiện trong tác phẩm Đêm thu; Tình cờ làm thơ; Ngồi dèm…. Nguyễn Du vạch ra sự đối lập giữa giàu – nghèo trong Sở kiến hành hay Thái Bình mại giả ca… Nguyễn Du chống lại việc gọi hồn Khuất Nguyên về nước Sở của Tống Ngọc là bởi nước Sở “cát bụi lầm cả áo người” toàn bọ “vuốt nanh”, “nọc độc”, “xé thịt người nhai ngọt xớt”… Nước Sở của Khuất Nguyên hay nước Việt của Tố Như cũng chỉ là một hiện thực đối lập: cái ác hoành hành khắp nơi, người tốt không chốn dung thân. Truyện Kiều mượn bối cảnh đời nhà Minh ở Trung Quốc nhưng trước hết là bản cáo trạng đanh thép ghi lại “những điều trông thấy” của Nguyễn Du về thời đại nhà thơ đang sống. Phản ánh với thái độ phê phán quyết liệt, đó là khuynh hướng hiện thực sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du.

Sáng tác của Nguyễn Du chất chứa tư tưởng nhân đạo, trên hết là sự quan tâm sâu sắc tới thân phận con người. Truyện Kiều không chỉ là bản cáo trạng mà còn là khúc ca tình yêu tự do trong sáng, là giấc mơ tự do công lí “tháo cũi sổ lồng”. Nhưng trong suốt những câu thơ của Truyện Kiều chủ yếu vẫn là tiếng khóc xé ruột cho thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp, đặc biệt là người phụ nữ trong thời đại này.

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

Hầu hết các sáng tác của Nguyễn Du đều mang một nguồn cảm hứng xót thương, đau đớn: từ Đọc Tiểu Thanh kí đến Người ca nữ đất Long Thành, từ Sờ kiến hành đến Văn tế thập loại chúng sinh… thậm chí Nguyễn Du còn vượt cả cột mốc biên giới, vượt cả ranh giới ta – địch và vượt cả sự cách trở âm dương để xót thương cho những kẻ chết trận, phơi “xương trắng” nơi “quỉ môn quan”.

Những vần thơ của ông không chỉ xót thương mà còn trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, cùng những khát vọng sống, khát vọng của tình yêu, hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của ông đã vượt qua một số ràng buộc phong kiến và tôn giáo để vươn tới khẳng định giá trị tự thân của con người. Đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông đã mang đến cho văn học Việt Nam trong thời đại ông.

Nguyễn Du đã có những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật.Những tác phẩm viết bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ Nôm Nguyễn Du đã trở thành đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai thể thơ dân tộc: lục bát trong Truyện Kiều và song thất lục bát trong Văn tế thập loại chúng sinh. Với Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển.

Khi thuyết minh về Nguyễn Du người ta không quên nhắc đến sự đóng góp rất lớn, rất quan trọng của ông cho sự phát triển giàu đẹp của ngôn ngữ văn học Tiếng Việt: số từ Hán – Việt giảm hẳn, câu thơ tiếng Việt vừa thông tục, vừa trang nhã, diễm lệ nhờ vần luật chỉnh tề, lối ngắt nhịp đa dạng, tiểu đối phong phú, biến hóa. Thơ Nguyễn Du xứng đáng là đỉnh cao của tiếng Việt văn học Trung Đại. Đặc biệt Truyện Kiều cùa Nguyễn Du là “tập đại thành” về ngôn ngữ văn học dân tộc.

Từ quê hương, xã hội, gia đình, cuộc đời, năng khiếu bẩm sinh, đã tạo cho Nguyễn Du có trái tim yêu thương vĩ đại, một thiên tài văn chương với sự nghiệp văn học có giá trị lớn. Ông là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, là danh nhân văn hoá thế giới, đóng góp to lớn đối với sự phát triển của văn học Việt Nam. Nguyễn Du và Truyện Kiều sẽ sống mãi với dân tộc và trở thành linh hồn của dân tộc. Và khi thuyết minh về Nguyễn Du chúng ta không thể quên câu thơ như chất chứa bao tâm sự của ông:

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”.

Thuyết minh về đại thi hào Nguyễn Du 9

    Nền văn học Việt Nam được tạo nên bởi nhiều tài năng lớn. Trong số đó Nguyễn Du luôn xứng đáng là đại diện xuất sắc lỗi lạc nhất cho văn học dân tộc ở mọi thời đại.

    Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê gốc ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh nhưng được sinh ra tại Thăng Long ngày 25 tháng 11 năm Ất Dậu (tức ngày 3 tháng 11 năm 1765). Xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, từng có nhiều người làm quan và nhiều người sáng tác văn học, cha là Nguyễn Nghiễm, từng là tể tướng triều Lê, mẹ là Trần Thị Tần, vợ thứ ba của cha, xuất thân từ một gia đình bình dân ở Bắc Ninh, vốn rất giỏi hát xướng, Nguyễn Du sớm kế thừa được những truyền thống tốt đẹp của gia đình.

    Cuộc đời của nhà thơ có nhiều biến đổi thăng trầm. Sau những năm tháng ấu thơ êm đềm và hạnh phúc, đến năm 10 tuổi tang thương bắt đầu ập đến: cha mất, tiếp theo hai năm sau mẹ cũng qua đời. Nguyễn Du phải đến sống nhờ nhà người anh cả cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi hương đậu tam trường, rồi làm một chức quan võ ở Thái Nguyên. Năm 1789 nhà Lê sụp đổ, Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình, rồi tiếp đó về sống ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Đó là quãng đời "mười năm gió bụi" vô cùng long đong khổ cực của nhà thơ.

    Năm 1802 nhà Nguyễn được thiết lập, Nguyễn Du bất đắc dĩ từ chối không được phải miễn cưỡng ra làm quan. Ông từng làm tri huyện, tri phủ Thường Tín, cai bạ Quảng Bình. Tiếp đó, năm 1813 ông được thăng chức học sĩ điện Cần Chánh và được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Sau khi về nước ông được thăng làm Tham tri bộ Lễ. Năm 1820 Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc lần nữa nhưng chưa kịp đi thì ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn ông mất đột ngột trong một trận dịch lớn.

    Trong cuộc đời nhiều sóng gió của mình Nguyễn Du đã để lại một sự nghiệp văn học vô giá: đồ sộ về số lượng, sâu sắc về nội dung, xuất sắc trong nghệ thuật thể hiện. Nguyễn Du sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Thơ chữ Hán có ba tập: Thanh Hiên thi tập, được làm lúc nhà thơ đang sống ở quê vợ Thái Bình và quê nhà Nghi Xuân; Nam trung tạp ngâm, viết trong thời gian Nguyễn Du làm quan ở Quảng Bình; Bắc hành tạp lục là tập thơ chữ Hán xuất sắc nhất, tập hợp những sáng tác ra đời trong lúc Nguyễn Du đi sứ ở Trung Quốc.

    Trong những tập thơ này có nhiều bài thơ rất đặc sắc: Độc Tiểu Thanh kí , sở kiến hành, Long Thành cầm giả ca, Thái Bình mại ca giả. về thơ chữ Nôm, Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều và một tác phẩm cũng rất nổi tiếng: "Văn tế thập loại chúng sinh”.

    Những sáng tác của Nguyễn Du trước hết cho thấy khả năng bao quát hiện thực và một cảm quan nhạy bén sắc sảo trước những vấn đề lớn của con người, của thời đại. Hiện thực cuộc sống với bao điều nhức nhối đã được Nguyễn Du ghi lại một cách trung thực và xúc động. Trên cái nền của sự phản ánh đó người đọc cũng thấy được ý thức phản kháng xã hội và đặc biệt là ý thức khẳng định, vun đắp cho cuộc sống hạnh phúc của con người của nhà thơ.

    Trái tim của đại thi hào luôn thao thức cùng bao nỗi buồn vui của con người trên khắp chốn nhân gian: từ người ca nữ đất Long Thành nổi danh tài sắc thì giờ tủi hờn trong cảnh chiều tà xế bóng ( Long Thành cầm giá cá); từ nàng Kiều tài sắc hơn người mà một đời bất hạnh (Truyện Kiều); cho đến người hát rong (Thái Bình mại ca giả), những người ăn xin (Sở kiến hành), cả đến những cô hồn tội nghiệp đang vất vưởng trong khắp cõi trời đất (Văn chiêu hồn)… tất cả đều hiện lên sống động trong bao niềm ưu tư trăn trở của Nguyễn Du. Hơn ai hết Nguyễn Du là một nhà hiện thực và nhân đạo vĩ đại của văn chương mọi thời đại bởi con mắt nhìn thấu cả sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt đến ngàn đời của ông

    Không chỉ có vậy, sáng tác Nguyễn Du còn là minh chứng của một nghệ thuật đã đạt tới trình độ bậc thầy của một tài năng kiệt xuất. Ngôn ngữ văn chương, đặc biệt là tiếng Việt đạt đến đỉnh cao của sự nhuần nhuyễn, tinh tế, tự nhiên, có khả năng biểu hiện sâu sắc đời sống và nội tâm con người. Đó còn là thứ ngôn ngữ được kết hợp hài hoà giữa ngôn ngữ bác học với ngôn ngữ bình dân, tạo nên nhiều sắc thái biểu hiện rất đa dạng.

    Nguyễn Du còn đặc biệt thành công trong việc xây dựng nhân vật. Ông đã để lại cho nền văn học dân tộc nhiều điển hình nhân vật bất hủ. Đến Nguyễn Du thế giới nội tâm con người với bao biến thái tinh vi, phức tạp dường như mới được khám phá trọn vẹn ở những chiều sâu không cùng của nó. Có thể nói tác phẩm của Nguyễn Du đã đạt tới sự mẫu mực của nghệ thuật cổ điển.

    Cuộc đời hơn năm mươi năm sống giữa trần gian của Nguyễn Du dẫu nhiều bi kịch cay đắng, có khi mất phương hướng trong những cơn lốc xoáy của lịch sử, thế nhưng trước sau Nguyễn Du vẫn là con người của tài hoa, của một trái tim luôn chan chứa dạt dào niềm yêu thương và nỗi xót đau vô hạn cho mỗi kiếp người bất hạnh trên khắp thế gian. Nguyễn Du là một tài năng, một tâm hồn mà càng qua thời gian càng ngời sáng.

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du 10

    Nguyễn Du danh nhân văn hóa nổi tiếng, hơn ai hết ông còn là nhà văn có tài năng viết nên “Truyện Kiều” tác phẩm kinh điển của nền văn học Việt Nam được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau.

    Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 sinh trưởng trong gia đình có nhiều người làm quan cho triều đình. Cả cha và mẹ ông đều là những người có quyền cao chức trọng được người đời sùng bái.

    Khi còn nhỏ ông sống trong giàu sang, từ khi cha mẹ mất cuộc đời ông bắt đầu cuộc sống cơ cực, nay đây mai đó. Thời gian sống ngoài xã hội ông thấm thía nỗi bất hạnh kiếp người thấp nhất của xã hội đó là tầng lớp người dân lao động, phụ nữ, trẻ em, cầm ca…nỗi bất hạnh đó đã góp phần tạo nên thiên tài Nguyễn Du.

    Ông sống trong thời kỳ rối ren khi có cả triều đó là Lê, Tây Sơn và triều Nguyễn. Ông có lí tưởng sống và hoài bão nhưng cuộc đời lại sóng gió liên miên, Nguyễn Du đứng giữa giông tố cuộc đời và nhiều giai đoạn biến cố nên đã viết ra nhiều tác phẩm văn học có giá trị. Ông có ba tập thơ chữ Hán đó là Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, 250 bài thơ Nôm, Nguyễn Du có một số tác phẩm nổi tiếng như Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) cùng các sáng tác đậm chất dân gian khác.

    Nội dung thơ văn của Nguyễn Du mang giá trị hiện thực sâu sắc, phản ánh cuộc đời cơ cực của chính bản thân và xã hội rối ren, bất công, bạo ngược lúc đương thời. Nếu đọc qua sẽ nhận ra tác phẩm Nguyễn Du đậm chất tinh thần nhân đạo, thể hiện sự đồng cảm, ngợi ca những con người dưới đáy xã hội nhất là những người phụ nữ có tài nhưng số phận hẩm hiu.

    Trong các tác phẩm của ông yếu tố nghệ thuật được đánh giá rất cao, ông đã đưa hai thể thơ dân gian của nước ta đạt đến trình độ điêu luyện, chính Nguyễn Du đã tiểu thuyết hóa thể loại truyện Nôm, điểm nhìn trần thuật từ bên trong nhân vật, nghệ thuật miêu tả tâm lí sâu sắc, thấu đáo, đóng góp to lớn, làm cho ngôn ngữ Tiếng Việt trở nên trong sáng, phong phú, biến hóa nhiều hơn. Nói không quá khi chính ông là người có công lớn khi giúp cho nền văn học nước nhà lên tầm cao mới.

    Nhìn chung trong tác phẩm của ông mang giá trị tư tưởng nhân đạo sâu sắc thể hiện khát vọng công lý, tự do, cảm thương cho số phận người phụ nữ, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ tài sắc nhưng bất hạnh, qua đó không quên tố cáo mặt trái của chế độ phong kiến thối nát.

    Nguyễn Du là người tài giỏi đã đóng góp quan trọng sự phát triển ngôn ngữ Tiếng Việt trở nên phóng khoáng, phong phú và đa dạng và biến hóa hơn. Nguyễn Du chắc chắn là người quan trọng góp phần phát triển nền văn hoa trung đại nước nhà.



Thuyết Minh Về Tác Giả Nguyễn Du 11

1. Mở bài 

     Nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ “Kính gửi cụ Nguyễn Du” đã từng viết:

Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương

Dẫu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng

Nhân tình nhắm mắt chưa xong

Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như?

     Vâng, có lẽ, chắc hẳn khi đọc những vần thơ ấy của nhà thơ Tố Hữu trong lòng mỗi người chúng ta lại hiện lên hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Du – nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa tiêu biểu, người có nhiều đóng góp to lớn và xuất sắc cho nền văn học trên nhiều phương diện về nội dung và nghệ thuật.

2. Thân bài thuyết minh về tác giả Nguyễn Du

     Nguyễn Du, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, ông sinh năm 1765, mất năm 1820. Nguyễn Du sinh ra, lớn lên, thời ấu thơ và niên thiếu sống tại Thăng Long, trong một gia đình phong kiến quyền quý. Quê nội của Nguyễn Du ở xã Nghi Xuân, huyện Tiền Điền, tỉnh Hà Tĩnh – quê hương của những làn điệu dân ca nhẹ nhàng, du dương. Mẹ của Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần – người vợ thứ ba của cha ông, quê ở Bắc Ninh, là người có tài đàn hát. Thêm vào đó, vợ của Nguyễn Du quê ở Quỳnh Côi, trấn Nam Sơn (nay thuộc tỉnh Thái Bình) – nơi ông đã sống trong quãng thời gian “mười năm gió bụi”. Như vậy, Nguyễn Du đã sống ở nhiều vùng quê và đó cũng chính là cơ hội để ông được tiếp xúc, khám phá nhiều vùng văn hóa khác nhau. Có thể nói, điều đó chính là tiền đề, cơ sở thuận lợi tạo nên sự tổng hợp nghệ thuật trong tâm hồn và sáng tác của ông. Đặc biệt, Nguyễn Du sinh ra trong dòng họ nhiều đời làm quan ở vùng Tiên Điền, Hà Tĩnh và như dân gian ta từ xưa đã có câu

Bao giờ Ngàn Hồng hết cây

Sông Lam hết nước nước họ này hết quan.

 (Ca dao)

     Quả đúng như câu ca, trong gia đình của Nguyễn Du có rất nhiều người làm quan. Thân phụ của Nguyễn Du đã có lúc giữ đến chức Tể tướng ở trong triều đình nhà Lê – Trịnh. Nguyễn Khản – anh trai cùng cha khác mẹ với ông từng làm tới chức Tham tụng, một thời nổi tiếng phong lưu và là người rất thân với chúa Trịnh Sâm. Chính truyền thống khoa cử trong gia đình đã tạo điều kiện cho Nguyễn Du sớm được học hành, dùi mài kinh sử và tiếp thu những tư tưởng của Nho giáo. Đồng thời, gia đình Nguyễn Du cũng là một gia đình có truyền thống yêu chuộng văn học, thích hát xướng và sành thơ văn bằng chữ Nôm. Như vậy, những yếu tố về quê hương và gia đình chính là cái nôi, là điều kiện thuận lợi để Nguyễn Du có cơ hội được tiếp xúc với văn học nghệ thuật từ thuở nhỏ, khám phá các nền văn hóa khác nhau và dùi mài kinh sử, để từ đó có một vốn sống, vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc.

     Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong bối cảnh thời đại có nhiều biến động. Đó là khoảng thời gian đất nước bị chia cắt, khủng hoảng xã hội và loạn lạc ở khắp nơi, đời sống nhân dân cơ cực. Đồng thời, trong khoảng thời gian phong trào đấu tranh của nhân dân nổ ra khắp nơi, tiêu biểu trong số đó chính là khởi nghĩa Tây Sơn. Chính những điều đó đã có ảnh hưởng to lớn đến tư tưởng và ngòi bút hiện thực trong những sáng tác của ông.

     Có thể nói, Nguyễn Du đã sống một cuộc đời với đầy những bi kịch, trải qua nhiều gian truân, vất vả. Lên mười tuổi, Nguyễn Du đã mồ côi cha và sau đó ba năm thì mẹ ông cũng qua đời, từ đó, Nguyễn Du đến sống với người anh cùng cha khác mẹ với ông là Nguyễn Khản. Thời gian sống cùng Nguyễn Khản đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Nguyễn Du dùi mài kinh sử, am hiểu về cuộc sống phong lưu, xa hoa của tầng lớp quý tộc phong kiến và về sau những điều này đã để lại ấn tượng trong sáng tác của ông. Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường và được nhận một chức quan nhỏ. Nhưng cuộc sống êm đềm của ông kéo dài không được bao lâu, năm 1789, nhà Lê sụp đổ, Nguyễn Du phải lánh về sống ở quê vợ và bắt đầu cuộc sống “mười năm gió bụi” với biết bao khổ cực và tủi nhục. Sau quãng thời gian sống chật vật, khó khăn ở các vùng quê khác nhau, đến năm 1802, Nguyễn Du miễn cưỡng chấp nhận ra làm quan dưới triều Nguyễn và từng giữ nhiều chức quan khác nhau như Tri huyện, Tri phủ, Cai Bạ Quảng Bình. Ngoài ra, ông còn được cử đi sư ở Trung Quốc và đến năm 1820, ông một lần nữa được cử đi sứ sang Trung Quốc nhưng chưa kịp đi thì mắc bệnh và qua đời.

     Suốt cả cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Du đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam nhiều tác phẩm xuất sắc với nhiều thể loại khác nhau, được sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Nhắc đến sáng tác bằng chữ Hán của Nguyễn Du, hiện nay, các nhà nghiên cứu văn học đã sưu tầm được 249 bài thơ thuộc ba tập thơ được sáng tác vào các thời kì khác nhau. Đó là “Thanh Hiên thi tập” với 78 bài thơ chủ yếu được sáng tác trong quãng thời gian trước khi Nguyễn Du ra làm quan vào thới nhà Nguyễn. Là “Nam trung tạp ngâm” gồm 40 bài viết thời gian ông làm quan ở các tỉnh ở phía nam của Hà Tĩnh – quê hương của ông. Và cuối cùng đó là tập “Bắc hành tạp lục” với 131 bài thơ, được ông sáng tác trong chuyến đi sứ Trung Quốc. Bên cạnh những sáng tác bằng chữ Hán, sáng tác bằng chữ Nôm của Nguyễn Du cũng có giá trị to lớn. Sáng tác bằng chữ Nôm của Nguyễn Du được biết đến là Văn chiêu hồn và Truyện Kiều, song có lẽ, nổi tiếng hơn cả đó chính là Truyện Kiều. Truyện Kiều đã được Nguyễn Du sáng tạo dựa trên cốt truyện của Kim Vân Kiều truyện – một tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc.

     Đặc biệt, trong sự nghiệp sáng tác của mình, mặc dù sáng tác của ông rất đa dạng song vẫn thể hiện một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật hết sức nhất quán. Trước hết, thơ văn của Nguyễn Du luôn phản ánh chân thực và sâu sắc hiện thực xã hội với đầy rẫy những bất công cũng nỗi thống khổ, cơ cực của nhân dân. Đồng thời, những trang viết của Nguyễn Du luôn chan chứa chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc và có lẽ ông là người đầu tiên trong nền văn học trung đại tập trung ngòi bút của mình để cất lên tiếng nói về thân phận người phụ nữ xinh đẹp và tài năng. Thêm vào đó, nghệ thuật thơ văn của Nguyễn Du cũng rất độc đáo. Những vần thơ chữ Hán của ông đạt đến độ tài hoa, uyên bác của về thể loại và cách sử dụng hình ảnh ngôn từ. Đặc biệt, sáng tác bằng chữ Nôm của ông đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ và góp phần trau dồi, làm giàu ngôn ngữ dân tộc và sử dụng thể thơ truyền thống trong sáng tác thơ văn.

3. Kết bài 

     Tóm lại, Nguyễn Du là nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc, ông xứng đáng là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, ông không chỉ là ngòi bút phê phán hiện thực sâu sắc mà còn là nhà thơ, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn với tấm lòng yêu thương sâu sắc

THUYẾT MINH VỀ NGUYỄN DU 12

Trong nền văn học Việt Nam đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ lỗi lạc được người đời truyền tụng và yêu mến. Đó là một Nguyễn Trãi tài ba khí phách, một Nguyễn Đình Chiểu hết lòng vì nhân dân…và không thể không nhắc đến Nguyễn Du – một đại thi hào lớn của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới và cũng là một nhà nhân đạo lỗi lạc.

Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, sinh năm 1765 tại vùng đất địa linh nhân kiệt Thăng Long nhưng quê gốc của ông lại ở Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan to dưới thời vua Lê – chúa Trịnh. Gia đình ông có truyền thống yêu chuộng văn học, rất sành thơ Nôm, thích hát xướng. Có lẽ đây chính là chiếc nôi đầu tiên nuôi dưỡng tâm hồn thơ văn của tác giả để sau này ông có thể viết nên những áng văn thơ lay động lòng người.

Cuộc đời của Nguyễn Du là những chuỗi ngày sóng gió và đầy bất trắc. Dẫu thuở nhỏ được sống trong nhung lụa nhưng ông sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ khi mới chỉ mười tuổi và phải sống nhờ vào người anh cùng cha khác mẹ. Ông cũng đi thi, cũng làm quan nhưng thời thế loạn lạc đã đẩy ông vào con đường khốn khó, cơ cực. Hơn mười năm chìm nổi long đong ngoài đất Bắc, Nguyễn Du sống gần gũi nhân dân và thấm thía biết bao nỗi ấm lạnh kiếp người, đặc biệt là người dân lao động, phụ nữ, trẻ em, cầm ca, ăn mày… những con người “dưới đáy” xã hội. Chính nỗi bất hạnh lớn trong cuộc đời đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du – nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

Nguyễn Du là một người thanh liêm, sống thầm lặng, hết sức khinh bỉ bọn quan lại chỉ biết vinh thân phì gia, không lo gì đến việc dân, việc nước. Suốt cuộc đời ông sống trong bi kịch, dẫu xuất thân trong gia đình quý tộc nhưng cơn lốc lịch sử đã hất đổ hết lầu son gác tía mà đẩy ông vào cuộc sống lay lắt, lưu lạc, tha hương. Tố Như đã sống như một người dân thường giữa thế gian và nhờ thế ông thông cảm sâu xa với mọi kiếp người bị đày đọa. Ông nhìn đời với đôi mắt của một người phải chứng kiến nhiều giông tố và nhờ đó, tác phẩm của ông hàm chứa một chiều sâu chưa từng có trong văn thơ Việt Nam.

Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du là một bước đường dài, vừa chen lẫn đắng cay nhưng cũng rất thành công rực rỡ. Về chữ Hán, Nguyễn Du có ba tập thơ: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Còn về thơ chữ Nôm, Nguyễn Du có hai kiệt tác là “Truyện Kiều” và “Văn tế thập loại chúng sinh”.

Trước hết, ông là nhà thơ có khuynh hướng hiện thực sâu sắc, toàn bộ sáng tác của ông dù rất đa dạng đa dạng nhưng sự khốc liệt của hiện thực vẫn bao trùm tất cả. Tố Như lúc nào cũng nghĩ về hiện thực cuộc sống với những vấn đề nhức nhối của nó, và ông đã dùng thơ ca để thể hiện một cách chân thật những suy nghĩ này. Tuy vậy, ông không nhắm mắt buông xuôi mà lúc nào cũng lên án xã hội bất công, đen tối.

Chính vì chứng kiến những cảnh đời bất hạnh và xã hội mục rữa, đen tối, Nguyễn Du luôn mang trong mình một tư tưởng hướng về nhân dân và bản thân ông chính là một nhà thơ nhân đạo vĩ đại. Ông quan tâm sâu sắc tới thân phận con người, đặc biệt là số phận bất hạnh của người phụ nữ bị chà đạp dưới thời đại phong kiến:

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”

Tố Như đã vượt qua những ràng buộc của ý thức hệ phong kiến và tôn giáo để vươn đến khẳng định giá trị tự thân của con người. Ông luôn khẳng định hạnh phúc trần gian của con người làm nền tảng, do đó thơ văn của ông chẳng khác nào những bài ca khóc thương cho con người nơi thế tục.

Về mặt nghệ thuật, thơ Nguyễn Du cũng mang những nét đẹp hết sức riêng biệt. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ Nôm Nguyễn Du thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai thể thơ dân tộc: lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh). Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển. Trong thơ Tố Như, ngôn ngữ văn học như trở nên đẹp đẽ hơn khi mà tỉ lệ từ Hán Việt giảm hẳn, câu thơ tiếng Việt của ông vừa bình dị, dễ hiểu, vừa trang nhã, diễm lệ nhờ vần luật chỉnh tề, ngắt nhịp đa dạn, tiểu đối phong phú, biến hóa. Có thể nói, thơ ca Nguyễn Du xứng đáng là đỉnh cao của tiếng Việt văn học trung đại.

Nguyễn Du xứng đáng là một tượng đài trong văn học Việt Nam bởi những gì mà ông đã cống hiến để rồi ngàn đời sau, người đời luôn nhớ đến ông như một nhà nhân đạo đáng ngưỡng mộ:

“Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân

Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều.”

Thuyết minh về tác gia Nguyễn Du 13

"Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau."

Đọc hai câu thơ trên chắc hẳn người đọc sẽ nhận ta ngay đó là "Truyện Kiều"- một kiệt tác của đại thi hào dân tộc, Nguyễn Du. Ông là một nhà thơ nhân đạo, lỗi lạc đã dùng tài năng văn chương của mình để viết lên những bài học nhân đạo để cho đời.

Nguyễn Du, tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên. Ông sinh năm 1765 mất năm 1820. Quê cha của ông ở tỉnh Hà Tĩnh, quê mẹ ở Bắc Ninh nhưng ông lại được sinh ra ở Thăng Long. Nhờ đó, ông có trong mình một nền văn hóa sâu rộng về các vùng. Có thể nói, quê hương của ông là một vùng đất linh kiệt, hiếu học, trọng tài, thêm vào đó, gia đình ông có truyền thống học vấn uyên bác vì thế quê hương và gia đình chính là gốc rễ để nuôi dưỡng nên một nhà thơ uyên bác, đại thi hào dân tộc - Nguyễn Du.

Từ đời ông cha đã làm quan to trong triều đình, nên khi còn nhỏ, Nguyễn Du đã được sống trong nhung lụa. Tuy nhiên, khi ông lên mười tuổi, thì ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, và từ đó cuộc sống của ông trở nên gập ghềnh, chính ông đã trải qua một thời kì lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến. Vì vậy các tác phẩm của ông đều chứa đựng một chiều sâu về xã hội con người bấy giờ.

Nguyễn Du là người học cao hiểu rộng, tài năng nên sự nghiệp làm quan của ông khá thành đạt. Nhưng ông vẫn không màng đến sự giàu sang, phú quý ấy, lòng ông luôn đau đáu những nỗi niềm khó tả. Ông chứng kiến cuộc sống của nhân dân, những mặt trái của xã hội, lòng ông đau xót, yêu thương dân, và ông chỉ có thể bày tỏ nỗi lòng qua chính những câu thơ, câu văn của mình.

Về sự nghiệp văn học của ông, ông đã để lại cho thế hệ con cháu đời sau một tài sản văn chương đồ sộ. Ông có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Những tác phẩm chữ Hán của ông được đánh giá là giản dị, tinh luyện mà tài hoa. Thơ chữ Nôm, ông có hai kiệt tác, đó là Đoạn trường tân thanh ( Truyện Kiều) và Văn tế thập loại chúng sinh.

Có thể nói rằng Truyện Kiều là một dấu ấn, một ngôi sao sáng nhất trong các tác phẩm văn học của ông. Truyện Kiều được Nguyễn Du chuyển dịch từ một câu chuyện của Trung Quốc và được nhân dân ta đón nhận một cách nồng nhiệt mà say sưa trong từng câu thơ. Bởi tác phẩm ấy như là một tiếng nói phản ánh lên các vấn đề của xã hội, số phận của những con người bị chà đạp, bị đẩy đến bước đường cùng của cuộc đời, đặc biệt là thân phận người phụ nữ qua nhân vật Kiều. Hiện nay, Truyện Kiều vẫn nắm giữ trong mình một lượng người đọc, người hâm mộ lớn. Tác phẩm còn được dịch sang nhiều thứ tiếng nước ngoài như tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung... Tổng thống Mỹ - Obama, một lần có chuyến thăm sang Việt Nam, ông đã dùng câu thơ trong Truyện Kiều để kết thúc bài phát biểu của mình:

"Rằng trăm năm cũng từ đây

Của tin gọi một chút này làm ghi."

Dễ thấy, tác phẩm văn học của ông " sâu sắc" đặc biệt như thế nào. Trong từng tác phẩm, câu văn, thơ chữ của ông đều toát lên tinh thần nhân đạo, những giá trị hiện thực sâu sắc, phản ánh một cách chân thực cuộc sống nhân dân. Nguyễn Du đã góp công to lớn trong việc làm cho ngôn ngữ Tiếng Việt trở nên trong sáng, tinh tế giàu có, ta có thể thấy rõ qua cách dùng từ tiếng Việt linh hoạt trong Truyện Kiều. Nghệ thuật trong miêu tả tâm lí nhân vật thật sắc bén mà dễ hiểu, dễ cảm thông.

Những đóng góp của Nguyễn Du cho nền văn học là rất lớn. Ông đã được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Nguyễn Du xứng đáng nhận được danh hiệu đó, bởi ông không chỉ những là một nhà thơ tài ba mà còn là một con người có tấm lòng nhân hậu sâu sắc, yêu nước thương dân, luôn khao khát một cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc cho dân tộc.

Thuyết Minh Về Tác Giả Nguyễn Du Và Truyện Kiều 14

"Trải qua một cuộc bể dâu

Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình

Nổi chìm kiếp sống lênh đênh

Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều".

Có biết bao nhà thơ, nhà văn khi đọc những trang thơ của Nguyễn Du không khỏi xúc động và cảm phục trước một tài năng xuất chúng của văn học Việt Nam, trước một kiệt tác văn hoá của dân tộc. Truyện Kiều là kiệt tác thơ văn, là cuốn sách "gối đầu giường" bao thế hệ người Việt, cuộc đời và số phận chìm nổi của nàng Kiều đến nay vẫn gợi ra bao xót xa, đau đớn khôn nguôi trong lòng người đọc, đó không chỉ là nỗi đồng cảm, xót xa cho cảnh ngộ đáng thương của riêng nàng Kiều trên trang thơ của Nguyễn Du mà còn là hoàn cảnh chung của rất nhiều người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Và vì lẽ ấy, mà Truyện Kiều và tác giả Nguyễn Du luôn giữ một với đặc biệt quan trọng trong văn học của Việt Nam nói riêng và văn học thế giới nói chung.

Nguyễn Du là một người con tại làng quê Tiên Điền, Hà Tĩnh - mảnh đất có truyền thống thơ văn, quê ngoại của ông ở Bắc Ninh, nơi nổi tiếng với những làn quan hỏi mượt mà. Bởi vậy mà ngày từ lúc còn nhỏ, Nguyễn Du đã có vốn am hiểu sâu sắc về văn hóa của nhiều làng quê Việt, ông càng hiểu và trân trọng hơn những giá trị văn hoá của quê hương mình. Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình khá giả, từng có nhiều thế hệ làm quan lớn trong triều, gia đình ông có truyền thống văn học, nhờ đó mà ông học hỏi được ít nhiều từ những người thân của mình.

Nguyễn Du sinh năm 1765 và mất vào năm 1820, ông sinh sống trong khoảng thời gian mà đất nước ta có nhiều biến động. Đây là thời kỳ suy tàn của chế độ phong kiến, lúc này Trịnh- Nguyễn đang đấu đá nhau, phân tranh khốc liệt, đặc biệt có nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra, đỉnh điểm là phong trào Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo. Xã hội lúc này có nhiều rối ren, đời sống nhân dân cũng khổ cực, loạn lạc, Nguyễn Du thấu hiểu và cảm thông với cuộc sống nhiều vất vả, khổ cực của nhân dân khi phải chịu nhiều đoạ đày, bất công của bọn thống trị tham lam, bạo ngược. Trái tim giàu lòng trắc ẩn và sự yêu thương của Nguyễn Du hướng về những kiếp người chịu nhiều ngang trái, đặc biệt là những người phụ nữ là yếu tố tạo nên những sáng tác thành công và đặc sắc của ông.

Nguyễn Du từng đi nhiều nơi, phiêu bạt khắp chốn, từng ra làm quan và đi sứ Trung Quốc, nhờ đó mà ông có vốn hiểu biết sâu sắc nhiều nền văn hoá và có vốn sống phong phú. Điều đó góp phần rất lớn trong việc sáng tác của ông.

Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị, cả về thơ ,văn chữ Hán và chữ Nôm như Văn Chiêu Hồn, Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm,...đỉnh cao nhât là thi phẩm truyện thơ Nôm "Truyện Kiều".

Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du được sáng tác vào khoảng đầu thế kỉ XIX, tác phẩm được viết dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tuy nhiên, với tài năng và tấm lòng của mình, Nguyễn Du đã biến đổi và sáng tạo để làm tác phẩm của mình trở nên có giá trị riêng, mang hồn cốt riêng của dân tộc Việt và phù hợp với những hoàn cảnh, quan niệm của xã hội Việt Nam.

Truyện Kiều viết theo thể thơ của lục bát truyền thống của dân tộc, tổng số câu thơ trong truyện là 3254 câu với 3 phần chính: Phần một là gặp gỡ và đính ước kể về lương duyên gặp gỡ của Kiều - Kim và hai người nên duyên thề hẹn son sắt trong đêm thề đính ước. Phần hai là phần gia biến và lưu lạc, phần này viết về những năm tháng cơ hàn, lênh đênh, tủi nhục của nàng Kiều sau khi bán mình cứu cha và em. Phần ba cũng là phần cuối tác phẩm là đoàn tụ, lúc này Kim Kiều gặp lại nhau sau bao năm trời cách biệt, họ gặp gỡ, mừng tủi, vẫn trân quý nhau nhưng không nên duyên đôi lứa mà lựa chọn làm "duyên bạn bầy".

Với số lượng câu thơ đồ sộ, Nguyễn Du đã xây dựng nên Truyện Kiều với hệ thống các nhân vật vô cùng phong phú. Nhân vật chính diện có thể kể đến như Thúy Kiều, Thúy Vân, Từ Hải, Kim Trọng, Đạm Tiên,....Các nhân vật phản diện được xây dựng như Mã Giám Sinh, Tú bà Lầu Xanh, Sở Khanh,......Tuy số lượng nhân vật lớn nhưng bằng tài năng trong cách xây dựng nhân vật của mình, Nguyễn Du đã tạo nên các nhân vật không hề lặp lại, mỗi hành động, ngoại hình, tính cách của nhân vật đều riêng biệt, bởi vậy mà không có nhân vật nào giống nhau, không dễ bị nhầm lẫn nhau, mỗi nhân vật đều góp phần rất lớn trong việc thể hiện nội dung câu chuyện được kể.

Thi phẩm "Truyện Kiều" mang nhiều giá trị lớn cho văn học dân tộc. Về giá trị tư tưởng, truyện đã thể hiện được khát vọng tự do, mơ ước về bình đẳng và công lý của con người trong đời sống xã hội. Đồng thời, bộc lộ tiếng nói cảm thông, xót xa trước sự khổ đau mà những người phụ nữ như Kiều phải gánh chịu. Là bản án đanh thép tố cáo một xã hội chuyên quyền, độc đoán, xã hội mà đồng tiền trở thành sức mạnh chi phối cả lương tri, đạo đức của con người. Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều đã cho thấy được ngòi bút đầy điêu luyện của tác giả trong việc sử dụng kết hợp ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân. Nghệ thuật diễn tả nội tâm nhân vật qua hành động, qua nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" đầy đặc sắc, thể thơ lục bát được sử dụng tài tình, thuần thục. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện đầy mới mẻ và sáng tạo, đồng thời giống điệu thơ biến đổi đầy lĩnh hoạt, đặc biệt là giọng điệu buồn thương, xót xa khi viết về Kiều.

" Không biết bà trăm năm lẻ nữa

Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Trước đây, bây giờ và cho đến mãi sau này thì tên tuổi của đại thi hào dân tộc vẫn vang mãi trong trái tim của những thế hệ người đọc.

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều 15

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, là người gắn bó am hiểu văn hóa dân tộc, văn chương Trung Quốc, cuộc đời từng trải. Nguyễn Du có một vốn sống phong phú, niềm thương cảm sâu sắc với nhân dân lao động. "Truyện Kiều" là một tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du và của văn học trung đại Việt Nam.

Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820 tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc có truyền thống khoa bảng và văn chương. Cuộc đời của ông gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIX. Nguyễn Du từng sống phiêu bạt mười năm trên đất Bắc sau đó về ở ẩn tại quê nội Hà Tĩnh rồi ra làm quan bất đắc dĩ với triều Nguyễn. Chính những biến động lịch sử đó đã tác động đến tâm hồn và tư tưởng của Nguyễn Du.

Nguyễn Du đã để lại sự nghiệp văn học đồ sộ với những tác phẩm có giá trị lớn, tiêu biểu là "Truyện Kiều". "Truyện Kiều" là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại truyện thơ nôm theo thể thơ lục bát gồm 3254 câu. "Truyện Kiều" dựa vào cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc), bằng tài năng của mình, Nguyễn Du đã sáng tạo nên "Truyện Kiều" của người Việt. "Truyện Kiều" lấy bối cảnh năm Gia Tĩnh triều Minh (Trung Quốc) để phản ánh xã hội phong kiến Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIX. Truyện kể về mười lăm năm lưu lạc đầy đau khổ, tủi nhục của người con gái tài hoa tuyệt sắc Thúy Kiều do bị các thế lực đen tối trong xã hội phong kiến bất công đầy đọa. Nguyễn Du đã lược bỏ các chi tiết về mưu mẹo, về sự báo oán tàn nhẫn và một số chi tiết dung tục trong tác phẩm của Thanh Tâm tài nhân, thay đổi thứ tự kể và sáng tạo thêm một số chi tiết mới để tạo ra một thế giới nhân vật sống động như thật, biến các sự kiện chính của tác phẩm thành đối tượng để bộc lộ cảm xúc, tình cảm của nhân vật và người kể, chuyển trọng tâm của truyện từ việc kể sự kiện sang biểu hiện nội tâm nhân vật làm cho các nhân vật sống hơn, sâu sắc hơn và tác phẩm trở thành một bách khoa toàn thư của muôn vàn tâm trạng.

Giá trị của truyện Kiều được thể hiện trên hai phương diện chủ yếu là giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. Giá trị nội dung được thể hiện qua giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Giá trị hiện thực của tác phẩm là bức tranh hiện thực về xã hội phong kiến bất công của những thế lực đen tối, sức mạnh ma quái của đồng tiền đã chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người đặc biệt là người phụ nữ. "Truyện Kiều" tố cáo các thế lực đen tối trong xã hội phong kiến, từ bọn sai nha, quan xử kiện cho đến "họ Hoạn danh gia", "quan Tổng đốc trọng thần" rồi là bọn ma cô, chủ chứa,... đều ích kỷ, tham lam, tàn nhẫn, coi nhẹ sinh mạng và phẩm giá con người. "Truyện Kiều" còn cho thấy sức mạnh ma quái của đồng tiền đã làm cho tha hóa con người. Đồng tiền làm đảo điên "Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì", đồng tiền giẫm lên lương tâm con người và xóa mờ công lý "Có ba trăm lạng việc này mới xuôi".

Giá trị nhân đạo của "Truyện Kiều" thể hiện ở chỗ tác phẩm là tiếng nói thương cảm cho số phận bi kịch của người phụ nữ đồng thời trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp, tài năng, ước mơ, khát vọng chân chính của con người. "Truyện Kiều" là tiếng nói thương cảm, là tiếng khóc đau đớn trước số phận bi kịch của con người. Thúy Kiều là nhân vật mà Nguyễn Duy yêu quý nhất. Khóc Thúy Kiều, Nguyễn Du khóc cho những nỗi đau đớn của con người: tình yêu tan vỡ, cốt nhục lìa tan, nhân phẩm bị chà đạp, thân xác bị đọa đày. Tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng là tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy đã phá vỡ những quy tắc thánh hiền về sự cách biệt nam nữ. Qua hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du gửi gắm ước mơ anh hùng "đội trời đạp đất", làm chủ cuộc đời, trả ân báo oán, thực hiện công lí, khinh bỉ những "phường giá áo túi cơm".

"Truyện Kiều" còn là một tác phẩm mang giá trị nghệ thuật đặc sắc. "Truyện Kiều" là "tập đại thành" của nền văn học trung đại, kết tinh những thành tựu nghệ thuật, văn hóa dân tộc cả về ngôn ngữ và thể loại. Ngôn ngữ dân tộc đạt tới đỉnh cao rực rỡ. Ngôn ngữ "Truyện Kiều" rất trong sáng. Trong tác phẩm có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân, cả hai đều được sử dụng có chọn lọc, hợp lý, đúng chỗ đúng lúc. Ngôn ngữ dành cho nhân vật được cá thể hóa cao độ, lời nhân vật nào phù hợp với nhân vật ấy làm rõ tính cách nhân vật. Ngôn ngữ dân tộc được nâng lên thành ngôn ngữ nghệ thuật, đủ sức diễn tả những biến thái tinh vi của cảnh sắc thiên nhiên và những biểu hiện tinh tế trong tâm hồn con người. Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc được sử dụng hết sức điêu luyện và vận dụng ý nghĩa một cách tối đa, đủ sức diễn tả nhiều sắc thái cuộc sống và những biểu hiện tinh tế trong đời sống tâm hồn con người. Nguyễn Du đã thành công trong việc xây dựng được một tiểu tiểu thuyết bằng thơ lục bát. Cả một thiên tiểu thuyết không một câu nào gượng ép. Nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc. Nghệ thuật miêu tả nhân vật đến mức độ điêu luyện. Với nhân vật chính diện, tác giả dùng bút pháp ước lệ tượng trưng là chủ yếu, lấy vẻ đẹp thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp con người. Còn với nhân vật phản diện, tác giả chủ yếu tả thực, đi sâu và khắc họa vẻ xảo trá, ranh mãnh của chúng. Có thể nói với mỗi nhân vật dù là phản diện hay chính diện, Nguyễn Du thường tìm được nét thần thái của nhân vật để miêu tả dù chỉ đôi dòng hay vài chữ mà lột tả được cả bản chất của nhân vật. Nghệ thuật kể chuyện trong "Truyện Kiều" cũng là một thành công đáng kể. Tác phẩm là mẫu mực của nghệ thuật kể chuyện và trữ tình bằng thơ lục bát với bút pháp trần thuật và miêu tả nhân vật độc đáo. Bút pháp miêu tả tinh tế nhất là bút pháp tả cảnh ngụ tình, mượn cảnh để đi sâu khai thác nội tâm nhân vật.

"Truyện Kiều" là một kiệt tác của dân tộc Việt Nam, là di sản văn học của nhân loại tiêu biểu cho cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa, vừa là niềm thương cảm sâu sắc, là tấm lòng nghĩ tới muôn đời vừa là thái độ nâng niu, trân trọng những giá trị nhân văn cao đẹp của con người.

"Truyện Kiều" đã được lưu truyền phổ biến rộng rãi ở trong và ngoài nước có một sức lôi cuốn với mọi tầng lớp người đọc. Tác phẩm đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của mỗi người dân Việt Nam. Chẳng thế mà khi nhận xét về Nguyễn Du và "Truyện Kiều", Mộng Liên Đường đã nói: "Ông là người có con mắt trông thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ tới nghìn đời. Ông viết "Truyện Kiều" như có máu rỏ đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua giấy,...". "Truyện Kiều" của Nguyễn Du sẽ sống mãi với dân tộc và trở thành linh hồn dân tộc Việt Nam.

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du 16

Khi kể về những tác giả, tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học trung đại Việt Nam, chúng ta không thể nào không nói đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du cùng tác phẩm Truyện Kiều của ông. Với những kiến thức uyên thâm của mình cùng tài năng văn học xuất chúng, ông đã sáng tác ra tác phẩm có giá trị bằng chữ Nôm và chữ Hán. Trong đó nổi bật lên tác phẩm Truyện Kiều.

Nguyễn Du sinh năm 1765, mất năm 1820, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan, có truyền thống văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, cũng là người giỏi văn chương. Ông thi đỗ tiến sĩ và làm quan Tể tướng. Mẹ là bà Trần Thị Tân, người con gái Bắc Kinh cũng văn hay chữ tốt. Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng làm quan từ dưới thời Lê Trịnh. Tuy gia cảnh xuất thân danh giá nhưng cuộc đời của ông toàn những nỗi đau. Năm 13 tuổi, ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải sống với Nguyễn Khản. Nhưng khi ông 15 tuổi, Nguyễn Khản bị khép tội mưu phản, ông lại phải nương nhờ nhà họ hàng xa,, Có thể nói cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử giai đoạn của thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX. Đây là giai đoạn đầy biến động khi mà giai cấp cai trị thối nát, tham lam, không quan tâm nhân dân, họ chém giết lẫn nhau để tranh giành quyền lực. Có thể nói chế độ phong kiến Việt Nam lúc này đã khủng hoảng trầm trọng và những người dân khốn khổ lúc này đã nổi dậy đấu tranh và tiêu biểu nhất là khởi nghĩa Tây Sơn của Nguyễn Huệ. Trong cảnh ấy, Nguyễn Du đã sống phiêu bạt nhiều nơi, lúc ở Thăng Long, lúc ở quê nội Hà Tĩnh, có lúc lại ở quê với Thái Bình. Không may khi mà Nguyễn Anhs lên ngôi năm 1802, Nguyễn Du phải bất đắc dĩ làm quan. Trước khi ông phụng sự nhà Lê nên giờ đây, khi làm quan nhà Nguyễn ông lại rụt rè, ông được cử sang Trung Quốc hai lần nhưng lần hai vào băm 1820 chưa kịp đi thì ông bị bệnh và mất tại Huế. Cuộc đời ông ba chìm bảy nổi nhưng chính vì thế ông có được vốn kiến thức sâu rộng cùng nỗi lòng thương cảm xót xa với số phận bi đát của người dân.

Nguyễn Du là một thiên tài văn học với nhiều tác phẩm có giá trị gồm ba tập thơ bằng chứ Hán gồm Thanh Hiên Thi tập, Bắc Hành tạp lục, Nam Trung tạp ngôn và tác phẩm chữ Nôm xuất sắc nhất là Truyện Kiều.

Truyện Kiều tên trước kia là “Đoạn trường Tân Thanh” là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại truyện Nôm trong văn học trung đại Việt Nam. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du có dựa trên truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm tài nhân Trung Quốc nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du là rất lớn khi tác phẩm của ông được viết bằng thể thơ lục bát gồm 3254 câu thơ gồm ba giai đoạn: Gặp gỡ và đính ước, Gia biến và lưu lạc, Đoàn tụ, truyện được tóm tắt như thế này:

Thúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, sinh trưởng trong gia đình trung lưu lương thiện họ Vương, nhà có ba chị em: Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan. Trong một lần du xuân Kiều gặp gỡ Kim Trọng, họ đã yêu nhau, sau đó đi tới đính ước. Khi Kim Trọng về Liêu Dương để tang chú, gia đình Kiều gặp biến cố, Kiều phải bán thân chuộc cha. Nàng bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Lần đầu, Thúc Sinh chuộc Kiều và cưới nàng làm vợ lẽ, nhưng nàng bị Hoạn Thư đánh ghen. Nàng trốn khỏi nhà Thúc Sinh nhưng lại rơi vào tay Bạc Hà, Bạc Hạnh phải vào lầu xanh lần hai. Tại đây Kiều gặp Từ Hải – một anh hùng “đội trời đạp đất” chàng chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, giúp Kiều báo ân, báo oán. Kiều lại mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị chết đứng, Kiều bị ép lấy viên quan thổ quan. Nhục nhã, đau đớn nàng nhảy xuống sông Tiền. Nàng được sư Giác Duyên cứu và Thúy Kiều đi tu. Kim Trọng trở lại kết duyên với Thúy Vân nhưng vẫn không quên được Kiều, chàng đi tìm. Gặp được sư Giác Duyên nhờ đó mà gặp được Kiều. Hai người đoàn tụ nhưng duyên đôi lứa cũng đã hết.

Có thể nói đây là một tuyệt tác với nội dung sâu sắc cùng nghệ thuật thành công. Đây là một bức tranh của một xã hội tàn bạo bất công, chà đạp lên những con người nghèo khó, đặc biệt là người phụ nữ. Qua đó lên án các thế lực xấu xa. Đồng thời đề cao vẻ đẹp ngoại hình, tài năng cùng nhân phẩm và khát vọng chân chính của con người về tự do hạnh phúc, chân lí. Nguyễn Du là một nhà thiên tài văn học, doanh nhân, văn hóa, nhà nhân chủ nghĩa có ảnh hưởng tới sựu phát triển của nền văn học Việt nam. Nguyễn Du và Truyện Kiều sẽ sống mãi trong lòng người đọc, sống mãi với dân tộc.

Thuyết minh Truyện Kiều của Nguyễn Du 17

Nguyễn Du-thiên tài văn học Dân tộc, là nhà văn tài hoa nhất trong nền văn học trung đại Việt Nam. Nhắc đến ông ta không thể không nhắc đến "Truyện Kiều "-một kiệt tác nghệ thuật của nền văn học nước nhà.

Nguyễn Du sống ỏ cuối thế kỉ 18 nủa đầu thế kỉ 19. Đây là giai đoạn lịch sủ đầy bão táp và sôi động vói nhũng biến cố lón lao: bộ máy chính quyền suy thoái, trang quyền đoạt lọi,nạn quân Thanh xâm luọc khiến đòi sống nhân dân cục khổ,điêu đúng. Khắp noi diễn ra các cuộc khỏi nghĩa mà tiêu biểu là khỏi nghĩa Lam Son. Tất cả đã tác động mạnh mẽ vào nhận thúc và tình cảm của Nguyễn Du để ông huóng ngòi bút của mình phản ánh "nhũng điều trông thấy mà đau đón lòng"

Sinh ra và lón lên trong một gia đình đại quý tộc có truyền thống khoa bảng và văn chuong,đó là điều may mắn cho Nguyễn Du. Cha là Nguyễn Ngiễm tùng là tể tuóng,anh trai là Nguyễn Khảm làm quan to duói triều Lê. Chính gia đìng là cái nôi nghệ thuật để uom nên mầm xanh tài năng của ông.

Mặc dù thi đỗ nhung ông có 10 măm phiêu bạt trên đất Bắc (1786 đến 1796). sau đó ông về ản tại làng Tiên Điền (năm 1796 đến năm 1802). Ông đã chúng kiến nhiều cuộc đòi số phận bất hạnh của nông dân. Vì vậy cho Nguyễn Du một vốn sống,vốn hiểu biết phong phú tạo tiền đề để ông sáng tác nên "Truyện Kiều"sau này

Nguyễn Du không còn nhung sụ nghiệp sáng tác đồ sộ của ông cùng tập "đại hành ngôn ngũ Dân Tộc Truyện Kiều" sống mãi trong lòng bạn đọc hôm nay,mai sau và mãi mãi

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều 18

Truyện Kiều là kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du với hơn 3000 câu thơ lục bát. Nguyễn Du được xem là người có vốn ngôn ngữ phong phú và chữ “tâm” rất sáng. Ông được yêu quý không phải vì kiệt tác Truyện Kiều mà còn ở nhân phẩm, cốt cách con người của ông. Nguyễn Du để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu đậm nhất.

Nguyễn Du – một bậc thầy của ngôn ngữ trong văn chương. Truyện Kiều là minh chứng cho điều này. Để sáng tác được một tác phẩm thơ đồ sộ như thế cần phải có một tài năng thiên bẩm, được trau dồi và rèn giũa qua một quá trình dài. Đó là sự nỗ lực cống hiến cho văn học, cho niềm đam mê. Nguồn ngôn ngữ mà Nguyễn Du thể hiện trong Truyện Kiều giống như “thiên từ điển” giúp cho người đọc có thêm nhiều phát hiện thú vị nhất.

Truyện Kiều kể về cuộc đời của tuyệt sắc giai nhân Thúy Kiều với nhiều nước mắt và bất hạnh. Nguyễn Du đã rất kỳ công để xây dựng nên hình tượng điển hình cho vẻ đẹp thời bấy giờ, một Thúy Kiều vừa đẹp người vừa đẹp nết. Nỗi gian nan mà nàng phải trải qua đằng đằng suốt bao nhiêu năm trời. Người đọc sẽ nhận ra 15 năm Kiều lưu lạc nhân gian với bi thương rất nhiều cũng chính là 15 năm lưu lạc nơi quê vợ của Nguyễn Du. Ông cũng đã phải trải qua những năm tháng cơ cực, bần hàn nhất. Có lẽ vì lý do này mà ông đã thổi hồn vào từng câu chữ một cách tinh tế và nhuần nhuyễn như vậy.

Truyện Kiều không những là kiệt tác đồ sộ của văn học Việt Nam mà nó còn được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Sức ảnh hưởng của Truyện Kiều đã khiến cho Nguyễn Du trở thành “đại thi hào”. Điều này thực sự xứng đáng với một con người cống hiến hết mình cho nghệ thuật như Nguyễn Du.

Để viết được một kiệt tác làm rung động lòng người và có ý nghĩa sâu sắc đối với cuộc sống như vậy, chắc chằn rằng Nguyễn Du phải là người am hiểu được nỗi khổ cùng cực của con người trong xã hội phong kiến thời bất giờ. Đặc biệt là thân phận rẻ mạt, hẩm hiu của người phụ nữ, tài hoa nhưng bị chà đạp, vùi dập.

Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du gửi gắm trong truyện Kiều chính là tấm lòng, là sự tha thiết đòi công bằng cho một con người. Tấm lòng, chữ tâm bao la của Nguyễn Du đã khiến những câu chữ cũng trở nên bật khóc. Lời thơ cũng chính là tiếng khóc, tiếng kêu than cho Nguyễn Du đối với một kiếp người.

Ông đã gieo vào lòng người đọc niềm ai oán, thống khổ của những con người thấp cổ bé họng trong xã hội. Tiếng kêu cứu của họ dường như mãi ở sâu dưới đáy giếng, không ai thấu, không ai hiểu. Nguyễn Du đã khóc cùng nhân vật của mình, họ đau bản thân ông cũng đau rất nhiều. Có những lúc đọc truyện Kiều có cảm giác như câu chữ như vỡ ra, lòng đau thắt.

Nguyễn Du – một con người có trái tim nhân hậu và tình yêu thương bao la. Đây chính là nhân tố làm nên sự thành công của Truyện Kiều. Dù ra đời từ lâu nhưng cho đến bây giờ Truyện Kiều vẫn chưa bao giờ thôi gợi lên niềm xót thương cho người đọc. Chữ tâm, chữ tình của tác giả như hòa quyện vào trong nỗi đau và niềm xót thương đối với một kiếp người.

Hơn hết Nguyễn Du đã làm tròn bổn phận của một người có thể truyền được tình cảm đến người đọc. Đó chính là giá trị nhân văn sâu sắc. Ông khiến những ai tiếp xúc với Truyện kiều đều mang trong mình lòng trắc ẩn cho con người trong xã hội đầy rẫy bất công như vậy.

Nguyễn Du thực sự là tác giả để lại sự yêu mến vô bờ đối với độc giả. Đọc Truyện Kiều, người đọc hiểu một phần nào cuộc đời nổi trôi của ông và càng khâm phục hơn nữa nghị lực của ông, của chính nhân vật.

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều 19

I. Tác giả Nguyễn Du:

1. Thân thế Nguyễn Du:

Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc phong kiến, nhiêu đời làm quan lớn và có truyền thông văn chương.

Cha là Nguyễn Nghiễm từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Anh là Nguyễn Khản cũng là một đại quan trong triều. Mẹ là Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc có tài xướng ca.

Quê hương Nguyễn Du là vùng đất địa linh, nhân kiệt, hiếu học và trọng tài. Gia đình Nguyễn Du có truyền thống học vấn uyên bác, có nhiều tài năng văn học. Gia đình và quê hương chính là “mảnh đất phì nhiêu” nuôi dưỡng thiên tài Nguyễn Du.

2. Cuộc đời Nguyễn Du:

Thời thơ ấu: Nguyễn Du sống trong nhung lụa. Lúc gia đình còn thịnh vượng, Nguyễn Du là một cậu ấm được chăm sóc và giáo dục rất chu đáo. Ông thường xuyên vào triều cùng cha, cùng chơi và học tập với các công nương quý tử. Cuộc sống giàu sang thuở thiếu thời vốn không có gì xa lạ với ông.

Năm 10 tuổi, cha Nguyễn Du qua đời. Hai năm sau, mẹ Nguyễn Du cũng mất. Mới 13 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên ông phải ở với người anh khác mẹ là Nguyễn Khản. Thế nhưng, lúc này cuộc sống của Nguyễn Du vẫn rất sung túc. Thời gian này, ông có cơ hội dùi mài kinh sử, đọc nhiều sách vở.

Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam trường rồi làm một chức quan nhỏ ở tận Thái Nguyên. Chẳng bao lâu, phong trào Tây Sơn nổ ra, nhà Lê sụp đổ. Kể từ đây, cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu gặp những sóng gió trong cơn quốc biến ba đào, chịu cảnh gia biến, nhà tan cửa nát, anh em chia lìa, phiêu bạt khắp nơi.

Bị nhà Tây Sơn truy bắt, Nguyễn Du đành lánh về quê vợ ở Thái Bình. Ông lẩn trốn ở đây hơn 10 năm. Sau vợ ông mất, ông lại về Hà Tĩnh. Có lúc lên Bắc Ninh, nhiều nhất là thời gian ông sống không nhà ở kinh thành Thăng Long.

Sớm mổ côi cha mẹ nên Nguyễn Du đã phải trải qua cuộc sống khổ sở, cơ cực như dân thường, nhiều lúc ông lâm vào cảnh đói không cơm, sốt không áo, ốm không thuốc, thậm chí không chốn nương thân. Sống gần gũi với nhân dân, ông đã tiếp xúc với nhiều cảnh đời và số phận bất hạnh, khổ đau. Những biến động lớn lao của gia đình và xã hội đã tác động sâu sắc tới con người cùng sự nghiệp sáng tác của ông.

Năm 1802, nhà Nguyễn phục hưng, Nguyễn Du lại được mời ra làm quan. Từ đây, ông đem hết tài năng và sức lực của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng nước nhà. Con đường hoạn lộ cũng hết sức thuận lợi.

Sau khi ra làm quan, ông được cử đi sứ nên đã có dịp tiếp xúc với nền văn hoá Trung Hoa rực rỡ, phong phú và đa dạng, gây cho ông cảm hứng viết nên những tác phẩm bất hủ sau này.

II. Sự nghiệp văn học:

Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du bằng cả chữ Hán và chữ Nôm đạt tới tầm cỡ của một thiên tài văn học.

Về chữ Hán, ông có ba tập thơ: Thanh Hiên Thi Tập, Bắc Hành Tạp Lục, Nam Trung Tập Ngâm, với tổng số 243 bài.

Về chữ Nôm: nhiều bài văn tế, thơ ca và nổi tiếng nhất là Truyện Kiều – một truyện thơ xuất sắc. Truyện Kiều của Thi hào Nguyễn Du được xem là một kiệt tác xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay.

Tháng 12/1964, Hội đồng Hòa bình thế giới đã ra quyết nghị tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Nguyễn Du (1765 – 1965), cùng với 8 danh nhân văn hóa trên toàn thế giới. Đây là sự ghi nhận với những cống hiến của Đại thi hào Nguyễn Du cho nền văn học Việt Nam và sự phát triển của văn hóa nhân loại.

Ngày 25/10/2013, tại kỳ họp lần thứ 37 của Đại Hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) họp ở Paris đã chính thức vinh danh Đại thi hào Nguyễn Du cùng với 107 danh nhân văn hóa toàn thế giới.

II. Tác phẩm Truyện Kiều

1. Nguồn gốc xuất xứ Truyện Kiều:

Truyện Kiều có nguồn gốc từ cuốn tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Tuy vậy, phần sáng tạo của Nguyễn Du là rất lớn. Từ câu chuyện cảm động về cuộc đời và số phận của nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã viết nên một kiệt tác mang đậm tính nhân văn cao cả, thể hiện tình yêu thương con người vô hạn của nhà thơ. Nghệ thuật ngôn ngữ sắc xảo; phương thức xây dựng hình tượng nhân vật điển hình, tài nghệ tả cảnh, tả tình,… của Nguyễn Du đều đạt tới trình độ điêu luyện, hiếm có.

2. Tóm tắt nội dung Truyện Kiều:

Thuý Kiều là người con gái tài sắc sinh ra trong một gia đình trung lưu nền nếp. Trong một lần du xuân, Thuý Kiều tình cờ gặp Kim Trọng, một chàng thư sinh tài tử. Hai người nhanh chóng yêu nhau rổi hẹn ước thề nguyền sẽ kết duyên.

Tưởng rằng tình yêu đôi trẻ sẽ đi đến hạnh phúc, nào ngờ tai bay vạ gió từ đâu ập đến khiến cho gia đình tan nát, tình yêu chia lìa. Tai họa đã đột ngột ập đến Vương gia trong lúc người thiếu nữ còn đang thổn thức với mối tình đầu. Trong hoàn cảnh bi đát như vậy, Kiều đành phải đi đến quyết định bán mình để chuộc cha, nhưng nàng không quên lời hẹn ước trăm năm  với Kim Trọng trước khi chàng về Liêu Dương để chịu tang chú. Thuý Kiều đã nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả lời hẹn ước với Kim Trọng.

Từ đó, nàng trải qua 15 năm lưu lạc chịu không biết bao nhiêu cực khổ và tủi nhục. Hai lần bị đẩy vào lầu xanh, nhiều lần bị đánh đập tàn tệ, bị lừa gạt. Nhiều lần nàng toan tự vẫn để không còn thống khổ tủi nhục nữa nhưng không thành. Tưởng rằng khi gieo mình xuống sông Tiền Đường sẽ chấm dứt được cuộc đời trầm luân nhưng số phận khắc nghiệt vẫn không buông tha cho nàng.

Cuộc đoàn tụ với gia đình sau 15 năm xa cách trong hờn hờn tủi tủi. Thuý Kiều đã trở về đoàn viên với gia đình. Nhưng nàng chính là người sợ việc đoàn viên hơn ai cả. Trong việc tái ngộ này, Thuý Vân chính là người đầu tiên đã lên tiếng vun vào cho chị. Nhưng trong đêm gặp lại ấy, Thuý Kiều đã tâm sự với Kim Trọng. Nàng ghi nhận tấm lòng của Kim Trọng nhưng tự thấy mình không còn xứng đáng với chàng nữa. Tuy từ chối việc kết hôn với Kim Trọng, song Kiều nguyện rằng hai người sẽ trở thành bạn tri kỷ.

3. Giá trị nội dung:

– Truyện Kiều – Bài ca về tình yêu tự do về ước mơ công lí.

Truyện Kiều là bài ca về tình yêu tự do, trong sáng, thuỷ chung. Mối tình giữa Thuý Kiều và Kim Trọng là mối tình đẹp đẽ giữa trai tài, gái sắc. Tình yêu của họ không bị địa vị, tiền tài làm cho vẩn đục. Đặc biệt hơn nữa đó là mối tình chân thật và táo bạo hiếm có xưa nay.

Truyện Kiều là tiếng nói về công lí chính nghĩa của nhân dân. Từ Hải là hình ảnh người anh hùng lí tưởng của nhân dân mà Nguyễn Du đã hết sức chú tâm xây dựng. Từ Hải chống lại triều đình không ngoài khát vọng tự do ngang dọc. Hồ Tôn Hiến đã giết chết Từ Hải bằng âm mưu thâm độc, nhưng hình ảnh đạp đỗ của Từ Hải vẫn sống mãi trong lòng quần chúng bị áp bức.

– Truyện Kiều là tiếng khóc của kiếp người khổ đau nơi trần thế.

Truyện Kiều là tiếng khóc cho những mối tình tan vỡ, là tiếng khóc cho tình cốt nhục bị lìa tan, là tiếng khóc cho nhân phẩm và quyền sống của con người bị chà đạp. Truyện Kiều còn là tiếng khóc của chính Nguyễn Du trước cảnh ngộ đầy bi kịch của một thiếu nữ tài sắc bậc nhất mà lại bị giày vò, đày đọa bởi xã hội phong kiến vạn ác. Tiếng khóc trong Truyện Kiều vừa là tiếng kêu thương về quyển sống của con người trong xã hội phong kiến, vừa thể hiện tấm lòng nhà thơ hiểu thấu mọi cung bậc của nỗi đau nhân thế.

– Truyện Kiều là bản cáo trạng đanh thép tố cáo bộ mặt xấu xa, tàn ác của xã hội phong kiến bất nhân đương thời đã chà đạp lên nhân cách, nhân phẩm và tước đoạt quyền sống của con người.

Cũng với tiếng khóc đau đớn chứa đựng tinh thẩn nhân đạo sâu xa, Truyện Kiều còn là lời tố cáo mạnh mẽ hiện thực đen tối của xã hội phong kiến.

– Truyện Kiều thể hiện cái nhìn nghiêm khắc của Nguyễn Du đối với đồng tiền.

Vì tiền, nhiều kẻ trở nên tham lam, vỗ liêm sỉ: Thằng bán tơ; bọn sai nha đầu trâu mặt ngựa; viên quan xử kiện vì tiền mà đổi trắng thay đen, tôn Mã Giám Sinh, mụ Tú Bà, gã Sở Khanh kiếm chác trên nỗi tủi nhục của các cô gái lẩu xanh; bọn Ưng Khuyển đốt nhà; bắt cóc, giết người vì tiền. Cả một xã hội chạy theo đồng tiền phục vụ cho điều tận ác.

– Truyện Kiều – Tiếng nói “hiểu đời, hiểu người” của Nguyễn Du.

Giá trị của kiệt tác Truyện Kiều không chỉ ở nội dung và nghệ thuật mà còn thể hiện ở chiều sâu hiểu biết về con người, ở sự thông cảm, bao dung đối với con người của Nguyễn Du. Ông như hiểu hết mọi điều uẩn khúc trong đời sống tình cảm của con người, nhìn rõ chỗ mạnh chỗ yếu, thậm chí cả chỗ tầm thường của từng nhân vật. Ông miêu tả nhân vật với cảm xúc xót xa, thương cảm hoặc khinh bỉ hoặc đầy căm phẫn.

4. Giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều.

– Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật chân thực, sống động. Các nhân vật của Nguyễn Du vừa có nét riêng nổi bật, vừa có nét điển hình, đặc biệt là về tâm lí. Chỉ cần một đôi nét miêu tả chính xác, tài tình là tác giả đã thể hiện đúng thần thái của nhân vật ấy.

– Truyện Kiều là mẫu mực của nghệ thuật tự sự và trữ tình. Nguyễn Du có biệt tài kể chuyện và giới thiệu nhân vật một cách ngắn gọn và sinh động. Chỉ bằng vài câu thơ, ông đã giúp người đọc hiểu được tinh huống, tính cách, tâm trạng của từng nhân vật. Nguyễn Du đã biến thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc trở thành một hình thức thơ trang nhã và hấp dẫn.

– Ngôn ngữ Truyện Kiểu trong sáng, phong phú, trau chuốt và giàu giá trị biểu cảm. Ngôn ngữ dân gian kết hợp nhuần nhuyễn với ngôn ngữ bác học. Lời thơ tuy được viết cách đây hai trăm năm nhưng đến nay đọc vẫn thấy mới mẻ. Ngôn ngữ nhân vật được cá tính hoá cao độ, nhân vật nào ngôn ngữ ấy, không thể lẫn lộn.

* Tổng kết:

Truyện Kiều đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận đau khổ của những con người bi áp bức, đặc biệt là bi kịch của người phụ nữ. Qua đó, tác giả thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước nỗi đau của con người và lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo. Đồng thời bày tò sự trân trọng đối với khát vọng tự do, hạnh phúc và khát vọng công lí, chính nghĩa.

Truyện Kiều có giá trị nội dung và nghệ thuật đạt tới trinh độ xuất sắc, điêu luyện, thể hiện tài năng bậc thầy của thi hào Nguyễn Du. Truyện Kiều xứng đáng là đỉnh cao chói lọi của thơ ca dân tộc.

Truyện Kiều được xem là kiệt tác có giá trị và tầm ảnh hưởng lớn nhất của nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Cho đến nay kiệt tác “Truyện Kiều” đã được dịch ra hơn 20 ngôn ngữ khác nhau với rất nhiều bản dịch.

THUYẾT MINH VỀ NGUYỄN DU VÀ “ TRUYỆN KIỀU” 20

Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận xét về tác gia Nguyễn Du và “ Truyện Kiều”: “ Tuy Nguyễn Du đã sáng tạo nhân vật Thúy Kiều nhưng Kiều lại có thật với Nguyễn Du, Nguyễn Du đã sống rất lâu trong tâm tình của Kiều, đã nhập vào Kiều làm một”, giúp ta thấy tuyệt tác “ Truyện Kiều” ghi dấu tâm huyết, tài năng của thi nhân.

Đại thi hào Nguyễn Du tên hiệu là Thanh Hiên, tên chữ là Tố Như. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, giàu truyền thống khoa bảng. Cơn lốc lịch sử đạp đổ lầu son gác tía đẩy ông vào cuộc sống lay lắt, tha hương suốt mười lăm năm trời. Cuộc sống đó bóp nghẹt lí tưởng nhất quán khiến ông sống giữa cuộc đời như những người dân thường. Con người thanh liêm, sống thầm lặng, khinh bỉ quan lại chỉ biết lo vinh hoa phú quý, không lo gì đến việc dân, việc nước, nay lại trực tiếp chứng kiến nỗi khổ của nhân dân nên ông có con mắt nhìn đời thông suốt sáu cõi. Những va đập cuộc đời khiến thi sĩ đồng cảm sâu xa với mọi kiếp người đày đọa, tạo nên chiều sâu tư tưởng tác phẩm “ Truyện Kiều” sau này. Vốn hiểu biết uyên bác làm cơ sở để tuyệt tác “ Truyện Kiều” trở thành một viên ngọc sáng trong văn học Việt Nam về giá trị nghệ thuật.

Mộng Liên Đường cho rằng: “ Những lời văn tả ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc cũng phải thấm thía, ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột”. Tác phẩm ban đầu mang tên “ Đoạn trường tân thanh” nhưng nhân dân gọi là “ Truyện Kiều”. Áng truyện thơ lấy nội dung từ tiểu thuyết “ Kim Vân Kiều truyện” nhưng những sáng tạo của đại thi hào là rất lớn. Câu chuyện nói về mười lăm năm lưu lạc, tủi nhục của nàng Kiều sau khi gia biến, bán mình chuộc cha và em. Chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp của Nguyễn Du biến một câu chuyện tình khổ thành khúc ca đớn đau, tri âm với kẻ bạc mệnh, nhứng điều mắt thấy tai nghe trong xã hội bấy giờ cũng đi vào trang viết của thi sĩ. “ Truyện Kiều” ngợi ca tình yêu tự do và ước mơ công lí. Mối tình Kim- Kiều dám vượt lên những ràng buộc của lễ giáo phong kiến khắc khe để thề nguyền cùng nhau, rung động đầu đời trong sáng, chân tình không chút vụ lợi. Hình ảnh nàng Kiều:

·         “ Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”

Còn khiến mỗi chúng ta ngạc nhiên bởi Nguyễn Du khuyến khích tinh thần chủ động ấy. Giữa phường gian trá, thi nhân khắc họa nhân vật Từ Hải không chỉ thể hiện ước nguyện xã hội công lí mà nhân vật phần nào phản ánh lí tưởng của thi sĩ từng bị giam hãm . Từ Hải là ngôi sao sáng bang qua cuộc đời Kiều, giúp nàng thực hiện màn báo ân, báo oán thích đáng. Đọc “ Truyện Kiều” như vọng lại tiếng khóc đau thương cho thân phận con người. Nguyễn Du từng nói:

·        “ Cổ kim hận sự thiên nan vấn

·       Phong vận kì oan ngã tự cư”

Người cho rằng: “ Chữ tài liền với chữ tai một vần” nên xoay quanh đời Kiều- người con gái tài hoa luôn phải gánh chịu bao giông tố. Tiếng khóc xót xa cho mối tình đằm thắm Kim- Kiều “ đứt gánh tương tư”, mối tình tri kỉ của Từ Hải và nàng Kiều. Giọt nước mắt đắng chat khi nhân phẩm bị chà đạp, thân xác con người bị đánh đập tàn nhẫn. Sâu xa hơn, tiếng kêu khóc vang lên đòi quyền sống cho con người trong nỗi đau nhân thế. Nguyễn Đình Thi nhận định: “ “ Truyện Kiều” là ngọn roi sắt quất thẳng vào những sự bất công, độc ác, dối trá…”, có thể xem thi phẩm là bản cáo trạng đanh thép vạch trần sự mục ruỗng, thối nát của xã hội bấy giờ. Mọi tầng lớp đều bỉ ôi bị thế lực đồng tiền chi phối từ thằng bán tơ, lũ buôn thịt bán người như Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh, chức quan Hồ Tôn Hiến…Nguyễn Du bóc trần nhìn thẳng vào thực trạng, gọi tên những kẻ chà đạp lên quyền sống con người.

“ Truyện Kiều” có sức sống trường tồn còn bởi những giá trị nghệ thuật đặc sắc. Với học vấn uyên thâm, Nguyễn Du thành công xây dựng nhân vật sinh động, cá tính. Nàng Kiều không phải nhân vật minh họa mà nàng có đời sống nội tâm, lí tưởng cao đẹp của Từ Hải cũng được khắc tạc. Với thể thơ lục bát giàu truyền thống, đại thi hào biến một tiểu thuyết thành thơ vừa mộc mạc vừa trang nhã, cổ điển. Điểm nhìn trần thuật của tác giả cũng thay đổi linh hoạt, đặt vào từng nhân vật, khiến tác phẩm không khô khan. Ngôn ngữ trong “ Truyện Kiều” có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn từ bác học và dân gian tạo nên sức biểu cảm, sự trong sáng.

Nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du, ta không thể không nhớ tới áng thiên cổ kì bút “ Truyện Kiều”. Ở đó hội tụ tất cả cái tài, tấm lòng và tầm vóc của thi nhân. Những giá trị đích thực của tác phẩm còn bất tử với nền văn học Việt Nam.