Phát biểu cảm nghĩ của về truyện Làng của Kim Lân (3 mẫu)

Cảm nghĩ về truyện ngắn Làng  1

Kim Lân (1920-2007), quê ở tỉnh Bắc Ninh, nhà nghèo nên chỉ học đến hết cập một rồi nghỉ, ông viết truyện ngắn từ năm 21 tuổi, với giọng văn chân chất, hiền hậu, thấm đượm tình quê hương của một người con lớn lên từ đồng ruộng. Các tác phẩm của ông không nhiều thế nhưng rất sâu sắc, đặc biệt là các tác phẩm viết về nông thôn Việt Nam và người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Dù rằng mảnh đất về đề tài người nông dân đã được nhiều tác giả như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan khai thác gần như triệt để thế nhưng vào tay Kim Lân nó vẫn mang những nét riêng, mới lạ và hấp dẫn. Có được điều đó là bởi Kim Lân viết văn bằng một ngòi bút tỉ mẩn, cẩn trọng và sâu lắng, ông chú tâm đến những nét đẹp, những thay đổi trong đời sống tâm hồn của nhân vật. Đặc biệt trong tác phẩm của mình, dẫu rằng ông có viết về cái nghèo khó, cái hiện thực tàn khốc của xã hội thế nhưng nó lại không phải là nội dung chính Kim Lân muốn tố cáo hay phản ánh, mà cái ông mong muốn đó là làm nổi bật được những giá trị nhân đạo thông qua tác phẩm của mình bao gồm tình cảm giữa con người với nhau, tấm lòng yêu quê hương, đất nước sâu sắc, cùng những nét đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Làng là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Kim Lân làm nên tên tuổi của ông trên văn đàn Việt Nam, ở đó ta thấy được hầu hết những nét đặc biệt trong phong cách sáng tác của Kim Lân.

Làng viết năm 1948, là truyện ngắn viết về đề tài người nông dân trong giai đoạn những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhan đề Làng một một nhan đề có tính khái quát, chỉ chung cho nông thôn Việt Nam, gợi ra hình ảnh làng quê dân dã, với những người nông dân cần cù chân chất, khơi gợi tình yêu thương, gắn bó trong tâm hồn mỗi con người. Như nhiều truyện ngắn khác Làng cũng có cốt truyện, câu chuyện xoay quanh hai tình huống truyện độc đáo: Bắt đầu bằng việc ông Hai người làng chợ Dầu, có lòng yêu làng, yêu nước tha thiết, thế nhưng khi chạy giặc lại nghe tin làng mình theo giặc, khiến ông đau đớn và buồn bã, tình huống truyện thứ hai là khi ông Hai nghe tin cải chính, cùng với những thay đổi trong diễn biến tâm trạng. Truyện được kể với giọng văn nhẹ nhàng, bình dị, chân chất, ngôi kể thứ ba giúp người đọc nhìn nhận được vấn đề cốt truyện từ nhiều phía, khiến câu chuyện được khai thác một cách tinh tế và chặt chẽ.

Nhân vật chính của câu chuyện là ông Hai, một người nông dân chăm chỉ, cần mẫn vì chiến tranh nên phải rời khỏi ngôi làng thân yêu, nơi mà ông đã từng sinh sống suốt mấy chục năm trời. Ông yêu và gắn bó với làng tha thiết, điều ấy thể hiện qua nhiều chi tiết của truyện, ví như cảnh ông luôn nhớ về ngôi làng của mình dù lúc mệt mỏi hay khỏe mạnh, và cứ nghĩa về nó là ông lại “thấy mình như trẻ ra”. Ông tự hào về những con đường “lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân” của làng, ông tự hào cả về sinh phần của một vị quan lớn trong làng, nói chung đối với ông Hai tất cả những gì thuộc về là đều đáng quý, đáng trân trọng. Kể cả sau khi đã đi tản cư ông Hai vẫn một lòng hướng về làng, ông đi khoe khắp nơi về làng của mình để vơi bớt nỗi nhớ thương, ông hào hứng kể về làng Chợ Dầu, tự hào về một ngôi làng với “những ngày khởi nghĩa dồn dập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ thời kỳ còn bóng tối. Những buổi tập quân sự”, tự hào về cả cái phòng thông tin to sáng nhất vùng. Bấy nhiêu đó thôi cũng đủ để thấy trong lòng ông Hai là cả một tình yêu làng vô bờ bến, cùng với tấm lòng tin tưởng vào cách mạng sâu sắc, thậm chí cái lòng tin lòng yêu ấy đã từng giữ ông ở lại để kề vai sát cánh chiến đấu cùng làng, nhưng cuối cùng ông vẫn phải dứt áo ra đi vì gia đình.

Thế nhưng éo le sao, khi ông Hai một người yêu làng, tin làng tha thiết, trung thành với cách mạng lại phải nghe một cái tin không khác gì sét đánh ngang tai rằng làng Chợ Dầu của ông theo giặc, điều đó thật tàn nhẫn khiến ông Hai vừa đau đớn, xót xa vừa xấu hổ vô cùng. Ngày nào ông cũng mong ngóng tin tức từ làng, nên khi vừa nghe tin giặc tràn vào làng, suy nghĩ đầu tiên nảy ra trong ông là chắc hẳn trận đánh này vang dội lắm, làng ông vốn có truyền thống chống giặc cơ mà, ông đã không thể kìm được mà hỏi ngay: “Thế ta giết được bao nhiêu thằng?”. Thế nhưng thật đớn đau, người đàn bà tản dường như cũng tỏ vẻ khinh khi, đỏng đảnh mà nói câu “Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa.”, thì ông lão dường như chết đứng, ông không thể tin nổi là làng Chợ Dầu của ông lại có ngày đi theo giặc, lại có ngày phản bội cách mạng và phản bội cả cái lòng tin chắc nịch của ông bấy lâu nay. Thật không còn gì đau đớn hơn lúc này, có lấy dao xẻ thịt cũng không xót xa đến thế. Với cái biệt tài miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc Kim Lân đã thể hiện tâm trạng của ông Hai bằng những chi tiết rất độc đáo mà dường như người đọc cũng thấy thấm thía cái tâm trạng sửng sốt, đau đớn của ông Hai lúc bấy giờ. “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, “Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”, quả thực tin tức này là cú sốc vô cùng to lớn với ông lão, ông không thể tin nổi đó là sự thật. Vì thế ông vẫn giữ chút hy vọng mong manh, cố đấm ăn xôi mà hỏi lại với chất giọng “è è” như kiểu bao nhiêu hơi sức đều dồn lại nơi cổ họng “Liệu có thật không hả bác. Hay chỉ lại…”. Có lẽ ông Hai đã tin đến 80-90% rồi nên giọng ông mới yếu ớt, ngập ngừng và lạc cả đi như thế, ông cũng sợ người đàn bà kia nói một câu nữa thôi thì tất cả những gì ông vẫn nắm chắc bấy lâu nay về làng lập tức thành bọt biển hết. Và câu khẳng định của người đàn bà dường như đã rút hết tất cả sức lực, hy vọng và tình yêu nồng nàn của ông với làng, ông xấu hổ, ông đau khổ và cảm thấy chưa lúc nào lại đắng cay đến độ này. Người đàn ông kiên cường bao năm nay đã đi hết gần nửa đời người ấy đã khóc “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông cứ dàn ra”, nghĩ đến cảnh gia đình bị hắt hủi ông càng thấy đau đớn và tủi nhục hơn gấp trăm ngàn lần. Bởi vì quá yêu nên ông mới bị tổn thương sâu sắc, ông không thể chịu đựng nổi mà “nắm chặt hai tay rít lên: Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để giờ nhục nhã thế này”, câu chửi là tất cả những nỗi niềm tức giận, oán hận và đau khổ của ông Hai. Nỗi đau này của ông, nỗi nhục nhã này của ông chắc chỉ có mình ông hiểu được, nó giày vò làm ông khổ sở, ông không dám bước ra gặp ai, trở nên cáu bẳn, gắt gỏng với cả vợ con, ông trằn trọc không thể nào ngủ yên giấc, rồi trở nên nhạy cảm với tất cả lời bàn tán, sợ hãi việc bị đuổi đi trong nhục nhã,… Tất cả những nỗi lo, những khổ sở cứ giày vò ông lão tội nghiệp, không thể ở lại làng này nữa, hay là về làng Chợ Dầu? Ông Hai đã nghĩ vậy thế nhưng lòng yêu cách mạng, kính trọng cụ Hồ không cho phép ông làm vậy, dù có từng yêu làng đến tận xương tủy ông cũng quyết không quay về cái chốn nhục nhã ấy, bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”. Ông kiên quyết “làng thì yêu thật. Nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”, đến đây vẻ đẹp trong nhân cách của ông Hai được bộc lộ một cách rõ ràng, ông là người rạch ròi biết phân biệt phải trái, tấm lòng trung trinh với cách mạng không đổi dời khiến người ta phải kính nể.

Cuối cùng sau bao nhiêu khổ sở, nhục nhã vì tưởng làng theo Tây thật thì cuối cùng làng cũng được minh oan, hóa ra làng ông không theo giặc, làng ông vẫn trung thành với cách mạng với cụ Hồ, làng Chợ Dầu vẫn là ngôi làng mà ông hằng yêu thương gắn bó tha thiết. Điều ấy khiến cho ông Hai phấn khởi và vui mừng khôn xiết, ông như được hồi sinh “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung đỏ, hấp háy,…”, ông hớn hở chia quà cho các con, lại vội đi báo tin cho bác Thứ, cho ông chủ nhà. Mà ông khoe cái gì, ông khoe “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn!”, chưa từng có ai bị đốt hết nhà cửa mà lại vui và phấn chấn như ông Hai. Bởi đó là minh chứng cho việc làng ông không theo giặc, rằng nhà ông đã hy sinh cho cách mạng và ông cũng không phải là người làng Việt gian, điều đó còn gì sung sướng hơn, hạnh phúc hơn đối với ông Hai vào lúc này nữa? Ông lại tiếp tục tự hào, giọng điệu hùng hồn tuyên bố cho tất cả mọi người cùng biết: “Láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!”, để lấy lại lòng tự trọng, rửa đi nỗi nhục nhã mà ông đã phải chịu đựng suốt những ngày qua. Ông hạnh phúc vì có thể tiếp tục tự hào về ngôi làng yêu  dấu, ngôi làng có truyền thống cách mạng, ông tiếp tục đi khoe về ngôi làng của mình, về những chiến tích chống giặc,…

Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã khắc họa rõ nét hình ảnh người nông dân Việt Nam những năm tháng kháng chiến chống Pháp, với vẻ đẹp chân chất, giản dị, tấm lòng yêu làng, yêu quê hương, đất nước tha thiết, sâu nặng, chuyển biến tình cảm trong kháng chiến, cùng với sự đóng góp, hy sinh thầm lặng cho cách mạng của họ, mà như  nhà thơ Trần Ninh Hồ đã viết: “Tất cả, tất cả dường như đã được ghi lại bằng những thân phận, những tâm trạng sắc sảo đến cốt, đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương là lịch sử tâm trạng con người thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy”. Bên cạnh nội dung giàu tính nhân văn thì nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc, văn phong sâu lắng, tỉ mẩn đã góp phần lớn làm nên thành công của tác phẩm.

Cảm nghĩ về truyện ngắn Làng  2

Nhà văn Kim Lân được biết đến là nhà văn của nông dân và nông thôn Việt Nam. Những trang viết của ông luôn mang sự gần gũi, giản dị, gắn liền với hình ảnh con người, làng quê Việt Nam. Đến với truyện ngắn “Làng”, ta lại bắt gặp chân dung người nông dân Việt Nam chất phác, mang lòng yêu quê hương, yêu nước sâu sắc qua hình ảnh nhân vật ông Hai.

Ông Hai- nhân vật chính của toàn bộ câu chuyện- đã được tác giả Kim Lân khắc họa chân thực, mang trong mình tình yêu làng chân chất, tình yêu quê hương, đất nước mãnh liệt. Tình huống truyện éo le được đặt ra khi gia đình ông Hai phải đi tản cư do quân Pháp đến đánh chiếm làng. Dù không ở lại, nhưng trong lòng ông Hai vẫn luôn đau đáu nhớ làng, luôn nghe ngóng mọi tin tức về làng Chợ Dầu của mình. Trớ trêu thay, ông Hai lại nghe được tin Làng Chợ Dầu của mình đi theo giặc. Đau đớn, tủi hổ, ông Hai không còn tin vào tai mình khi bắt đầu nghe tin làng quê mình theo Tây. Lòng yêu làng từ trước đến nay không bao giờ thay đổi, tình yêu đó là nỗi nhớ mong khi phải xa, là niềm đau đáu mỗi khi nhớ về những kỉ niệm cùng anh em ở làng đào hào, đắp ụ…Mà giờ đây, ông Hai lại phải đứng giữa lựa chọn giữa tình yêu làng và tình yêu nước. Và ông đã khẳng định chắc nịch “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Vậy là, niềm tin tưởng vào ánh sáng của Cách mạng, của Cụ Hồ của ông Hai dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn bền chắc nhất, cho dù nó là sự đánh đổi một tình yêu thiêng liêng với mảnh đất quê hương chôn rau cắt rốn. Sự lựa chọn ấy đã thể hiện rõ nhất tình yêu cũng như niềm tin tưởng vào ánh sáng của Đảng của người dân Việt Nam. Cuối cùng, ông Hai lại như vỡ òa trong niềm sung sướng khi nghe tin cải chính, nghe tin làng mình không những không theo Tây mà còn đứng lên đấu tranh rất kiên cường.

Truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân đã thể hiện nổi bật và rõ nét phẩm chất, niềm tin của người nông dân Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp, được thể hiện rõ qua hành động, suy nghĩ của nhân vật ông Hai. Tình huống truyện đã đặt nhân vật vào một sự lựa chọn không hề dễ dàng. Tình yêu nào cũng là thiêng liêng và đáng trân trọng, và nhất là tình yêu quê hương, yêu đất nước. Nhưng thật trớ trêu khi hai tình cảm thiêng liêng nhất ấy lại đặt ra cho người nông dân chất phác, hiền lành phải có sự lựa chọn. Và cuối cùng, tình yêu nước đã chiến thắng tất cả. Ông Hai quả thực là một người nông dân chân chất, điển hình cho hình ảnh những người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Khi xa quê, ông cũng luôn tự hào mà nhớ về những ngày tháng cùng anh em trong làng lao động, đào hào, đắp ụ…Và dù xa quê, ông vẫn luôn mong ngóng ngày trở về. Nhưng khi nghe tin làng theo giặc, thì một sự sụp đổ về niềm tin đã làm ông Hai đau lòng và tủi hổ biết bao nhiêu. Sự xấu hổ đến tột cùng khi nghe tin làng theo Tây làm “Cổ họng ông nghẹn ắng. Da mặt tê rân rân”. Ông xấu hổ, vì ông thấy mình xuất thân từ làng mang mác theo giặc, xấu hổ vì lòng tự trọng của một con người yêu quê biết bao mà quê mình lại phản Cách mạng. Qua cuộc trò chuyện với đứa con nhỏ, ông Hai càng thêm khẳng định một niềm tin chắc nịch về niềm tin với Đảng và với Bác Hồ. Khi nghe tin cải chính, ông Hai đã như vỡ òa trong niềm sung sướng. Có thể theo lẽ bình thường, khi nghe tin nhà mình bị đốt, người ta sẽ phải ngậm ngùi mà tiếc của, xót xa mà kêu than. Nhưng, ông Hai lại khác, ông cứ đi khoe hết cho người nọ người kia về việc nhà mình đã bị đốt. Đó tưởng chừng như sự vô lý, nhưng đặt vào hoàn cảnh của nhân vật lại vô cùng hợp lý. Ông Hai muốn khoe về việc nhà mình bị đốt, như là một minh chứng rõ ràng cho việc làng Chợ Dầu quê ông không theo giặc. Vậy là, sự mất mát của cá nhân đã bị quên đi để thay vào đó là niềm tự hào cho quê hương chợ Dầu.

Qua tác phẩm, nhà văn Kim Lân đã khắc họa chân thực và nổi bật nhân vật ông Hai tiêu biểu cho hình ảnh những người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Họ là những con người hết sức bình dị, chân chất, nhưng ẩn sâu đằng sau đó là một tình yêu quê hương đất nước mãnh liệt. Cách mạng và kháng chiến đã đem lại nhận thức, tình cảm mới mẻ, mang đến niềm tin vững bền cho người nông dân. Tình cảm truyền thống yêu quê hương bao đời nay của người nông dân đã được nâng lên thành tình yêu nước sâu sắc. Đó cũng chính là tiền đề để tạo nên sức mạnh nhân dân, để có thể đánh thắng, đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. 

Tác giả Kim Lân đã vận dụng sáng tạo và thành công cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, cách miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật chân thực mà điêu luyện. Tác giả đã để cho nhân vật của mình trải qua những đấu tranh về mặt tâm lý, để nhân vật đưa ra những suy nghĩ, lựa chọn mang tính bước ngoặt cho câu chuyện. Truyện ngắn “Làng” cũng đã rất thành công khi xây dựng được hình ảnh nhân vật ông Hai tiêu biểu cho phẩm chất của người nông dân Việt Nam thời bấy giờ. Dù là ngày ấy hay bây giờ, thì tình yêu quê hương, yêu đất nước luôn cần được giữ gìn và phát huy.

Cảm nghĩ về truyện ngắn Làng 3

Nhà văn Kim Lân là nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại của nước ta. Ông có một vốn sống vô cùng sâu sắc, gắn bó với làng quê, và người nông dân. Ông thường gắn liền tâm hồn mình với những trò chơi mang cốt cách của người nông dânnhư: Thả diều, nuôi chim bồ câu, chọi gà, câu cá, chơi hòn non bộ…Dường như Kim Lân hội tụ tất cả những gì thuộc về người nông dân Việt Nam.

Nhà văn Kim Lân không viết nhiều nhưng mỗi tác phẩm của ông đều mang tới cho người đọc một cái nhìn mới mẻ, sâu sắc về hình ảnh người nông dân.

Trong truyện ngắn "Làng" của mình nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh ông hai một ông lão nông dân, có tấm lòng yêu nước yêu làng, hiền lành chất phác. Nhưng khi cách mạng nổ ra ông tuyệt đối trung thành với con đường giải phóng dân tộc mà cụ Hồ Chí Minh đã lựa chọn.

Ông Hai nhân vật chính trong tác phẩm Làng là người nông dân, ngay thẳng sống lương thiện, cần cù. Ông hay làm hay làm lắm ở quê ông suốt ngày không lúc nào ông chịu ngơi tay. Công việc cứ luôn chân luôn tay, nhưng ông vui lắm. Những việc đồng áng của nhà nông như đi cày, đi cuốc, cấy, gặt… việc nào ông Hai làm cũng đều giỏi cả.

Ông Hai được may mắn sống qua hai chế độ, từ thời phong kiến cho tới khi cách mạng thành công lập ra chế độ mới. Trước khi ông hai mù chữ, nhưng từ khi có cách mạng, có cụ Hồ thì người nông dân như ông Hai cũng được tham gia lớp bình dân học vụ, xóa mù chữ…


Ông được đối xử như một người chủ của đất nước này thật sự, được làm chủ đồng ruộng của mình. Cuộc đời ông sang một trang mới được cầm tới quyển vở, cái bút, được học chữ viết…Ông vui lắm, ông biết ơn cách mạng và cụ Hồ Chí Minh nhiều lắm.

Làng của ông hai cái làng Chợ Dầu là nơi mà ông sinh ra và lớn lên, nơi chôn rau cắt rốn của ông. Nhưng do phải đi di tản nên ông đành tạm rời xa làng của mình lên một vùng kinh tế mới làm việc, sinh sống. Nhưng tận sâu trong đáy lòng ông Hai vẫn luôn mong nhớ về quê hương, về làng quê của mình.

Tình yêu đó ăn sâu bám rễ vào tâm hồn ông, nên đi đâu, trong mỗi câu chuyện của mình ông đều nhắc tới làng Chợ Dầu với tình cảm vô cùng thân thiết, trìu mến như làng ông có loa thông tin cao nhất vùng, làng ông được lát gạch đá xanh đi từ đầu làng tới cuối làng vào mùa mưa cũng không bị lấm chân, làng ông có gạo nếp cái thơm ơi là thơm…

Ông Hai yêu làng của mình với tình yêu của một người nông dân hiền lành, chất phác, giản đi trong cách sống và cách suy nghĩ. Nên khi ông yêu, ông nhớ tới làng, thì ông nhắc tới nó, ông khoe nó với tất cả mọi người để thỏa nỗi nhớ mong về làng của mình.

Nhưng rồi một lần ông hai nghe được bản tin sét đánh ngang tai rằng làng của ông, cái làng Chợ Dầu nổi tiếng với nhiều đặc sản, nổi tiếng anh hùng nhưng nay đã đầu hàng giặc, người dân trong làng giờ đều là Việt gian, làm tay sai cho Tây cả… khiến ông Hai đau đớn. Ông cảm thấy cổ họng mình nghẹn cứng, máu trong người như đông cứng lại, không thể nào mở miệng nói được điều gì.


Ông tủi nhục cúi gằm mặt mà bước đi, rồi khi về tới nhà ông nằm vật ra giường như người vừa trúng gió độc, hai hàng nước mắt của ông trào ra, có lúc ông không kìm được mình mà buông ra vài câu chửi thề chua xót.

Những ngày tiếp theo ông Hai sống trong bi kịch triền miên, vợ con gia đình ông phải sống trong nỗi tủi nhục sợ hãi. Những người dân ở vùng kinh tế mới không cho tá túc, họ xa lánh gia đình ông.


Chủ nhà đòi đuổi gia đình ông đi nơi khác, bởi họ không muốn chứa một người có nguồn gốc quê quán làm hán gian, làm tay sai cho giặc. Ông Hai đau đớn lắm. Ông yêu làng thật, yêu rất nhiều, tự hào rất nhiều, "Lần thì yêu thật, hưng làng mà theo Tây thì phải thù…"

Rồi có lúc ông uất hận kêu lên rằng " Không biết những người làng, ăn gì mà ngu vậy để cho ông phải mang nhục nhã như thế này". Trong lúc túng quẫn, không có chỗ nào để đi, cũng có lúc ông nghĩ tới phương án về lại làng quê xưa, về lại nơi chôn rau cắt rốn.

Nhưng rồi ông lại gạt phắt đi. Bởi làng đã theo Tây rồi, người trong làng giờ đều làm hán gian, làm tay sai cho giặc về đó để làm hán gian, phản bội đất nước thì ông không đời nào về. Dù ở đây, mọi người không ông tá túc, không cho ông sinh sống đuổi ông đi, thì ông cũng không đời nào về làng để làm Việt gian.

Thông qua nhân vật ông Hai tác giả Kim Lân đã khắc họa lên hình ảnh người nông dân chân chính, khi đã giác ngộ cách mạng thì không có điều gì có thể lay chuyển được họ. Những người nông dân dù ít học, không hiểu biết nhiều nhưng một khi họ đã được cảm hóa thì tinh thần yêu nước, đấu tranh căm thù giặc của họ còn cao hơn bất kỳ một người tri thức nào.

Họ đã đặt tình yêu đất nước, yêu tổ quốc lên trên tình yêu làng, tình yêu với nơi mình sinh ra và lớn lên. Đó chính là bài học sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi tới chúng ta.

Rồi một ngày làng Chợ Dầu của ông được minh oan, lãnh đạo làng Chợ Dầu lên tận vùng kinh tế mới để nói cho mọi người yên tâm, rằng làng ông vẫn theo cách mạng, vẫn theo cụ Hồ Chí Minh, làng của ông vừa giành thắng lợi lớn trong cuộc chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược, khiến cho ông Hai vui lắm, hãnh diện lắm.

Ông như trút bỏ được gánh nặng bấy lâu nay, ông vui mừng như đứa trẻ bị đòn oan nhưng nay lại được quà. Ông vui mừng đi khoe với tất cả mọi người rằng những thông tin kia chỉ là láo toét hết, là giả dối hết.

Người đọc như cảm thấy được niềm vui, sự xúc động của ông Hai khi tin làng ông theo Tây được cải chính. Thông qua tác phẩm của mình nhà văn Kim Lân muốn gửi tới tất cả người đọc tình yêu quê hương đất nước của những người nông dân lao động Việt Nam.