Dàn ý phân tích bài thơ Viếng lăng Bác 1
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác phẩm và tác giả của bài Viếng lăng Bác
+ Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động của nhà thơ đối với Người khi vào lăng viếng Bác.
+ Bài thơ có giọng trang trọng, tha thiết thể hiện niềm yêu thương, biết ơn Bác
II. Thân bài
1. Cảm xúc khi ở trước lăng
- Tình cảm chân thành giản dị, chân thành của tác giả Viễn Phương cũng chính là tấm lòng đau đáu thương nhớ Bác của người con miền Nam nói chung
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
+ Câu thơ gợi ra tâm trạng xúc động của một người từ chiến trường miền Nam bao nhiêu năm mong mỏi bây giờ được ra lăng viếng Bác
+ Đại từ xưng hô “con” rất gần gũi, thân thiết, ấm áp tình thân mật, diễn tả tâm trạng của người con ra thăm cha sau nhiều năm mong mỏi
+ Cách nói giảm nói tránh, cùng việc sử dụng từ “thăm” để giảm nhẹ nỗi đau mất mát, cũng là cách nói thân tình của diễn tả tâm trạng mong mỏi của tác giả
- Hình ảnh hàng tre là hình ảnh ẩn dụ đa nghĩa
+ Với tính chất tượng trưng, hình ảnh hàng tre gợi lên những liên tưởng thân thuộc của hình ảnh làng quê, đất nước đã thành biểu tượng của dân tộc
+ Cây tre tượng trưng cho khí chất, tâm hồn, sự thẳng thắn, kiên trung của con người Việt Nam
+ Từ “Ôi” cảm thán, biểu thị niềm xúc động tự hào về phẩm chất ngay thẳng, mạnh mẽ của dân tộc ta
2. Sự thương nhớ của tác giả khi đứng trước lăng Người
- Ở khổ thơ thứ hai tác giả tạo ra được cặp hình ảnh thực và ẩn dụ song đôi: mặt trời thiên nhiên rực rỡ và hình ảnh Người
+ Tác giả ẩn dụ hình ảnh mặt trời nói về Bác, người mang lại nguồn sống, ánh sáng hạnh phúc, ấm no cho dân tộc
- Hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ, đây là hình ảnh thực diễn tả nỗi xúc động bồi hồi trong lòng tiếc thương kính cẩn của người dân khi vào lăng
- Hình ảnh thể hiện sự kết tinh đẹp đẽ “kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
+ Đoàn người vào viếng Bác là hình ảnh thực, đây còn là hình ảnh ẩn dụ đẹp đẽ, sáng tạo của nhà thơ: cuộc đời của dân tộc ta nở hoa dưới ánh sáng cách mạng của Bác
+ Bảy mươi chín mùa xuân: là hình ảnh hoán dụ chỉ số tuổi của Bác, cuộc đời Bác tận hiến cho sự phát triển của đất nước dân tộc
- Niềm biết ơn thành kính dần chuyển sang sự xúc động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy Bác:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
+ Ánh sáng dịu nhẹ trong lăng gợi lên sự liên tưởng thú vị: “vầng trăng sáng dịu hiền”
+ Những vần thơ của Bác luôn gắn chặt với ánh trăng, hình ảnh “vầng trăng” gợi lên niềm xúc động, và khiến ta nghĩ tới tâm hồn thanh cao của Bác
+ Ở Người là sự hòa quyện giữa sự vĩ đại thanh cao với sự giản dị gần gũi
- Nhà thơ xúc động, đau xót trước sự ra đi mãi mãi của Người:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
+ Dù Người ra đi, nhưng sự ra đi đó hóa thân vào thiên nhiên, vào dáng hình xứ sở, giống như Tố Hữu có viết “Bác sống như trời đất của ta”
+ Nỗi lòng “nghe nhói ở trong tim” của tác giả chính là sự quặn thắt tê tái trong đáy sâu tâm hồn khi đứng trước di hài của Người, đó chính là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.
3. Cảm xúc khi rời lăng của nhà thơ
- Cuộc chia ly lưu luyến bịn rịn, thấm đẫm nước mắt của tác giả
+ Mai về miền Nam thương trào nước mắt: như một lời giã từ đặc biệt, lời nói diễn tả tình cảm sâu lắng, giản dị
+ Cảm xúc “dâng trào” nỗi luyến tiếc, bịn rịn, không muốn xa rời
+ Ước nguyện chân thành muốn được hóa thân thành “chim”, cây tre”, “đóa hoa” để được ở gần bên Bác
+ Điệp từ “muốn làm” diễn tả trực tiếp và gián tiếp tâm trạng lưu luyến của nhà thơ
- Hình ảnh cây tre kết thúc bài thơ như một cách kết thúc khéo léo, hình ảnh cây tre trung hiếu được nhân hóa mang phẩm chất trung hiếu như con người
+ “Cây tre trung hiếu” mang bản chất của con người Việt Nam trung hiếu, thẳng thắn, bất khuất đó cũng là sự tự hứa sống có trách nhiệm với sự nghiệp của Người.
III. Kết bài
- Viếng lăng Bác là bài thơ đẹp và hay gây xúc động trong lòng người đọc. Nhân dân Việt Nam trung thành, xúc động với con đường cách mạng mà Người vạch ra.
- Thể hiện qua giọng điệu trang trọng và tha thiết, hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm, ngôn ngữ bình dị, hàm súc.
Dàn ý phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác 2
1. MỞ BÀI:
Giới thiệu tác giả Viễn Phương
Giới thiệu tác phẩm Viếng lăng Bác
Khái quát nội dung từng khổ thơ
2. THÂN BÀI
Khổ 1+2: Cảm xúc của nhà thơ khi ở ngoài lăng Bác
Khổ 3: Cảm xúc của nhà thơ khi ở trong lăng Bác
Khổ 4: Những cảm xúc dâng trào và ước nguyện lúc ra về.
Đáng giá: nghệ thuật, nội dung, tình cảm của tác giả.
3. KẾT BÀI:
Giá trị của tác phẩm cho tới tận bây giờ và tình cảm của nhà thơ dành cho Bác Hồ kính yêu.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác 1
Có những tình cảm trong cuộc sống có ý nghĩa vô cùng với tâm hồn mỗi người. Đó là tình yêu ruột thịt, là tình bạn bè, anh em, đồng chí. Những tưởng không có sợi dây nào gắn kết những con người tưởng chừng xa lạ, nhưng luôn ấm áp tình thương. Ấy là người con miền Nam- Viễn Phương với trái tim thành kính hướng về người cha già. Người cha không cùng một dòng máu nhưng Người là cha chung của toàn dân tộc Việt Nam. Viếng lăng Bác ra đời là tấm lòng người con gửi đến cha.
Bài thơ được sáng tác năm 1976 tại một thời điểm rất đặc biệt. Đây là năm đánh dấu sự kiện lăng Bác được hoàn thành và những người con miền Nam trong đó có Viễn Phương, lần đầu được đến thăm, gặp gỡ người cha già của cả dân tộc. Với bốn khổ thơ tự do, một chỉnh thể không quá dài nhưng tất cả là kết tinh cho niềm yêu, nỗi nhớ, sự kính trọng khôn cùng của người con miền Nam dành cho Bác.
Khổ thơ đầu của bài là khung cảnh quanh lăng Bác hiện lên trong nỗi niềm xúc động bồi hồi của nhà thơ:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Người con giới thiệu mình với cha: con ở miền Nam. Trong lời thơ ấy còn chất chứa bao tâm tình. Sau 1975, đất nước mới hoàn toàn thống nhất và đến giờ con mới có dịp thăm cha. Từ xa, người con xúc động hướng về nơi Bác nằm. Nơi đó là thiên nhiên thanh bình với “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát’. Viễn Phương đã đến lăng Bác từ rất sớm phải chăng vì không muốn chậm dù chỉ một phút giây ngắn ngủi gặp cha. Vì lẽ đó mà sương sớm vẫn còn mờ ảo hiện lên trên khung cảnh quanh lăng. Nhưng có lẽ nhà thơ cũng như bao người con miền Nam, sự hồi hộp phút giây đầu gặp gỡ là điều chẳng thể tránh khỏi, và con như đang vin vào khung cảnh kia để giữ lòng mình khỏi bồi hồi. Tình thái từ “Ôi’ vang lên đầy xúc động, nhà thơ nhìn ngắm hàng tre xanh mà lòng bao tự hào khôn xiết. Hàng tre xanh thực sự đã trở thành chủ thể tinh thần đặc biệt vì nó là “tre xanh Việt Nam”- biểu trưng cho con người, tâm hồn, khí phách Việt Nam. Với hoán dụ “bão táp mưa sa” dùng để ám chỉ những gian nan, vất vả, nhà thơ nhằm tô điểm “đứng thẳng hàng”. Dáng tre đứng thẳng hay lòng người mãi hiên ngang, mãi trường tồn. Cây tre kết tinh trong mình nó những giá trị đẹp, và khi tre tọa mình tại lăng chủ tịch, tầm vóc, khí phách ấy càng làm say lòng người. Tre trở thành người bạn quê hương đón tiếp lớp lớp người con Việt Nam vào thăm Bác trong niềm hân hoan khôn cùng. Tình cha con thắm thiết được nâng lên, được mở rộng trở thành tình cảm lớn lao ấy là tình quần chúng dành cho lãnh tụ cao cả.
Tình cảm ấy không chỉ quyện hòa mà còn lắng đọng trong niềm xúc cảm của người con xa. Khổ thơ thứ hai trở thành điểm tựa để Viễn Phương bày tỏ trực tiếp chân tình trước hình ảnh lớn lao của người cha:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày mặt trởi đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Khổ thơ được tạo dựng bởi những hình ảnh thực cùng hình ảnh ẩn dụ thật đẹp. Hai câu thơ đầu thông qua ẩn dụ “mặt trời”, Viễn Phương ngợi ca công lao to lớn của Bác. Mặt trời của tự nhiên trong câu thơ đầu là nguồn sống cho muôn loài và đảm nhiệm nhiệm vụ lớn lao “ngày ngày” duy trì sự sống. Mặt trời ấy quan trọng, quý giá và chỉ có duy nhất. Ấy nhưng mặt trời tự nhiên lại bắt gặp một mặt trời nữa cũng đẹp, cũng sáng. Ấy là “mặt trời trong lăng”- ẩn dụ chỉ Bác Hồ với những hi sinh lớn lao dành cho dân tộc. Và đâu chỉ có Viễn Phương, Bác cũng luôn lồng lộng như ánh dương ấm áp trong ngòi bút Tố Hữu: “Bác như trời đất của ta”. Với câu thơ của mình, nhà thơ bên cạnh việc khẳng định công lao bất tử, sức sống của Bác với dân tộc Việt Nam thì còn muốn nói lên lòng biết ơn, sự tôn kính dành cho người cha già của cả dân tộc.
Yêu thương, kính trọng Bác là vô bờ. Đó đâu chỉ là tình cảm cá nhân riêng tư của nhà thơ. Hai câu tiếp trong khổ thơ khẳng định tình yêu của cả dân tộc dành cho người:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Nhịp thơ ở đây trôi đi thật chậm. Điệp từ thời gian “ngày ngày” lần nữa được sử dụng với dụng ý khẳng định tính chất thường xuyên liên tục. Quả đúng là vậy. Đoàn người vào lăng viếng Bác nối nhau thành “dòng”. Và tất cả “dòng người” đều chung một nỗi niềm, cảm xúc ấy là thương yêu Bác. Thông qua nghệ thuật ẩn dụ, dòng người nối tiếp nhau kết thành “tràng hoa” dâng lên Bác hiện lên thật đẹp. Viễn Phương mượn ẩn dụ “bảy mươi chín mùa xuân” để nói về Bác. Nói về độ tuổi của Bác. Bác ra đi nhưng luôn sống mãi ở độ tuổi bảy mươi chín với sức xuân tràn ngập. Viễn Phương cô đọng, kết tinh tình cảm để cảm ơn người cha đem đến mùa xuân cho đất nước, con người Việt Nam.
Một quãng đường đi chầm chậm và rồi cuối cùng người con đã được gặp trực tiếp người cha già. Khung cảnh trong lăng hiện lên trong nỗi xót thương vô hạn của nhà thơ:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao đau nhói ở trong tim
Ánh mắt người con hướng về Người và quan sát Người trong niềm thành kính. Giấc ngủ của người trong đôi mi khép chặt, người con không bỏ quên dù nhỏ bé. Và Người ngủ bình yên. Phải chăng, đây là giấc ngủ bình yên hiếm hoi trong “bảy mươi chín mùa xuân” mà người mải mê cống hiến cho dân tộc và quê hương. Hiểu điều đó, cả thiên nhiên và đất trời đều đồng lòng với giấc ngủ của Người. “Vần trăng sáng dịu hiền ở câu thơ hay chính là ẩn dụ cho khung cảnh thanh bình- lí tưởng mà cả đời Bác luôn theo đuổi. Trăng tô điểm cho giấc ngàn thu của Bác. Cả cuộc đời Bác, Bác cũng dành tình yêu của mình cho trăng: khi thì “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”, khi thì “Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ/ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Tất cả đều đẹp vô cùng.
Trong khung cảnh yên bình mà ta tưởng chừng không gian, thời gian đều ngưng đọng, tâm trạng và cảm xúc trong lòng người càng thêm rạo rực thiết tha. Đây là hai câu thơ trực tiếp thể hiện tâm trạng của tác giả: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi/ Mà sao đau nhói ở trong tim”. Bác là trời xanh, là mùa xuân vĩnh hằng mãi với không gian, thời gian vô cùng vô tận, nhưng Bác cũng là người cha bình thường không thoát khỏi quy luật sinh tử của tự nhiên. Và trong tâm trạng người con, Viễn Phương cũng như đồng bào Việt Nam, tất cả chúng ta đều chung nỗi đau thương nhớ khôn nguôi dành cho Bác: Mà sao nghe nhói ở trong tim. “Nghe nhói” là nỗi đau cảm giác được, nỗi đau ấy không vô hình mà hiện hữu đau đáu trong tâm can. Nỗi đau mất Bác là nỗi đau chẳng thể nguôi ngoai dẫu thời gian có chảy trôi vô cùng vô tận: Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa.
Kết thúc bài thơ là một sự thương nhớ khác, sự thương nhớ ấy là niềm bâng khuâng, lưu luyến của Viễn Phương với Bác. Những câu thơ cuối cũng là kết tinh cao nhất của tình cảm và tâm trạng trong lòng người con phải nói lời tạm biệt cha:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Viễn Phương vẫn đang đứng trong lăng Bác, vẫn đang cận kề bên Bác, nhưng nỗi nhớ vẫn chẳng thể nguôi khi nghĩ về cảnh chia xa “Mai về miền Nam”. Vì biết phải chia li, nên buồn thương ấy là không thể tránh khỏi. Cảm xúc bịn rịn trực tiếp được bộc lộ “trào nước mắt”. Niềm thương, tình cảm của người con chẳng còn xúc động, bùi ngùi mà nhân lên thành giọt nước đau thương. Và tình cảm lúc này chỉ có thể đọng lại thành lời yêu thương, thành nguyện ước dẫu tưởng chừng phi lí: làm chim, làm hoa, làm cây tre. Mong ước của Viễn Phương được diễn tả qua một loại điệp từ “muốn làm”. Nhịp điệu trong khổ thơ trở nên khắc khoải hơn bao giờ hết. Những nguyện ước nhỏ bé, giản dị của Viễn Phương làm ta chẳng thể không xúc động. Ước mong làm chú chim trên bầu trời tự do để ngày ngày ca vang lời ca ngợi, lời yêu Bác sâu đậm. Và rồi tô điểm cho vẻ đẹp của mái nhà Bác ở qua nguyện ước làm “bông hoa tỏa hương thơm” say lòng người. Những gì đẹp nhất, những gì tinh túy nhất đều được Viễn Phương dành tặng cho Bác. Đặc biệt, ta càng yêu tấm lòng nhà thơ vì một ước ao cuối chân thành giản dị: làm cây tre trung hiếu. Hình ảnh cây tre với những đức tính tốt đẹp mở đầu bài thơ và cũng kết thúc bài thơ một cách thật sự nhiên. Cây tre mang bao vẻ đẹp của đất nước, con người và con nguyện hiến dâng để làm đẹp nơi Người an nghỉ. Viễn Phương chân thành và thắm thiết với người cha già.
Với một loạt hệ thống hình ảnh thơ giàu tính biểu cảm, những biện pháp nghệ thuật đặc sắc, Viễn Phương đã minh chứng cho người đọc một tình cảm thiết tha sâu nặng mà người con muốn dành tặng người cha dù bao xa cách trở. Tình cảm kính yêu, sự tự hào, niềm thương, nỗi nhớ ấy luôn sống mãi cùng thời gian và bạn đọc mọi thế hệ hôm nay.
Nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác 2
Bác Hồ luôn là đề tài muôn thuở trong thơ ca của Việt Nam. Người là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ, nhà văn thể hiện tài năng trong các tác phẩm của mình. Có thể nói, Bác chính là hình ảnh đẹp nhất, ngời sáng nhất trong thơ ca Việt Nam. Không ít tác phẩm viết về Người, viết về những cuộc viếng thăm, gặp gỡ Người, nhưng có lẽ, cảm xúc nhất trong những tác phẩm đó là “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ là nỗi niềm của một người con ở tận miền Nam xa xôi được trở ra thăm Bác sau ngày Bác đi xa.
Viễn Phương là một nhà thơ xuất hiện khá nhiều trong dòng văn học Cách mạng ở miền Nam từ những ngày còn trong thời gian chiến đấu. Nhưng tác phẩm “Viếng lăng Bác” có lẽ là tác phẩm thành công nhất của ông khi viết về Bác Hồ. Cả bài thơ chứa đựng trong đó là nỗi niềm đau xót, là sự xúc cảm chân thành dành cho vị Cha già của dân tộc của một người con nơi phương xa được trở về thăm. Mở đầu bài thơ, tác giả đã mở lời chào giới thiệu với chúng ta, với Bác Hồ kình yêu rằng:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Không như những nhà thơ khác dùng lời mời chào mỹ miều để miêu tả một cuộc viếng thăm, Viễn Phương đã dùng sự chân thành nhất của mình để giới thiệu. Tác giả ở tận miền Nam xa xôi, mãi tới hôm nay, sau ngày độc lập dân tộc mới được ra thăm vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. hai từ “miền Nam” như nhấn mạnh hơn sự xa xôi trong khoảng cách địa lý giữa hai đầu Tổ quốc.
Và sự viếng thăm của nhà thơ như là một mong mỏi từ lâu để được ra viếng lăng Bác Hồ. Bác Hồ đã ra đi từ năm 1969 nhưng mãi đến tận năm 1976, Viễn Phương mới được trở ra Bắc để thăm Người. Nói là thăm, nhưng thực ra là một cuộc viếng thăm lăng của Người bởi Người đã ra đi từ lâu.
Nhưng ở đây, nhà thơ rõ ràng không dùng từ “viếng” như mục đích thực sự của chuyến đi này mà lại dùng từ “thăm”. Bởi vì tác giả cũng như những người con Nam Bộ khác ra đây để thăm lại nhà, thăm lại vị Cha già của mình. Cũng bởi vì, miền Nam là một phần máu thịt của đất nước Việt Nam, là một phần “nhà” mà Bác Hồ luôn đau đáu vào thăm mà chưa có dịp:
“Bác thương miền Nam nỗi thương nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố Hữu)
Nghệ thuật nói giảm nói tránh đã được nhà thơ sử dụng ở đây như một cách để làm giảm đi nỗi đau xót vô vàn đang trào dâng trong lòng ông. Bao nhiêu xúc cảm đau xót cứ thể trào ra trong lòng như một cơn sóng mạnh mẽ vậy mà ấn tượng đầu tiên để lại trong lòng tác giả lại là “hàng tre”. Ẩn hiện trong làn sương sớm long lanh bao phủ quanh lăng Bác là hàng tre xanh.
Cây tre từ bao đời nay đã trở thành một loài cây biểu tượng cho dân tộc ta, cho tinh thần bất khuất của cha ông ta. Từ thời Thánh Gióng cầm tre đuổi giặc, tới những cây chông, cây gai vót nhọn làm cản bước quân thù. Cây tre cứ thế đi vào đời sống tinh thần của người Việt. Hàng tre trước mắt Viễn Phương hiện lên “bát ngát”.
Không phải bất cứ từ nào khác mà lại là “bát ngát” tạo cho người đọc như cảm thấy sự cao lớn, sự mênh mông, rộng lớn của những hàng tre bao quanh lăng của Người. Ấn tượng đó của nhà thơ chợt chuyển thành một sự cảm thán.
“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Nhìn hàng tre quanh lăng Bác, nhà thơ chợt cảm thấy rằng những cây tre kia như ý chí con người Việt Nam qua bao năm tháng luôn luôn bất khuất, kiên cường, hiên ngang. Dù có trải qua “bão táp mưa sa” nhưng họ vẫn đoàn kết một lòng cùng nhau đứng lên. Từ láy “xanh xanh”được sử dụng ở đây như để biểu đạt, để diễn tả rằng con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ luôn luôn “xanh”màu xanh bất diệt.
“Xanh xanh” tức là lúc nào cũng vậy, lúc nào cũng một màu xanh như thế. Lớp con cháu kế tiếp lớp cha ông luôn mạnh mẽ để bảo vệ cho dân tộc ta. Cả khổ thơ thứ nhất bao trọn là những xúc cảm đầu tiên của tác giả khi lần đầu được tới thăm lăng Bác. Trong khổ thơ đó, có nỗi đau xót mất đi Bác, nhưng ẩn chứa trong đó phảng phất là niềm tự hào dân tộc.
Bước sang khổ thơ thứ hai, chúng ta theo chân Viễn Phương tiến dần vào lăng Bác. Trong không khí trang nghiêm ấy, nhà thơ chợt thấy hiện ra hình ảnh của mặt trời. Một mặt trời của vũ trụ luôn luôn luân chuyển không ngừng nghỉ ngày và đêm. Mặt trời ấy “ngày ngày” đi qua lăng của Bác, sưởi ấm cho Người. Và từ đó, nhà thơ cũng chợt nhận ra “một mặt trời trong lăng rất đỏ”.
Một hình ảnh ẩn dụ vô cùng tinh tế và đặc sắc. Bác Hồ - Người là vầng dương, con thuyền chỉ hướng cho dân tộc Việt Nam đi qua những ngày tăm tối nhất. Nếu như mặt trời của vũ trụ mỗi ngày tỏa xuống nhân gian thứ ánh sáng ấm áp, thì Bác Hồ - mặt trời của dân tộc Việt Nam cũng đã và luôn tỏa ra một nguồn ánh sáng vĩ đại soi tỏ con đường cho dân tộc. Trong thơ ca đã có không ít tác giả sử dụng hình ảnh của mặt trời để so sánh với Bác. Như Tố Hữu cũng đã từng nói:
“Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng”.(Sáng tháng năm)
Nhưng ở đây, với Viễn Phương vẫn là hình ảnh ấy, mà lại mang một màu sắc riêng biệt vô cùng. Nếu như mặt trời ngoài kia mỗi ngày đều đỏ rực, thì mặt trời trong lăng đây cũng đỏ rực sắc màu của chính mình. Màu đỏ ấy toát lên từ phẩm chất con người của Hồ Chí Minh, từ lý tưởng vĩ đại mà Người mang tới, từ ý chí bất khuất, kiên cường đấu tranh mà Người đã thể hiện, từ công lao mà Người đã làm nên.
Tất cả những điều đó tạo nên một mặt trời rực rỡ, sánh ngang bằng với mặt trời của vũ trụ ngoài kia. Tác giả đã khéo léo sử dụng ở đây điệp từ “ngày ngày”. “Ngày ngày” tức là sự liên tục của thời gian, sự lặp lại tuần hoàn của thiên nhiên cũng như lý tưởng, ý chí của Người sẽ luôn luôn sáng tỏ như mặt trời kia vậy. Lần thứ hai, “ngày ngày” được lặp lại khi diễn tả dòng người đang lặng lẽ vào lăng thăm Người. Hàng người đi trong sự trang nghiêm và tĩnh lặng, trong nỗi tiếc thương, đau xót vô vàn.
Ở đây, tác giả đã thật tinh tế khi không phải là đoàn người, hàng người mà là dòng người. Điều này khiến cho người đọc như cảm thấy được sự tĩnh lặng, sự trải dài miên man vô tận của hàng người vào viếng Bác. Cả đoàn người ấy cứ lặng lẽ “đi trong thương nhớ”, thương nhớ vị lãnh tụ vĩ đại vô vàn kính yêu của dân tộc. Nỗi nhớ ấy đã kết thành “tràng hoa”, dòng người ấy đã trở thành một tràng hoa dài vô tận để dâng lên Bác Hồ.
Và Viễn Phương hòa cùng dòng người ấy đem tấm lòng yêu kính chân thành của mình dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân” của Người. “Bảy mươi chín mùa xuân” là số tuổi của Bác Hồ. Cả cuộc đời Người, với bảy mươi chín mùa xuân, tất cả đều cống hiến cho dân tộc, không một phút giây nào ngơi nghỉ dành cho bản thân mình. Tác giả muốn thể hiện sự cống hiến lớn lao mà Bác Hồ đã hi sinh của đất nước. Và sự hi sinh ấy đã giúp cho cả dân tộc được sống trong hòa bình.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Có lẽ đây là khổ thơ đắt giá nhất bài thơ. Cả khổ thơ là sự ca ngợi công ơn của Bác, đó cũng là niềm cảm kích, niềm biết ơn vô bờ của tất cả mọi người dân Việt Nam dành cho Bác. Tiếp theo đây, nhà thơ lại tiếp tục cuộc hành trình vào viếng thăm lăng Bác. Và giờ đây, ông đã được gặp gỡ Người cha già mà mình hằng yêu quý, kính trọng:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Bác đang nằm ở đó, nhẹ nhàng thanh thản như đang chìm trong một giấc ngủ ngon. Cả cuộc đời Người chỉ có một niềm mong ước, đó là đất nước được hòa bình. Vậy nên giờ đây, khi đất nước được hòa bình, độc lập, Người đã được nghỉ ngơi trong giấc ngủ yên bình.
Cả cuộc đời Người đã cống hiến hết sức lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, vậy nên giờ đây, Người đang “nằm trong giấc ngủ yên bình”. Đối với nhà thơ hay với bất cứ ai, Bác như vừa mới đây năm xuống, thưởng cho mình một giấc ngủ ngon sau bao ngày vất vả, khuya sớm lo cho cuộc đấu tranh của nhân dân:
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Một lần nữa, Viễn Phương đã phải sử dụng tới biện pháp nói giảm nói tránh để làm bớt đi không khí đau thương đang tràn ngập trong tâm hồn ông. Bác Hồ đang nằm đó, giữa một giấc ngủ bình yên hơn bao giờ hết, giữa một thứ ánh sáng nhẹ nhàng lan tỏa trong không gian.
Thứ ánh sáng đó có thể là một ngọn đèn ngủ dìu dịu được thắp trong lăng Bác. Nhưng cũng có thể nhà thơ đang muốn nói tới vầng trăng thiên nhiên – vầng trăng mà Bác Hồ yêu thích nhất. Có thể thấy, thơ của Người luôn tràn ngập hình ảnh của trăng. Ví dụ như:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Hay:
“Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Có lẽ ở đây, tác giả không chỉ đơn giản là muốn nói tới ngọn đèn trong lăng Bác mà còn muốn nói tới vầng trăng thiên nhiên ngoài kia. Bởi sinh thời, Bác Hồ là người yêu trăng hơn bao giờ hết. Giờ đây khi được bước sang một thế giới khác, yên bình hơn, Người muốn được hòa mình cùng với vầng trăng của thiên nhiên, luôn luôn sáng tỏ, đẹp đẽ, trường tồn cùng thời gian như lý tưởng của Người vậy. Và tiếp theo, sau bao nhiêu sự kìm nén, nhà thơ đã phải bật lên tiếng nấc nghẹn ngào:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Một lời trách cứ mới đau đớn làm sao! Lời trách cứ ấy là lời trách trời xanh kia. Bầu trời thì vẫn vậy, bao năm tháng vẫn xanh một màu trường tồn vĩnh cửu, vậy mà vị Cha già của dân tộc sao đã phải ra đi? Vẫn biết quy luật sinh tử của tạo hóa nhưng vẫn thấy xót xa, đau đớn vô cùng. Dù lý trí luôn tỏ tường rằng quy luật của thiên nhiên là bất biến, nhưng nhà thơ vẫn “nghe nhói ở trong tim”.
Nỗi đau xót nghẹn ngào ấy đã trở thành lời trách cứ đối với trời xanh. Và cảm giác “nghe nhói” khiến người đọc cũng như đồng cảm được một phần nào đó cảm giác đau xót, quặn thắt tim gan mà tác giả muốn biểu đạt. Thứ cảm xúc ấy dồn nén tới mọi giác quan trên cơ thể con người.
Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến hồi chia ly và cuộc viếng thăm của Viễn Phương với Hồ Chủ tịch cũng vậy. Đến khi phải nói lời từ biệt, nhà thơ đã vô cùng xúc động. Sự xúc động ấy cùng với nỗi niềm đau xót kìm nén từ ban đầu đã bật thành một tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Ngày mai, con phải rời xa Cha, rời xa vị Cha già kính mến để trở lại miền Nam xa xôi, biết bao giờ mới có dịp được thăm lại Người. Chính vì thế, nhà thơ đã bật lên tiếng nức nở. Bao nhiêu nỗi đau xót, nghẹn ngào cứ thế tuôn theo dòng lệ trào. Chính lúc này, trong tâm nhà thơ chợt hiện lên một ước nguyện:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Điệp từ “muốn” lặp lại ba lần như khẳng định lại ước muốn của nhà thơ. Đó là một ước muốn mãnh liệt, niềm khao khát cháy bỏng của nhà thơ. Ước nguyện đó là được ở lại bên cạnh Người – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, chỉ để làm “một con chim hót”, “một đóa hoa”, “một cây tre trung hiếu”. Tất cả chỉ đều là những vật vô cùng nhỏ bé, tầm thường, nhưng lại là mong ước của tác giả.
Bởi vì chim hót sẽ ru thêm giấc ngủ ngon cho Người, hoa sẽ tỏa ngát hương thơm và một cây tre nhỏ mãi trung hiếu với nơi đây. Nhịp thơ ở đây chậm đi một nhịp so với các khổ thơ trước. Sự chậm rãi ấy như muốn kéo dài thêm giây phút sắp phải chia xa. Kết lại bài thơ, hình ảnh cây tre lại một lần nữa xuất hiện như một vòng lặp tuần hoàn.
Cây tre là biểu tượng của con người Việt Nam, biểu tượng cho ý chí và sức mạnh của dân tộc. Tác giả muốn ở lại bên lăng Hồ Chủ Tịch trở thành một cây tre trung thành với Bác, với lý tưởng mà Người đã chỉ lối. Qua đó, nhà thơ càng muốn khẳng định một điều, đó là sự tin tưởng, sự trung thành của mỗi người dân Việt Nam vào Bác, vào lý tưởng và chân lý mà Bác đem tới cho chúng ta.
Cả khổ thơ đã thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của tác giả, cũng chính là mong ước của mỗi người dân Việt Nam. Đó là luôn luôn được ở cạnh Người, ở cạnh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc cũng từ đó, thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào Bác và lý tưởng mà Bác đã gây dựng.
Bài thơ đã kết lại nhưng lại mang đến cho người đọc chúng ta thật nhiều cảm xúc. Chỉ một cuộc viếng thăm thôi, nhưng lại chứa đựng trong đó bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu tình yêu sâu sắc của một người con Nam Bộ đối với Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Bài thơ được cấu tứ theo lối tám chữ. Lối thơ này được kết cấu như một câu chuyện kể với mạch văn chậm rãi khiến cho người đọc cảm nhận được hết tất cả những tình cảm mà nhà thơ muốn diễn tả.
Cùng với hệ thống biện pháp tu từ mà nhiều nhất là nói giảm nói tránh, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã làm sống dậy trong lòng bạn đọc sự yêu kính dành cho Bác, và cũng từ đó hòa chung vào niềm đau xót cũng như ước muốn mà tác giả muốn thể hiện.
“Hồ Chí Minh - Người ở khắp muôn nơi”. Đây là lời khẳng định của Tố Hữu trước sự hiện diện của Bác. Bác tuy đã đi xa nhưng sự hiện diện của Người thì còn mãi trong mỗi người con Việt Nam. Người là vị cha già đáng kính là “hồn của muôn hồn”. Sự ra đi của Người có đau xót, có xót xa, nhưng lý tưởng của Người để lại, ý chí và phẩm chất của Người sẽ mãi là tấm gương soi tỏ con đường mà dân tộc Việt Nam sẽ đi và mang vinh quang trở về. Đó cũng là lời mà Viễn Phương muốn ngỏ qua bài thơ “Viếng lăng Bác”.
Cùng với bài Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương, các em có thể tham khảo thêm một số bài học khác như: Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác, Viếng lăng Bác là bài ca ân tình cảm động của Viễn Phương, Cảm nhận của em trước lòng kính yêu tha thiết của nhân dân miền Nam qua bài Viếng lăng Bác, Suy nghĩ của em về bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.
Nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác 3
Nhắc đến nhà thơ Viễn Phương là nhắc đến một thi sĩ với hồn thơ nhẹ nhàng, man mác, bâng khuâng. Thơ ông lay động lòng người bởi sự tinh tế trong cách diễn đạt cảm xúc, hình ảnh thơ giản dị mà sâu sắc. Bài thơ Viếng lăng Bác là một bài thơ như thế, bằng tình cảm chân thành bình dị của một người con miền Nam, Viễn Phương đã viết nên những vần thơ thiết tha bày tỏ niềm thành kính và nỗi xúc động khi được ra thăm lăng Bác.
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát"
Lời xưng hô thân mật, gần gũi, như tình cảm của một đứa con thân yêu dành cho người cha đáng kính. Sau bao khát khao mong ước, hôm nay người con ấy có cơ hội được viếng lăng Bác, nỗi xúc động, nghẹn ngào thốt lên thành tiếng như thoả lòng mong mỏi gặp Bác bấy lâu.
Nơi miền Nam xa xôi, người con ấy mang cả trái tim của hàng triệu đồng bào miền Nam đang dõi theo người, ấm áp biết bao. Đứng trước lăng là hàng tre xanh bát ngát trong sương mai buổi sớm, hàng tre ấy vẫn hiên ngang, đứng bên người, chở che cho người.
"Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng"
Từ cảm xúc khi đứng trước lăng, tác giả bồi hồi nghĩ về con dân đất Việt, những con người Việt Nam anh dũng, kiên trung, cây tre là biểu tượng là hồn cốt của dân tộc Việt. Người Việt Nam vẫn luôn sáng ngời bởi sự gắn bó bền chặt, ý chí kiên cường, dẫu bão táp mưa sa, dẫu đất cằn sỏi đá vẫn hiên ngang, ngạy thẳng, thủy chung. Hàng tre xanh xanh ấy là sức sống bền bỉ, sự trường tồn của đất nước, dân tộc. Theo dòng người, vào viếng lăng Bác, tác giả lại càng thương nhớ xúc động hơn bao giờ hết.
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ"
Nếu ánh mặt trời của thiên nhiên ngày ngày vẫn miệt mài " đi "bên Bác, vẫn dõi theo người, ánh mặt trời ấy mang sự sống, mang nguồn ánh sáng rực rỡ cho muôn loài trên thế gian. Thì Bác cũng như ánh mặt trời ấy, diệu kì và đẹp đẽ biết bao, Bác mang nguồn sáng của cách mạng soi rọi con đường giải phóng của dân tộc, là ánh sáng ấm áp trong mỗi trái tim chúng con. Đó là một hình ảnh rất đẹp, rất thơ, chứa chan niềm tôn kính của nhà thơ tới Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc.
"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân".
Bác vẫn ở đấy thôi, chúng con từ khắp mọi miền đến bên người. Ngày ngày những dòng người vào thăm Bác trong niềm xúc động, nhớ thương khôn nguôi. Niềm yêu thương ấy kết thành những tràng hoa đẹp nhất, rực rỡ nhất dâng lên người. Cuộc đời dân tộc nở hoa dưới nhân cách và công lao vĩ đại của Người.
Bác đã hiến trọn bảy mươi chín mùa xuân đẹp đẽ nhất cho dân tộc cho cách mạng, Bác đã làm nên mùa xuân mới cho đất nước, cho muôn dân. Càng vào trong lăng, nỗi nghẹn ngào lại càng khó tả, càng mãnh liệt khôn nguôi khi bắt gặp hình ảnh người:
"Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
………………………………………….
Mà sao nghe nhói ở trong tim".
Bác đang yên nghỉ giấc ngủ ngàn thu giữa một vầng trăng hiền dịu, ánh trăng như Bác vậy, luôn ấm áp và dịu dàng, là kẻ tri âm tri kỉ với Người. Ánh trăng sáng trong ấy như nhân cách vĩ đại của người, cao đẹp, gần gũi mà thân thương. Dẫu biết rằng Bác như bầu trời xanh kia vậy, luôn mãi mãi trường tồn, khắc sâu trong trái tim của muôn người, nhưng thực tại cũng khiến tác giả không khỏi đau lòng được.
Không buồn sao được, không thổn thức, tiếc thương sao được khi bầu trời xanh của dân tộc đã ra đi mãi mãi. Tiếng thơ cất lên sao mà nhói lòng, mà thổn thức đến vậy. Càng bên Bác, tình cảm lại càng dạt dào, càng bứt rứt, quyến luyến chẳng muốn rời xa. Từng phút giây thiêng liêng được bên Người là khoảnh khắc quý báu và đáng trân trọng nhất, khi nghĩ đến việc phải xa Người lại không thể ngăn được những dòng nước mắt nuối tiếc, bịn rịn.
"Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Ước nguyện giản dị nhưng chất chứa tình cảm lớn lao của người con gửi đến Người. Từ " muốn làm" lặp đi lặp lại như diễn tả nỗi khát khao khôn nguôi được ở lại với Người, được bên Người thật lâu. Là con chim cất cao tiếng hót giữa bầu trời thanh bình, là đóa hoa tỏa hương ngào ngạt, là cây tre trung hiếu canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Mong ước ấy đâu chỉ riêng của Viễn Phương mà còn là tiếng lòng, là khát khao, ước nguyện của tất cả mọi người còn trên đất nước này gửi đến Bác.
"Bác Hồ - người là niềm tin thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại", hình ảnh Bác luôn mãi sắt son và trường tồn theo thời gian. Bài thơ thật đẹp, thật đáng quý, đáng yêu bởi những cảm xúc tự tận đáy lòng được viết ra của tác giả. Không cầu kỳ, hoa mỹ, không lộng lẫy, phô trương. “Viếng lăng Bác” kết tinh những tình cảm lớn trong một trái tim bình dị đã chạm đến cảm xúc người đọc một cách tự nhiên như thế.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác 4
Trong thơ ca ca ngợi về chủ tịch Hồ Chí Minh thì có rất nhiều những tác phẩm thơ hay và đặc sắc. Thế nhưng không phải bài thơ viết về Bác nào cũng có thể nói được những xúc cảm đến nghẹn ngào như trong bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương.
Không thể phủ nhận được bài thơ Viếng Lăng Bác là một trong những bài thơ đã thành công trong việc diễn tả niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn vô hạn của Viễn Phương đối với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc – Hồ Chí Minh bằng một ngôn ngữ tình tế, tâm tình và giàu xúc cảm.
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Ngay từ câu thơ đầu tiên thì khi từ chiến trường miền Nam, nhà thơ Viễn Phương cũng đã mang theo trong mình với biết bao tình cảm thắm thiết của đồng bào và chiến sĩ ra viếng lăng Bác Hồ kính yêu. Có thể nói đây cũng chính là một cuộc hành hương của người chiến sĩ. Từ xa, nhà thơ đã nhìn thấy hàng tre ẩn hiện trong sương khói trên quảng trường Ba Đình lịch sử. Khi mà màn sương trong câu thơ gợi lên một không khí thiêng liêng gợi một miền cổ tích xa xưa. Ấn tượng đầu tiên với người con ở trong Nam khi ra đến lăng Bác cũng chính là hàng tre. Cây tre với dáng đứng thẳng cũng vô cùng quen thuộc với chúng ta và đặc biệt cây tre lại còn có đặc tính đứng thẳng, sống được ở nơi đất sỏi và đất bạc màu nữa. Hình ảnh hàng tre như tượng trưng cho sự cần cù, chịu thương chịu khó của người nông dân của con người Việt Nam.
Viễn Phương cũng thật tài tình khi ông cũng đã miêu tả cảnh quan (phía ngoài) lăng Bác, nhà thơ lúc này đây thật tinh tế khi ông tạo nên những suy nghĩ sâu sắc về phẩm chất tốt đẹp của nhân dân ta. Với khổ thơ tiếp theo nói về Bác. Bác Hồ cũng chính là một người con ưu tú của dân tộc và nói như Phạm Văn Đồng thì Bác là tinh hoa và khí phách của nhân dân Việt Nam.
Tiếp theo đó là hai câu thơ sóng nhau, hô ứng nhau với hai hình ảnh mặt trời. Một mặt trời thiên nhiên, rực rỡ, vĩnh hằng. Cứ như thường lệ mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng và thấy ở trong lăng còn có mặt trời rất đỏ – Bác Hồ. Câu thơ ẩn dụ thật đẹp và mang lại cho người đọc những ấn tượng sâu xa biết bao nhiêu.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Để có thể hòa nhập vào "dòng người" đến lăng viếng Bác, lúc này đây thì nhà thơ xúc động bồi hồi rồi thành kính cũng như nghiêm trang. Dòng người lúc này đây cũng như đang nối tiếp nhau đi viếng lăng Bác chẳng khác nào những tràng hoa có muôn sắc để có thể bày tỏ được lòng biết ơn, sự thành kính của nhân dân đối với Bác Hồ vĩ đại:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Viễn Phương thật tài tình biết bao nhiêu như cũng đã sử dụng từ “Dâng” như cũng đã lại chứa đựng bao tình cảm, bao tình nghĩa. Nhà thơ Viễn Phương không nói "bảy chín tuổi" mà lại nói rằng “bảy mươi chín mùa xuân” có thể nhận thấy được đây chính là một cách nói rất thơ nữa.
Tiếp theo đến với khổ thơ thứ ba nói về sự vĩnh hằng bất diệt của Bác. Bác như chỉ đang nằm ngủ một giấc ngủ vô cùng bình yên trong một khung cảnh thơ mộng. Bác vốn yêu trăng lắm. Nhà thơ Viễn Phương bằng những cảm thấy "Bác yên ngủ" một cách thanh thản ở giữa một vầng trăng dịu hiền. Khi nhìn thấy Bác ngủ mà nhà thơ đau đớn, xúc động. Độc giả khi đọc thấy câu thơ “mà sao nghe nhói ở trong tim "diễn tả sự đau đớn, như quặn thắt và tiếc thương đến cực độ. Tác giả Viễn Phương dường như cũng lại có một lối viết hàm súc, đầy thi vị và có những câu chữ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc.
Ấn tượng nhất không thể không nói đến khổ thơ cuối nói lên cảm xúc của nhà thơ khi ra về. Đồng thời cũng lại biết bao lưu luyến, buồn thương. Nhà thơ Viễn Phương cũng đã thể hiện các ước muốn hóa thân làm "con chim hót", mong muốn có thể thành đóa hoa tỏa hương. Hơn hết chính là mong muốn làm cây tre trung hiếu mới để được đền ơn đáp nghĩa Người. Thông qua đây ta nhận được câu thơ sâu lắng, hình ảnh thơ đẹp và độc đáo, hay đó chính là những cách biểu hiện cảm xúc vô cùng Nam Bộ. Thực tế có thể đánh giá đây là những câu thơ trội nhất trong bài Viếng lăng Bác.
Bài thơ Viếng lăng Bác, bài thơ ngắn mà ý thơ, hình tượng thơ, cảm xúc thơ sâu lắng, đồng thời lại còn mang được một hàm súc và đẹp. Nhà thơ Viễn Phương đã chọn thể thơ mỗi câu tám từ, trong mỗi khổ bốn câu, toàn bài bốn khổ – một sự cân đối và vô cùng hài hòa để biểu hiện một giọng điệu thơ nghiêm trang, kính cẩn với Bác. Thực sự đây là một bài thơ hay, một bài ca ngân vang ca ngợi về Bác Hồ và thể hiện được một nỗi niềm của chính nhà thơ với Bác.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác 5
Sau ngày Bác Hồ "đi xa ", bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một trong những bài thơ viết về Bác đặc sắc nhất. Bài thơ diễn tả niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với lãnh tụ bằng một ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc sâu lắng. Nó đã được phổ nhạc, lưu truyền sâu rộng trong nhân dân. Câu thơ mở đầu cho thấy xuất xứ của bài thơ:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Từ chiến trường miền Nam, nhà thơ Viễn Phương mang theo bao tình cảm thắm thiết của đồng bào và chiến ra viếng lăng Bác Hồ kính yêu. Đây là cuộc hành hương của người chiến sĩ. Từ xa, nhà thơ đã nhìn thấy hàng tre ẩn hiện trong sương khói trên quảng trường Ba Đình lịch sử. Màn sương trong câu thơ gợi lên một không khí thiêng liêng, huyền thoại. Cây tre, hàng tre "đứng thẳng hàng" trong làn sương mỏng, ẩn hiện thấp thoáng, mang màu sắc xanh xanh. "Hàng tre xanh xanh" vô cùng thân thuộc được nhân hóa, trải qua "bão táp mưa sa "vẫn "đứng thẳng hàng" như dáng đứng của con người Việt Nam kiên cường, bất khuất trong bốn nghìn năm lịch sử:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác,
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát,
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam,
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
"Ôi!" là từ cảm, biểu thị niềm xúc động tự hào. Hình ảnh hàng tre xanh mang tính chất tượng trưng, giàu ý nghĩa liên tưởng sâu sắc. Tre mang phẩm chất cao quý của con người Việt Nam: "mộc mạc, thanh cao, ngay thẳng, bất khuất..." (Thép Mới). Có nhà thơ đã viết:
... Bão bùng thân bọc lấy thân,
Tay ôm, tay níu, tre gần nhau thêm
Thương nhau tre chẳng ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người...
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
Miêu tả cảnh quan (phía ngoài) lăng Bác, nhà thơ tạo nên những suy nghĩ sâu sắc về phẩm chất tốt đẹp của nhân dân ta. Khổ thơ tiếp theo nói về Bác. Bác là người con ưu tú của dân tộc, là "tinh hoa và khí phách của nhân dân Việt Nam (Phạm Văn Đồng).
Hai câu thơ sóng nhau, hô ứng nhau với hai hình ảnh mặt trời. Một mặt trời thiên nhiên, rực rỡ, vĩnh hằng "Ngày ngày... đi qua trên lăng", và "Một mặt trời trong lăng rất đỏ"- hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Màu sắc "rất đỏ" làm cho câu thơ có hình ảnh đẹp gây ấn tượng sâu xa hơn, nói lên tư tưởng cách mạng và lòng yêu nước nồng nàn của Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Hòa nhập vào "dòng người" đến lăng viếng Bác, nhà thơ xúc động bồi hồi...Thành kính và nghiêm trang. Dòng người đông đúc, chẳng khác nào một "tràng hoa" muôn sắc ngàn hương từ mọi miền đất nước đến Ba Đình lịch sử viếng lăng Bác. Hình ảnh ẩn dụ "tràng hoa" diễn tả tấm lòng biết ơn, sự thành kính của nhân dân đối với Bác Hồ vĩ đại:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Chữ "dâng" chứa đựng bao tình cảm, bao tình nghĩa. Nhà thơ không nói "bảy chín tuổi" mà nói: bảy mươi chín mùa xuân, một cách nói rất thơ: cuộc đời Bác đẹp như những mùa xuân. Qua đó, ta thấy nghệ thuật lựa chọn ngôn từ của Viễn Phương rất tinh tế, biểu cảm và hình tượng.
Khổ thơ thứ ba nói về sự vĩnh hằng bất diệt của Bác. Bác như đang nằm ngủ một giấc ngủ "bình yên", trong một khung cảnh thơ mộng. Bác vốn yêu trăng. Thời kháng chiến, giữa núi rừng chiến khu Việt Bắc, Bác đã từng có những khoảnh khắc sống rất thần tiên:
Việc quân, việc nước bàn xong,
Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm.
Giờ đây, nhà thơ cảm thấy "Bác yên ngủ" một cách thanh thản "giữa một vầng trăng dịu hiền ”. Nhìn "Bác ngủ ", nhà thơ đau đớn, xúc động. Câu thơ "mà sao nghe nhói ở trong tim "diễn tả sự đau đớn, tiếc thương đến cực độ. Viễn Phương có một lối viết hàm súc, đầy thi vị; câu chữ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc.
Khổ thơ cuối nói lên cảm xúc của nhà thơ khi ra về. Biết bao lưu luyến, buồn thương. Nhà thơ muốn hóa thân làm "con chim hót", làm "đóa hoa tỏa hương", làm"cây tre trung hiếu" để được đền ơn đáp nghĩa Người. Ý thơ sâu lắng, hình ảnh thơ đẹp và độc đáo, cách biểu hiện cảm xúc "rất Nam Bộ". Đây là những câu thơ trội nhất trong bài Viếng lăng Bác.
Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này. Điệp ngữ "muốn làm... "được láy lại ba lần gợi tả cảm xúc thiết tha, nồng hậu của nhà thơ miền Nam đối với lãnh tụ.
Viếng lăng Bác, bài thơ ngắn mà ý thơ, hình tượng thơ, cảm xúc thơ sâu lắng, hàm súc và đẹp. Viễn Phương đã chọn thể thơ mỗi câu tám từ, mỗi khổ bốn câu, toàn bài bốn khổ - một sự cân đối hài hòa để biểu hiện một giọng điệu thơ nghiêm trang, kính cẩn.
Bài thơ là tấm lòng yêu thương, kính trọng và biết ơn Bác. Tâm tình của nhà thơ, của mỗi người Việt Nam và của cả dân tộc. Đó là giá trị lớn lao của bài thơ Viếng lăng Bác.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác 6
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam – đã cống hiến trọn đời mình vì sự nghiệp giải phóng đất nước ta. Người ra đi năm 1969, để lại biết bao nỗi thương nhớ và xót xa cho Tổ quốc. Có nhiều nhà thơ đã viết bài thơ tưởng nhớ về Bác, và “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một trong những bài thơ xuất sắc nhất. Chúng ta hãy cùng đến với bài thơ để cảm nhận được cảm xúc ấy.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
…
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Năm 1976, sau ngày đất nước ta được hoàn toàn giải phóng, lăng Bác được khánh thành. Nhà thơ Viễn Phương từ miền Nam đã ra thăm lăng Bác. Cảm xúc dâng trào, nhà thơ đã làm một bài thơ như một lời bộc bạch chân tình của hàng triệu người con miền Nam với Bác. Đây là một bài thơ đặc sắc, giàu ý nghĩa, làm cho người đọc xúc động.
Hai khổ thơ đầu là những dòng cảm xúc ban đầu của nhà thơ khi được lần đầu đến thăm lăng Bác: một chút tự hào, xen lẫn vui sướng, lẫn xúc động khi sắp đc kề cận bên Người cha thân yêu của dân tộc. Bằng những hình ảnh ẩn dụ giàu sức gợi, ngôn ngữ bình dị mà hàm súc, tinh tế, đoạn thơ đã để lại trong lòng người đọc những cảm xúc vô cùng sâu sắc.
Hai khổ cuối bài thơ như những nốt nhạc du dương, trầm bổng,réo rắt như tấm lòng tha thiết yêu mến của nhà thơ với Hồ Chủ Tịch. Bằng những ngôn từ ẩn dụ đặc sắc, từ ngữ bình dị mà giàu sức gợi, câu thơ đã khơi gợi trong lòng người đọc những rung động sâu sắc và đáng quý....
Bài thơ được phân chia theo bố cục thời gian, và khổ thơ đầu tiên nói về cảm xúc của tác giả khi nhìn thấy lăng Bác từ xa.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Câu thơ đầu tiên thật ngắn gọn nhưng nó lại là một lời tâm sự chân tình của nhà thơ cũng như hàng triệu người con miền Nam. Một tiếng “con” thật ấm áp, gần gũi, thể hiện lòng kính yêu to lớn đối với Bác. Bác thật gần gũi với người dân, như là một vị cha già của dân tộc. “Con ở miền Nam” - mấy tiếng ấy bao hàm một nỗi đau và một niềm tự hào. Miền Nam gian khổ và anh hùng, miền Nam đi trước về sau, miền Nam thành đồng Tổ quốc, miền Nam vừa chiến thắng kẻ thù hung bạo trở về trong đại gia đình Việt Nam đây Bác ơi! Nhà thơ mong nhìn thấy Bác một lần sau khi đất nước đã giải phóng nhưng thật đau xót, Bác đã không còn. Vì vậy, từ “viếng” đã được nhà thơ thay bằng từ “thăm” để giảm nhẹ nỗi đau cũng như bày tỏ niềm tin rằng Bác vẫn sống mãi.
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Đập vào mắt nhà thơ là hình ảnh hàng tre xanh ngắt trước lăng Bác. Cây tre - biểu tượng cho sự bất khuất, kiên cường nhưng giản dị, thanh cao của người dân Việt Nam – đã để lại một dấu ấn đậm nét trong lòng tác giả trước khi bước vào lăng Bác. Hàng tre bát ngát – Hàng tre xanh xanh – Hàng tre Việt Nam: hàng tre bao đời như một dấu hiệu đặc biệt của dân tộc. Hàng tre trùm bóng mát rượi lên bao thế hệ cuộc đời, hàng tre mang bao phẩm chất của con người Tổ quốc ta: dẻo dai, đoàn kết, bất khuất, kiên cường. Ở Bác có tất cả những gì mà những con người Việt Nam từng có, cũng cái dấu hiệu xanh tươi sự sống ấy, cũng cái kiên cường “đứng thẳng hàng” trong “bão táp mưa sa” ấy. Dân tộc ta thật sự có sức sống mãnh liệt, cho dù những thử thách của thiên nhiên, của lịch sử có khắc nghiệt cách mấy thì vẫn kiên cường chống chọi, và vẫn cố gắng đứng thẳng chứ nhất quyết không chịu bị bẻ cong. Hàng tre đứng đó, bên lăng Bác như ru giấc ngủ ngàn thu của Bác, gắn bó mãi mãi với Bác như dân tộc Việt Nam vẫn kính trọng Bác mãi mãi.
Đến gần lăng Bác, xếp hàng vào viếng thì tác giả có thêm nhiều cảm xúc mới.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Hai câu thơ sinh động với nhiều hình ảnh gợi cảm được tạo nên từ những hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi với nhau. Một mặt trời thực đi qua trên lăng, là mặt trời của tự nhiên, của muôn loài, soi sáng cho muôn loài, đem lại sức sống cho thế giới. Từ mặt trời thật ấy, một mặt trời ẩn dụ khác hiện ra trong lăng, rất đỏ. Bác nằm trong lăng với ánh sáng đỏ xung quanh như một mặt trời. Bác tồn tại vĩnh cửu trong lòng mỗi người dân Việt Nam như sự tồn tại của một mặt trời thật. Bác soi sáng đường cho dân tộc ta đi, cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giành độc lập của Tổ quốc. Bác giúp nhân dân ta thoát khỏi kiếp sống nô lệ, trở thành một con người tự do để bây giờ được hạnh phúc. Công lao của Bác đối với dân tộc ta cũng như mặt trời, to lớn không kể xiết. Bác là một mặt trời. Cái ẩn dụ mặt trời ở đây không biết đã đủ nói về Bác chưa? Không, nếu nói Bác là mặt trời thì phải nhấn mạnh thêm cho rõ cái đặc tính của vầng mặt trời ấy: rất đỏ. Cái mặt trời đang tỏa sáng trên cao kia, cái mặt trời của thiên nhiên, tượng trưng của nguồn nóng, nguồn sáng, nguồn sự sống ấy, không phải bao giờ cũng nguyên vẹn thế đâu, không phải lúc nào cũng ấm nóng thế đâu! Vầng mặt trời ấy có thể bị bóng đêm lấn át. Nhưng vầng mặt trời Bác Hồ của ta thì mãi mãi đỏ thắm, mãi mãi là nguồn sưởi ấm, nguồn sáng soi đường cho con người Việt Nam. Hôm nay có hai mặt trời chiếu rọi trên đường đời: một mặt trời tỏa sáng trước mặt, một mặt trời tỏa sáng tâm hồn…Như mặt trời kia, Bác thuộc về vĩnh cửu. Bác sẽ sống mãi trong lòng mỗi con người Việt Nam.
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Cùng với mặt trời đi qua trên lăng, ngày ngày dòng người vẫn đi qua lăng trong thương nhớ. Điệp ngữ “ngày ngày” ý nói rằng nhân dân ta mãi luôn ghi nhớ công lao to lớn của Bác, mãi mãi là như vậy. Nhịp thơ của đoạn chậm, diễn tả đúng tâm trạng khi đứng xếp hàng trước lăng chờ đến lượt vào, ngậm ngùi tưởng nhớ đến Bác đã khuất. Tuy vậy, nhịp thơ chầm chậm như bước chân người đi trong cuộc tưởng niệm mà sao câu thơ vẫn không buồn? Phải rồi. Chúng ta không làm cái việc tưởng niệm bình thường với Bác như một người đã khuất. Dòng người đang đi đây là đang đi trong cuộc hành trình ngợi ca vinh quang của Bác. Và tràng hoa vinh quang này không phải được kết bằng những bông hoa bình thường như mọi tràng hoa vinh hiển khác trên đời đâu. Tràng hoa đây là một hình ảnh ẩn dụ của tác giả, đó chính là những đoá hoa thật sự của đời, là đàn con mà Bác đã cố công tạo nên suốt bảy mươi chín mùa xuân Bác sống trên đời. Những bông hoa trong vườn Bác nay đã lớn lên, nở rộ ngát hương kính dâng lên Bác.
Vào bên trong lăng Bác, thấy Bác đang nằm đó, nhà thơ lại một lần nữa cố giấu tiếng nấc nghẹn ngào:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Khung cảnh bên trong lăng thật êm dịu, thanh bình. Lúc này, trước mặt mọi người chỉ có hình ảnh Bác. Bác nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bác mất thật rồi sao? Không đâu. Bác chỉ nằm đó ngủ thôi, Bác chỉ ngủ thôi mà! Suốt bảy mươi chín năm cống hiến cho đất nước, bây giờ đất nước đã bình yên, Bác phải được nghỉ ngơi chứ. Bao quanh giấc ngủ của Bác là một “vầng trăng sáng dịu hiền”. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho những năm tháng làm việc của Bác, lúc nào cũng có vầng trăng bên cạnh bầu bạn. Từ giữa chốn tù đày, đến “cảnh khuya” núi rừng Việt Bắc, rồi “nguyên tiêu”…Tuy vậy, Bác chưa bao giờ thảnh thơi để ngắm trăng đúng nghĩa. Khi thì “trong tù không rượu cũng không hoa”, khi thì “việc quân đang bận”. Chỉ có bây giờ, trong giấc ngủ yên, vầng trăng ấy mới thật sự là vầng trăng yên bình, để Bác nghỉ ngơi và ngắm. Trăng dịu hiền, soi sáng hình ảnh Bác. Nhìn Bác ngủ ở đấy thật bình yên, nhưng có một sự thật dù đau lòng cách mấy ta vẫn phải chấp nhận: Bác đã thật sự ra đi mãi mãi.
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Trời xanh bao la kia kéo dài đến vô tận, không bao giờ chấm dứt. Dù lí trí vẫn luôn trấn an lòng mình rằng Bác vẫn sống đấy, vẫn còn dõi theo Tổ quốc mãi mãi như màu xanh thanh bình trên nền trời Tổ quốc độc lập nhưng con tim ta vẫn nhói đau vì một sự thật đau lòng. Một từ “nhói” của nhà thơ nói hộ ta nỗi đau đớn, nỗi đau vượt lên mọi lí lẽ, mọi lập luận lí trí. Bác như trời xanh, Bác là mãi mãi, Bác vẫn sống trong tâm tưởng mỗi chúng ta, Bác mãi hiện diện trên mỗi phần đất, mỗi thành quả, mỗi phần tử tạo nên đất nước này. Nhưng mà Bác mất thật rồi, ta không còn có Bác trong cuộc đời thường này. Mất Bác, cái thiếu vắng ấy liệu có thể nào bù đắp được? Tổ quốc ta đã thật sự không còn Bác dõi theo từng bước chân, không còn được Bác nâng đỡ mỗi khi vấp ngã. Bác ra đi, nỗi đau ấy liệu có từ ngữ nào diễn tả hết? Cả đàn con Việt Nam luôn tiếc thương Bác, luôn nhớ về Bác như một cái gì đó thật vĩ đại, không thể xoá nhoà. Dù Bác ra đi thật sự rồi nhưng những điều Bác đã làm vẫn sẽ đọng lại trong tâm hồn, hình ảnh Bác vẫn tồn tại trường kì trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.
Cuối cùng dẫu thương tiếc Bác đến mấy, cũng đến lúc phải rời lăng Bác để ra về. Khổ thơ cuối như một lời từ biệt đầy xúc động:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Ngày mai phải rời xa Bác rồi. Một tiếng “thương của miền Nam” lại vang lên, gợi về miền đất xa xôi của Tổ quốc, một nơi từng có vị trí sâu sắc trong trái tim người. Một tiếng “thương” ấy là yêu, là biết ơn, là kính trọng cuộc đời cao thượng, vĩ đại của Người. Đó là tiếng thương của nỗi đau xót khi mất Bác. Thương Bác lắm, nước mắt trào ra, thật đúng là tình thương của người Việt Nam, vô bờ bến và rất thật.
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Cùng với nỗi niềm yêu thương vô hạn, tác giả nói lên muôn vàn lời tự nguyện. Điệp ngữ “muốn làm” khẳng định mạnh mẽ những ước nguyện ấy. Ước chi ta có thể biến hình thành những gì thân yêu quanh nơi Bác ngủ để mãi mãi được chiêm ngưỡng Bác, cuộc đời và tâm hồn của Bác, để bày tỏ lòng ta với Bác. Một con chim nhỏ góp tiếng hót làm vui những bình minh của Bác, một đóa hoa góp mùi hương làm thơm không gian quanh Bác hay một cây tre trong hàng tre xanh xanh VN tỏa bóng mát dịu dàng quê hương của Bác, tất cả đều làm Bác vui và ngủ an giấc hơn. Đây cũng chính là nguyện ước chân thành, sâu sắc của hàng triệu con tim người Việt sau một lần ra thăm lăng Bác. Bác ơi! Bác hãy ngủ lại bình yên nhé, chúng cháu về miền Nam tiếp tục xây dựng Tổ quốc từ nền móng Bác đã tạo ra đây! Câu thơ trầm xuống để kết thúc, ngừng lặng hoàn toàn…
Về nghệ thuật, bài thơ Viếng lăng Bác có nhiều điểm nghệ thuật rất đặc sắc, giúp biểu hiện thành công thêm về những giá trị nội dung. Bài thơ viết theo thể tám chữ, trong có có xen một vài câu bảy và chín chữ. Nhiều hình ảnh trong bài thơ lấy từ ngoài đời thực đã được ẩn dụ, trở thành một cách thể hiện cảm xúc thành kính của tác giả. Nhịp thơ của bài linh hoạt, lúc nhanh là biểu hiện cho ước nguyện đền đáp công ơn Bác, lúc chậm là lúc thể hiện lòng thành kính với Bác. Giọng điêu của bài trang trọng, tha thiết, ngôn ngữ thơ bình dị mà cô đúc.
Bằng những từ ngữ, lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ như một tiếng nói chung của toàn thể nhân dân Việt Nam, biểu lộ niềm đau xót khi thấy Bác kính yêu ra đi. Qua bài thơ, tôi cảm thấy rằng đất nước ta có hoà bình như ngày hôm nay một phần lớn là nhờ công lao của Bác, như vậy chúng ta cần phải biết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta, để những công ơn to lớn của Bác không bị bỏ phí.
Nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác 7
Viễn Phương là cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ. Đề tài trong thơ ông viết về vị lãnh tụ vĩ đại. Bài thơ “ Viếng lăng Bác” được sáng tác năm 1976 khi đất nước thống nhất, lăng Bác được khánh thành và tác giả được vào thăm lăng Bác. Bài thơ là cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng bác, khi vào trong lung Bác và những cảm xúc dâng trào cùng những ước nguyện khi ra về.
Thơ của Viễn Phương có một giọng điệu nhẹ nhàng giàu cảm xúc. Giọng điệu ấy được thể hiện rõ ràng ngay ở lời xưng hô:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp Mưa sa đứng thẳng hàng”
Mở đầu là lời xưng hô con-Bác thật thân mật gần gũi như người thân trong gia đình, giữa cha với con.Lời xưng hô ấy là lời chào giới thiệu đứa con ở miền Nam ra thăm lăng Bác. Cách nói giảm nói tránh “ thăm lăng Bác” dường như trong lòng Viễn Phương Bác vẫn còn sống mãi để giờ đây người con xa xôi ra thăm cha. Đến với lăng Bác nhà thơ bắt gặp hình ảnh hàng tre trong sương xanh ngát bốn mùa. Hàng tre ấy được trồng quanh lăng Bác gợi trong lòng cảm giác quen thuộc trở về với quê hương. Cây tre là loài cây bé nhỏ dẻo dai không chịu khuất phục bão táp mưa sa. Ngắm nhìn hàng tre mà nhà thơ không khỏi bồi hồi xúc động “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam” . Dòng cảm xúc trào dâng được thể hiện bằng từ “ôi” cùng nghệ thuật ẩn dụ hàng tre xanh xanh tượng trưng cho cả dân tộc Việt Nam đang hội tụ quay quần bên lăng Bác.
Không chỉ nhìn thấy hàng tre mà Viễn Phương còn nhìn thấy hình ảnh mặt trời:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.”
Điệp từ “ngày ngày” chỉ thời gian đều đặn như một vòng quay ngày nào mặt trời của thiên nhiên đem nguồn sáng đến trái đất. Mặt trời ấy cũng đi qua trên lăng sưởi ấm nơi Bác yên nghỉ. Ngắm nhìn mặt trời của thiên nhiên mà nhà thơ liên tưởng đến “mặt trời trong lăng” hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ là nhà thơ muốn ca ngợi công lao to lớn của Bác với đất nước, với dân tộc. Có thể nói Bác đã cống hiến cả cuộc đời cho dân tộc đánh dấu bằng bảy mươi chín mùa xuân. Chính vì thế dù đã đi xa nhưng mọi người vẫn nhớ về Bác ngày nào cũng như ngày nào những người con từ khắp mọi miền tổ quốc với những bộ trang phục đẹp chậm dãi tiến về phía lăng Bác giống như một “tràng hoa” nghệ thuật ẩn dụ dòng người với không khí trang nghiêm thành kính đều hướng về phía lăng Bác với lòng thành kính biết ơn.
Có thể nói người con ở miền Nam xa xôi gặp người cha kính yêu là một khát khao “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” và giờ đây niềm khao khát đã trở thành hiện thực. Bước chân vào lăng dòng cảm xúc nhà thơ lại trào dâng khi thấy hình ảnh:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.”
Không khí trong lăng thật yên tĩnh với hình ảnh Bác nằm với tư thế thanh thản và đang trong giấc ngủ bình yên. Cách nói giảm nói tránh trong tâm tưởng nhà thơ Bác vẫn còn sống mãi. Ngắm nhìn Bác mà nhà thơ lại xúc động khi nghĩ đến những năm tháng đất nước còn chiến tranh Bác có nhiều đêm không ngủ “Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.” Giờ đây đất nước thống nhất Bác mới có giấc ngủ bình yên. Người nằm đó mà xung quanh là ánh sáng trong trẻo của vầng trăng. Vầng trăng trên trời cao kia cũng đi vào trong lăng soi sáng nơi Người yên nghỉ. Dường như giữa người và thiên nhiên bao giờ cung có sự giao hòa trăng đã trở thành đề tài trong thơ Bác và trở thành người bạn tri kỉ. Hay vầng trăng kia là chỉ Bác người có tâm hồn trong sáng thanh cao. Cách biểu đạt nghệ thuật ẩn dụ “trời xanh” ví Bác như bầu trời cao rộng mà nhà thơ muốn ngợi ca sự vĩ đại trường tồn vĩnh cửu của người như hóa thân vào non sông đất nước sánh ngang cùng trời đất sống mãi trong lòng người. Cặp từ “Vẫn biết- mà sao” lí trí tâm tưởng luôn khẳng định Bác vẫn còn sống nhưng trở lại hiện thực người đã đi xa một tổn thất lớn của dân tộc. Người mãi mãi đi làm cho lòng người đau nhói nỗi đau quặn thắt không nói lên lời.
Chính vì vậy mà khi chân còn ở trên đất Bác nghĩ đến ngày mai trở về nhà thơ cảm thấy buồn, xúc động lưu luyến không muốn xa rời. Dòng cảm xúc ấy rất tự nhiên, chân thành tuôn trào thành giọt nước mắt để rồi nhà thơ bày tỏ những ước nguyện:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...”
Viễn Phương muốn làm con chim để dâng tiếng hót hay nhất của mình nơi lăng Bác, muốn làm bông hoa để khoe hương khoe sắc làm đẹp nơi Bác yên nghỉ, muốn làm cây tre để đứng canh cho giấc ngủ của Người. Nghệ thuật ẩn dụ con chim, nhành hoa, cây tre chỉ nhà thơ Viễn Phương người muôn hóa thân vào những gì nhỏ bé nhưng đẹp đẽ để được gần gũi nơi Bác yên nghỉ. Điệp ngữ “muốn làm” điệp cấu trúc điệp cách phô diễn càng làm cho những ước nguyện chân thành tha thiết. Hình ảnh cây tre trung hiếu còn là lời thề thiêng liêng nguyện trung thành với lí tưởng của người. Hình ảnh cây tre kết thúc ở cuối bài tạo cách kết thúc đầu cuối tương ứng.
Bài thơ kết cấu của thể thơ tám chữ, từ ngữ hay, giàu cảm xúc, hình ảnh đẹp “mặt trời, vầng trăng,…” cách biểu đạt của nghệ thuật ẩn dụ cùng với giọng điệu nhẹ nhàng trang nghiêm thành kính đã diễn tả cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng bác, vào trong lăng Bác và lúc ra về. Đó là tâm trạng của tất cả mọi người khi đến nơi đây. Và với những bài thơ của Tố Hữu hay “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ, “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên các tác giả không chỉ đóng góp những bài thơ hay viết về Bác Hồ mà còn muốn ca ngợi về Người bằng tình cảm xuất phát từ tận đáy lòng, bằng tình yêu quý tự hào và biết ơn.
Bài thơ đã cho thấy tình cảm của Viễn Phương nói riêng và cả của dân tộc nói chung dành cho Bác. Qua đó em rất yêu quý và tự hào về Bác em hứa sẽ cố gắng học tập, thực hiện tốt năm điều Bác Hồ dạy để trở thành người công dân tốt.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác 8
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
Nỗi mong chờ và ao ước của đồng bào đã được Bác đưa vào thăm không còn nữa! Người đã ra đi mãi mãi để lại bao niềm nuối tiếc trong lòng mỗi người dân Nam Bộ. Viễn Phương – nhà thơ trẻ miền nam – được vinh dự ra thăm lăng Bác. Tác giả đã thay mặt nhân dân miền nam bảy tỏ tình cảm của mình khi đứng trước người cha già dân tộc, Xúc động đến tận đáy lòng, Viễn Phương viết bài “Viếng lăng Bác”. Đây là bài thơ đầu tiên gợi cho em niềm xảm xúc sâu xa nhất.
Cảm xúc đầu tiên ta cảm nhận được tù bài thơ có lẽ vì bài thơ thể hiện được tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào Nam bộ muốn nhắn gửi, nhờ Viễn Phương nói hộ nỗi trong chờ và mong đọi Bác vào tham.
Xúc dộng nghẹn ngào, mở đầu bài thơ, tác giả viết:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre! Xanh xanh Việt nam”
Tình cảm nhà tho rất chân thành và cũng rất gần gũi. Đối vói người chiến sĩ miền Nam được ra thăm lang Bác là một điều rất vinh dụ. chính vì thế tình yêu thương của tác giả đối với Bác rất chân thành. Câu thơ rất ấm áp tình người với cách xưng hô thân mật “con”. Bởi tất cả mọi người đều là những người con trung hiếu của Bác. Tác giả khéo léo chọn hình ảnh cây tre, tạo nên hình ảnh thân thuộc của đất nước để mở rộng bài thơ hơn. Nhắc đến hình ảnh cây tre, ta lại nghĩ tói đất nước, tói dân tộc Việt với bao đức tính cao quý: bất khuất, kiên cường,đầy ý chí mạnh mẽ.
Theo đoàn người, tác giả vào thăm lăng Bác, nhà thơ nhìn thấy:
“Ngày ngày mặt tròi đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
“mặt trời” ngày ngày đi qua trên lăng là mặt trời của thiên nhiên, nguồn sáng lớn nhất, rực rỡ. nhưng mặt trời trong lăng còn nhận ra một mặt trời khác “rất đỏ”. Một hình ảnh nhân hóa chan chứa biết bao sự đáng kính đối với Bác Hồ vĩ đại. bằng hình ảnh ẩn dụ, nhà thơ đã ví Bác là “mặt trời”, Người là mặt trời rực đỏ màu cách mạng sẽ mãi mãi chiếu sáng đường chúng ta đi bằng sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. đây là nét nghệ thuật sáng tạo của tác giả. Độc đáo nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh khác để gợi ra Bác:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bẩy mươi chín mùa xuân”
Hình ảnh nhũng dòng người đi trong thương nhớ, kết những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực so sánh những người xếp hàng dài vào lăng trông như những tràng hoa vô tận. nó còn có ý nghĩa tượng trưng: cuộc đòi của họ đã nỏ hoa dưới ánh sáng Bác. Những bông hoa tươi thắm đó đang đến nhũng gì tốt đẹp nhất. “dâng bảy mươi chín màu xuân”, hay chính là hình ảnh hoán dụ về con người đã sống bảy mươi chín đời người sống ngập tràn niềm hân hoan như ngày xuân. Ánh sáng nơi Bác được nhà thơ miêu tả như một vầng trăng hiền dịu:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Ánh sáng của những ngọn đèn mờ ảo trong lăng gợi nhà thơ liên tưởng thật thú vị “ánh trăng”. Tác giả đã thể hiện sự am hiểu của mình về Bác qua sự liên tưởng kì lạ đó. Bởi trăng với Bác đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến dỗ giấc ngủ ngàn thu cho Người. Với hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” nhà thơ còn muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví vói Bác. Bác của chúng ta là vậy. “mặt tròi”, “vầng trăng”, “trời xanh” đó là những cái mênh mông bao la của vũ trụ được nhà thơ ví như cái bao la rộng lớn trong tình thương của Bác. Đó cũng là biểu hiện cho sự vĩ đại, rực rỡ của con người với sự nghiệp của Bác. Biết rằng Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng và tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao. Nhưng nhà thơ vẫn không khỏi thấy đau nhói trong lòng khi đứng trước thi thể Người. “Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Nỗi đau như hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức của tác giả. Đó là sụ rung cảm chân thành của nhà thơ.
Đứng trong lăng bác, nhưng khi nghĩ đến lúc phải xa Bác, Viễn Phương thấy bịn rịn không muốn dứt. Tình cảm của nhà thơ tron suốt thời gian trên luôn sâu lắng, đau lặng lẽ nhưng đến giây phút này, Viễn Phương không thể nào ngăn được nữa, để cho tình cảm theo dòng nước mắt tuôn trào, dâng lên cao và tha thiết nhất “mai về miền nam thương trào nước mắt”. Chỉ nghĩ đến việc về miền nam, tác giả cũng “tuôn trào nước mắt” luyến tiếc khi chia tay bịn rịn không muốn xa nơi Bác an nghỉ. ở câu thơ này tác giả không sử dụng nghệ thuật nào, chỉ là lời nói giản dị, là tình thương sâu lắng tự tấm lòng nhưng lịa làm cho ta xúc động, bài thơ như người dân nam Bộ, nhưng lại lắng trong đó nỗi thương yêu đau đớn không có gì tả được. Tác giả thay mặt cho nhân dân miền nam bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn với vị cha già dân tộc. Câu nói giản dị ấy làm người đọc thêm hiểu và đồng cảm với cảm xúc Viễn Phương, bởi lới nói đó đều xuất phát từ muôn triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đâu không khác gì tác giả. Được gần bác dù chỉ trong phút giây nhưng không bao giờ tác giả muốn xa bác vì Người ấm áp, rộng lớn quá. Ước nguyện thành kính của tác giả cũng là mong ước nguyện chung của nhưng người đã hoặc chua một lần gặp Bác.
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Điệp ngữ “muốn làm” lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ thể hiện ước muốn của tác giả. Hình ảnh cây tre lại xuất hiện khép bài thơ một cách khéo léo. Mộ mong ước chân thành của nhà thơ. Tác gỉa muốn làm con chim hàng ngàn ca hót cho Bác yên ngủ, làm hoa tỏa hương thơm ngào ngạt, cùng muốn đóa hoa khác làm đẹp cho noi bác yên nghỉ. Và vui sướng nhất khi làm cây tre trung hiếu đứng mãi bên Bác canh trừng cho giấc ngủ Người. cánh hoa ấy, tiếng chim ấy, cây tre ấy giữ mãi cho Người giấc ngủ yên bình. Viễn Phương nói lên mong ước cũng như ước nguyện tát cả chúng ta muốn gần Bác để lớn lên một chút
“Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn ở bên Người một chút”
Bác của chúng ta là vậy. Người giàu tình thương yêu, giàu đức hi sinh và đời Người vô vùng giản dị. Đất nước ta mất bác như mất người cha vĩ đại, người cha luôn dành cho nhân loại tình thương vô bờ bến.
Bài thơ thật giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, mấy cai đọc bài thơ không thấy rung động trong lòng. Bằng cách sử dụng điêu luyện những biến pháp tu từ một cách sáng tạo, tác giả đã thể hiện tình cảm đằm thắm lại rất giản dị chân thành đối vói Bác. Nhà thơ truyền được cảm xúc của mình đến người đọc chính bở cảm xúc của tác giả cũng là cảm xúc của đồng bào nam bộ nói riêng, của dân tộc nói chung.
Nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác 9
“Bác đã đi rồi sao Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời”
(Tố Hữu)
Có thể nói sự ra đi của vị lãnh tụ vĩ đại là một mất mát lớn đối với tất cả nhân dân Việt Nam. Có không ít những lời thơ thể hiện niềm thương xót xúc động trước sự ra đi của Bác. Tuy một năm sau ngày đất nước ta hoàn toàn thống nhất Viễn Phương mới có cơ hội ra thăm lăng Bác nhưng ông cũng không kìm nén được dòng cảm xúc của mình. Sự xót xa, thương nhớ ấy được tác giả bộc lộ qua bài thơ “Viếng lăng Bác”
Mở đầu bài thơ, Viễn Phương đã nêu lên hoàn cảnh mình ra thăm lăng Bác:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”.
Nhà thơ là một người con của đồng bào miền Nam Tổ quốc xa xôi không quản ngại khó khăn ra “thăm lăng Bác”. Tình cảm của ông dành cho Bác thật đáng quý. Miền Nam là mảnh đất đã hứng chịu biết bao bom đạn và sự tàn phá của kẻ thù trong suốt những năm dài. Nhờ sự chỉ đạo sáng suốt của Bác và cách mạng mà miền Nam mới được giải phóng, đất nước mới được thống nhất như ngày hôm nay. Nhưng Bác đã không thể có mặt để chứng kiến niềm vui ấy, đó quả là một điều đáng tiếc. Đối với nhân dân miền Nam nói riêng và nhân dân cả nước nói chung Bác Hồ như một vị cha đầy kính yêu:
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
(Tố Hữu)
Có lẽ nhà thơ ra thăm lăng Bác vào buổi sáng sớm nên ông mới có thể trông thấy những hàng tre “xanh xanh” nối tiếp nhau bát ngát trong sương dù cho có phải trải qua bao nhiêu “bão táp mưa sa” thì chúng “vẫn thẳng hàng”. Tre là biểu tượng cho đức tính ngay thẳng, quật cường, dẻo dai của con người đất Việt. Những hàng tre thẳng tắp đứng trước lăng càng tôn lên sự uy nghiêm vốn có của khung cảnh nơi đây.
Khi đến viếng lăng, nhà thơ đã thấy xuất hiện hai hình ảnh mặt trời:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Hình ảnh ẩn dụ mặt trời mà Viễn Phương sử dụng trong câu thơ đã giúp bạn đọc phần nào thấy được tình cảm cao quý, thiêng liêng của tác giả đối với vị cha già của dân tộc. Mặt trời của vũ trụ rực rỡ bao nhiêu thì “mặt trời” trong lăng cũng rực rỡ bấy nhiêu. Mặt trời của vũ trụ mang đến ánh sáng cho cuộc sống muôn loài thì “mặt trời” trong lăng cũng mang lại ánh sáng và cuộc sống ấm no cho nhân dân. Bác thật vĩ đại, công ơn của Bác đối với dân tộc không thể nào kể hết. Nhà thơ đã hòa mình vào cùng dòng người đến viếng lăng để dâng lên Người tràng hoa thành kính nhất. “Tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” cũng là bảy mươi chín năm Người sống và cống hiến sức mình cho Tổ quốc. Nhịp thơ chậm rãi như nhịp của những bước chân ẩn chứa bao nỗi xúc động của biết bao người đến viếng thăm. Cuộc đời của Người ít có giây phút nào được ngơi nghỉ và Bác không thể nghỉ ngơi, vui thú khi đời sống nhân dân còn khổ cực, đói kém.
Khi vào bên trong lăng Bác, tác giả như lặng người đi khi trông thấy:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Bác đã dành cả cuộc đời để cống hiến cho nhân dân, đất nước mà không có một phút giây nghĩ cho bản thân mình. Và hình ảnh “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên” chỉ là một sự nghỉ ngơi của Bác. Bác vẫn luôn hiện diện trong trái tim nhân loại, Bác vẫn còn sống mãi trong tâm thức của con người Việt Nam. Trời xanh vẫn còn đó, bầu trời của hòa bình nhân dân ta sẽ nguyện một lòng gìn giữ, bảo vệ nhưng thiếu đi Bác nhân dân ta đau xót biết nhường nào. Bác đã hóa thân vào trời xanh để tồn tại mãi mãi cùng dân tộc Việt Nam.
Dù không muốn nhưng nhà thơ vẫn phải kính chào Bác với tâm trạng đầy thương xót để trở về mảnh đất miền Nam yêu dấu:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương nơi đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Tác giả muốn hóa thân vào con chim, đóa hoa, cây tre để có thể được ở bên cạnh Bác. Ông muốn trở thành con chim để hót quanh lăng Hồ chủ tịch, muốn trở thành đóa hoa để góp phần tô điểm vẻ đẹp cho khuôn viên lăng và nhà thơ cũng muốn làm cây tre để vẹn lòng trung hiếu với Người. Điệp ngữ “muốn làm” thể hiện ước nguyện vô cùng chân thành của Viễn Phương bởi có người con nào lại không muốn ở cạnh người cha già kính yêu của mình?
Với giọng điệu trang trọng, chậm rãi cùng việc sử dụng các hình ảnh ẩn dụ, bài thơ “Viếng lăng Bác” đã thể hiện những tình cảm chân thành của nhà thơ đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Những cảm xúc đau xót, thương nhớ của tác giả cũng là cảm xúc của tất cả mọi người dân Việt Nam khi Bác đi xa.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác 10
"Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha."
Nỗi mong chờ và ao ước của đồng bào miền Nam được Bác vào thăm không còn nữa! Người đã ra đi mãi mãi để lại bao niềm nuối tiếc trong lòng mỗi người dân Nam Bộ. Viễn Phương - nhà thơ trẻ miền Nam - được vinh dự ra thăm lăng Bác. Tác giả đã thay mặt nhân dân miền Nam bày tỏ tình cảm của mình khi đứng trước người cha già dân tộc. Xúc động tận đáy lòng, Viễn Phương viết bài "Viếng lăng Bác". Đây là bài thơ gợi cho em niềm cảm xúc sâu xa nhất.
Cảm xúc đầu tiên mà em cảm nhận được từ bài thơ có lẽ vì bài thơ thể hiện được tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào Nam bộ muốn nhắn gửi, nhờ Viền Phương nói hộ cùng Bác nỗi mong chờ và mong đợi Bác vào thăm.
Xúc động dạt dào, mở đầu bài thơ, tác giả viết:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre! Xanh xanh Việt Nam"
Tình cảm của nhà thơ rất chân thành và cũng rất gần gũi. Đối với người chiến sĩ miền Nam được ra thăm lăng Bác là một điều rất vinh dự. Nhưng không vì thế mà giảm mất tình yêu thương của tác giả đối với Bác. Câu thơ ấm áp tình người với cách xưng hô thân mật "con". Bởi tất cả mọi người đều là những người con trung hiếu của Bác, xem Bác như "là cha, là bác, là anh". Tình người bao la, giản dị, tình dân tộc đằm thắm mến yêu. Đoạn thơ đã tạo nên một không khí ấm áp, gần gũi. Tác giả khéo léo chọn hình ảnh cây tre, hình ảnh thân thuộc của đất nước để mở bài thơ rộng hơn. Xa hơn nhưng cũng gần gũi hơn bao giờ hết. Nhắc đến hình ảnh cây tre, ta lại nghĩ tới đất nước, tới dân tộc Việt Nam với bao đức tính cao quý. Tre anh dũng trong chiến đấu, tre yêu thương giúp đỡ dân tộc, tre hi sinh cho thế hệ mai sau và tre cũng rất anh hùng bất khuất:
"Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường"
Tre đã vất vả, chịu nhiều nắng mưa nhưng vẫn hiên ngang đứng giữa trời xanh, như dân tộc ta không bao giờ khuất phục bọn giặc cướp nước "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng".
Theo đoàn người, tác giả vào thăm lăng Bác, nhà thơ nhìn thấy:
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ."
"Mặt trời" ngày ngày đi qua trên lăng là mặt trời của đất, nguồn sáng lớn nhất, rực rỡ và vĩnh viễn trên thế gian. Nhưng mặt trời ấy còn thấy và nhận ra một mặt trời khác, một "'mặt trời trong lăng" rất đỏ. Mặt trời trên cao được nhân hóa, nhìn mặt trời trong lăng bằng đôi mắt của mặt trời. Một hình ảnh chứa chan bao tôn kính đối với Bác Hồ vĩ đại. Bằng hình ảnh ẩn dụ, nhà thơ đã ví Bác là mặt trời. Người là mặt trời đỏ rực màu cách mạng sẽ mãi mãi chiếu sáng đường chúng ta đi bằng sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Đây là nét nghệ thuật sáng tạo của tác giả. Độc đáo hơn, nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh khác nữa để ca ngợi Bác:
"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân."
Hình ảnh những dòng người đi trong thương nhớ kết thành những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực so sánh những dòng người xếp thành hàng dài vào lăng Bác trông như những tràng hoa vô tận. Nó còn có nghĩa tượng trưng: Cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác. Những bông hoa tươi thắm đó đang đến dâng lên Người những gì tốt đẹp nhất. "Dâng bảy mươi chín mùa xuân" - đây là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng. Con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã làm ra những mùa xuân cho đất nước, cho con người. Nhà thơ vào lăng, được nhìn thấy Bác nằm trong giấc ngủ bình yên giữa một vùng ánh sáng nhè nhẹ dịu hiền. Ánh sáng ấy nơi Bác nằm được nhà thơ miêu tả như ánh sáng một vầng trăng hiền dịu:
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!"
Ánh sáng của những ngọn đèn mờ ảo trong lăng gợi nhà thơ sự liên tưởng thật là thú vị "ánh trăng". Tác giả đã thế hiện sự am hiểu của mình về Bác qua sự liên tường kì lạ đó. Bởi trăng với Bác từng là đôi bạn tri âm tri kỉ. Ánh trăng bát ngát ngoài trời đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để ru giấc ngủ ngàn thu cho Người. Với hình ảnh "vầng trăng sáng dịu hiền" dụng ý nhà thơ còn muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Người có lúc như mặt trời ấm áp, có lúc dịu hiền như ánh trăng rằm. Bác của chúng là là vậy. "Mặt trời", "vầng trăng", "trời xanh" đó là những cái mênh mông bao la của vũ trụ được nhà thơ ví như cái bao la rộng lớn trong tình thương của Bác. Đó cũng là biểu hiện sự vĩ đại, rực rỡ, cao siêu của con người và sự nghiệp của Bác. Biết rằng Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng và tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao. Nhưng nhà thơ vẫn không khỏi thấy nhói đau trong lòng khi đứng trước thi thể của Người: "Mà sao nghe nhói ở trong tim". Nỗi đau như hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức của tác giả. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.
Còn đứng trong lăng Bác, nhưng khi nghĩ đến lúc phải xa Bác, Viễn Phương thấy bịn rịn không muốn dứt. Tình cảm của nhà thơ trong suốt thời gian trên luôn sâu lắng, đau lặng lẽ nhưng đến giây phút này, Viễn Phương không thể nào ngăn được nữa để cho tình cảm theo dòng nước mắt tuôn trào, dâng lên cao và tha thiết nhất "mơ về miền Nam thương trào nước mắt". Chỉ nghĩ đến việc về miền Nam, tác giả cũng đã "trào nước mắt", luyến tiếc khi chia tay, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ, ở câu thơ này, tác giả không sử dụng một nghệ thuật gì cả, chỉ là lời nói giản dị, là tình thương sâu lắng tự tấm lòng nhưng lại làm cho ta xúc động, bài thơ thêm giàu cảm xúc. Một cách nói không hoa mĩ, chân thành như người dân Nam Bộ, nhưng lại lắng trong đó nỗi thương yêu đau đớn không có gì có thể nói và tả được. Tác giả thay mặt cho nhân dân miền Nam bày tỏ niềm thương tiếc vô hạn đối với vị cha già dân tộc. Câu nói giản dị ấy làm người đọc thêm hiểu và đồng cảm với cảm xúc của Viễn Phương, bởi lời nói đó đều xuất phát từ muôn triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá. Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa một lần nào gặp Bác:
"Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này."
Từ ngữ "muốn làm" được lặp đi lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ thể hiện được ước muốn, sự tự nguyện của tác giả. Hình ảnh cây tre lại xuất hiện khép bài thơ lại một cách khéo léo. Một mong ước chân thành của nhà thơ. Tác giả muốn làm con chim hằng ngày ca hót cho Bác yên ngủ, làm đóa hoa tỏa hương thơm ngào ngạt, cùng muôn đóa hoa khác làm đẹp nơi Bác nghỉ. Và vui sướng nhất khi được làm cây tre trung hiếu đứng mãi bên Bác canh từng giấc ngủ của Người. Cánh hoa ấy, tiếng chim hót và cây tre trung hiếu ấy giữ mãi cho Người giấc ngủ bình yên. Viễn Phương nói lên mong ước của mình cũng như là ước nguyện của tất cả chúng ta muốn được gần Bác để được lớn lên một chút:
"Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn ở bên Người một chút."
Bác của chúng ta là vậy. Người giàu tình thương yêu, giàu đức hi sinh và đời Người thì vô cùng giản dị. Đất nước ta mất Bác như mất người cha vĩ đại, người cha luôn luôn dành cho nhân loại tình thương vô bờ bến.
Bài thơ "Viếng lăng Bác" thật giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, mấy ai đọc bài thơ mà không thấy rung động trong lòng. Bằng cách sử dụng điêu luyện những biện pháp tu từ một cách sáng tạo, tác giả đã thể hiện tình cảm ngọt ngào đằm thắm lại rất giản dị chân thành đối với Bác. Nhà thơ đã truyền được cảm xúc của mình đến với người đọc chính bởi cảm xúc của cả đồng bào Nam Bộ nói riêng cùa dân tộc nói chung. Chúng ta những cháu ngoan của Bác Hồ cũng xin nguyện như Viễn Phương làm cây tre trung hiếu, làm bông hoa đẹp, làm tiếng chim hay và làm muôn ngàn công việc tốt để dâng lên Người.
Nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác 11
Mỗi tác giả đều có những xúc cảm riêng khi viết về Hồ Chí Minh, là xót xa, nuối tiếc, tự hào, ngưỡng mộ cho một đời người vì dân, vì nước. Nhà thơ Viễn Phương lần đầu tiên từ miền Nam ra thăm lăng Bác cũng đã giật mình nhận ra có những thay đổi trong chính cảm xúc của mình khi nhìn thấy Bác đang ngủ yên lành. Bài thơ “Viếng lăng Bác” là lòng thành kính, ngưỡng mộ, biết ơn của nhà thơ dành cho vị lãnh tụ vĩ đại.
Năm 1976, đất nước thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành; tác giả theo đoàn từ Nam ra viếng lăng Bác. Cảm xúc của một người con lần đầu tiên ra thăm lăng Bác thực sự dồn nén trong trái tim của tác giả. Bài thơ như một lời tri ân, lòng thành kính của một đứa con phương xa được trở về thăm người. Có lẽ những câu thơ này như nói hộ tấm lòng của rất nhiều người, rất nhiều con dân Việt Nam được ra thăm lăng Bác.
Xuyên suốt bài thơ chính là mạch cảm xúc rưng rưng, xúc động, không kìm nổi lòng mình khi đứng trước một người anh hùng dân tộc. Bài thơ được mở đầu như một tiếng reo vui:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Một tiếng reo vui nhẹ nhàng, một tiếng “con” chân thành và sâu sắc của một người con từ phương xa. Câu thơ trở nên mềm mại, cuốn hút, chan chứa tình cảm. Một hành trình từ miền Nam ra tận miền Bắc để chỉ được nhìn ngắm Hồ Chí Minh một lần. Mặc dù Bác Hồ đã không còn nữa nhưng nhà thơ không dùng từ “viếng” mà lại dùng từ “thăm” rất nhẹ nhàng, tình cảm. Điều này cho thấy rằng mặc dù Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ nhưng lại rất gần gũi, thân thiết với nhân dân. Người đọc cảm nhận được rằng dường như Bác Hồ vẫn còn sống mãi, chỉ là Bác đang ngủ một giấc ngủ thật lâu, thật dài.
Khung cảnh hiện ra trước mắt khi nhà thơ đến đây là hàng tre “bát ngát”. Tre là hình ảnh thân thuộc, gần gũi với đất nước Việt Nam, biểu tượng cho sự dẻo dai, kiên cường, tinh thần không khuất phục của cả dân tộc ta. Mặc dù bão táp mưa sa nhưng hàng tre vẫn kiên cường, hiên ngang và bất khuất như chính tinh thần quật cường của dân tộc ta.
Viễn Phương mang một trái tim yêu thương và ngưỡng mộ với chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông đã mượn hình ảnh “mặt trời” biểu tượng cho Bác Hồ vĩ đại, luôn sống mãi với đất nước:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Rõ ràng hình ảnh “mặt trời” ở hai câu thơ hoàn toàn có ý nghĩa khác nhau. Một mặt trời thực của thiên nhiên, một mặt trời mang giá trị ẩn dụ, tượng trưng cho người cha già dân tộc. Phép ẩn dụ này đã làm tăng lên tính biểu cảm, phần nào làm sắc nét hơn tình cảm thương yêu, trân trọng mà Viễn Phương dành cho Người. Mặt trời luôn tồn tại để soi sáng nhân gian cũng như Hồ Chí Minh còn sống mãi trong lòng dân.
Hòa vào dòng người viếng thăm Bác, Viễn Phương xúc động nghẹn ngào:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Đời người hữu hạn, thời gian vô hạn. Sự ra đi của Người để lại muôn vàn tiếc thương cho dân tộc. Niềm thương nhớ ấy kết thành những “tràng hoa” dâng Người. “Bảy mươi chín mùa xuân” chính là bảy mươi chín năm Người sống và cống hiến cho dân tộc. Hồ Chí Minh chính là mùa xuân lớn của đất nước ta, cho những kiếp người lầm than trong xã hội.
Tác giả được nhìn ngắm Bác Hồ, có một niềm xúc động sâu sắc:
Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng trong dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bác vẫn nằm đây, giữa thủ đô đầy nắng, giữa hàng triệu trái tim của dân tộc đang hướng về Người. Nét "dịu hiền” trên khuôn mặt người chính là tượng trưng cho những gì cao đẹp, thanh khiết nhất của một cuộc đời. Dù nỗi đau còn đó, mất mát còn đó nhưng đất nước luôn nhớ đến người.
Có lẽ khổ thơ cuối cùng người đọc sẽ bần thần trước lời nguyện ước của Viễn Phương:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Những vẫn thơ chân chất, bình dị này khiến cho người đọc “trào nước mắt”. Giây phút tác giả sắp rời xa Người trở về với miền Nam là giây phút ngưng lại nhiều cảm xúc nhất. Điệp từ “muốn” dường như nhấn mạnh hơn nữa khát khao, ước vọng của tác giả được ở cạnh Bác Hồ. Những ước muốn bình dị, mộc mạc nhưng chan chứa tình cảm.
Thật vậy, bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương khiến người đọc không cầm được nước mắt vì tình cảm của một người con dành cho Bác. Qua đó thấy được vị trí của Bác Hồ trong lòng dân quan trọng như thế nào.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác 12
Bác Hồ ,vị lãnh tụ vĩ đại ,Người Cha già kính yêu của dân tộc. Bác ra đi để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn thể đồng bào đặc biệt là đồng bào miền Nam. Sinh thời Hồ Chủ Tịch luôn dành tình cảm đặc biệt cho khúc ruột miền Nam –thành đồng Tổ Quốc.
Bác đã từng nói rằng“Miền Nam luôn trong trái tim tôi”.Nhưng vì hoàn cảnh đất nước,Người chưa được một lần vào nơi đây thăm đồng bào và chiến sĩ. Hiểu được tấm lòng của vị Cha già, những người con Miền Nam cũng yêu thương và nhớ thương Người da diết. Để rồi khi hòa bình lập lại,non sông thu về một dải.
Tháng 4 /1976 ,đoàn người miền Nam ra thủ đô viếng thăm lăng Người. Trong dòng người thành kính vào lăng hôm đó, nhà thơ Viễn Phương một người con của vùng đất An Giang cũng chung những tâm trạng háo hức ,mong chờ,những xúc động khi được lần đầu tiên về lăng thăm Bác và ông đã viết bài thơ “Viếng lăng Bác “. Một bài thơ trào dâng tình cảm kính yêu của người con miền Nam đối với Bác Hồ.
Mở đầu bài thơ,ông viết:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi !Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
“Con ở miền Nam” câu thơ cất lên sao mà gần gũi,thân thương biết bao.Danh xưng “con “ nghe rất Nam Bộ. Vừa thể hiện sự thành kính với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc,lại vừa thể hiện sự thân thiết tình cảm đối với vị Cha già kính yêu .
”Ai yêu miền Nam như tấm lòng của Bác”,mối tình đó vừa thủy chung ,vừa son sắt và lớn lao. Ngay cả khi cuối đời nằm trên giường bệnh,câu hỏi đầu tiên khi Bác Hồ tỉnh giấc là hôm nay miền Nam như thế nào.Không có ngôn từ nào để diễn tả hết tình cảm Người dành cho đồng bào Nam bộ.
Trong trái tim Người luôn day dứt về miền Nam .Bác mong ngày đất nước thống nhất. Để việc đầu tiên Bác làm là thăm đồng bào nơi đây. Ước nguyện chưa thành nhưng Bác ơi nay đất nước đã thống nhất. Những người con từ tận miền Nam xa xôi hôm nay đây đã đến thăm Người.
Giữa khung cảnh bao la và rộng lớn của lăng Bác,nhìn từ xa trong màn sương sớm của buổi ban mai. Hình ảnh hàng tre đã hiện lên sừng sững và uy nghi. Tre từ lâu đã trở thành một biểu tượng của người dân Việt Nam .Hình ảnh ẩn dụ này thể hiện cho những phẩm chất cần cù,chịu khó, hiên ngang và bất khuất của con người
Dù trong bão táp mưa sa,tre vẫn hiên ngang cùng đất nước vượt qua bao nhiêu thăng trầm của những cuộc kháng chiến. Để giờ đây hòa bình lập lại ,tre lại trở về nhiệm vụ tỏa bóng mát ,che chở và canh giữ cho giấc ngủ của Bác Hồ. Những câu thơ tiếp theo,chúng ta cùng theo chân dòng người tiến vào lăng viếng Bác:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.”
Ngày ngày nơi quảng trưởng Ba Đình lịch sử mặt trời vẫn chiếu rọi trên lăng Bác uy nghi. Nhưng có một mặt trời còn cao cả và thiêng liêng hơn hết đó chính là Hồ Chủ tịch. Là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Mặt trời của tạo hóa là bất diệt là rực rỡ nhất thì mặt trời trong trái tim của nhân dân Việt Nam là vĩ đại và trường tồn tới muôn đời.
Hình ảnh của Người như mặt trời đỏ thắm,rực rỡ chiếu rọi lên dân tộc ta. Là mặt trời chân lý soi rọi lên bước đường chúng ta đi ,soi rọi lên con đường đi của dân tộc. Dân tộc ta ,nhân dân ta ,non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch – vị lãnh tụ kính yêu của cả dân tộc.Và chính Người đã là rạng rỡ dân tộc ta,nhân dân ta,non sông đất nước ta.
Chúng ta biết ơn Người sâu sắc, luôn học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người. Hình ảnh ẩn dụ được nhà thơ Viễn Phương sử dụng vô cùng sâu sắc, thể hiện sự quan sát tinh tế của ông .Trong dòng người nườm nượp vào lăng viếng Bác, ai cũng chung một tâm trạng nhớ thương và biết ơn vô hạn đối với Bác.
Để rồi họ cùng kết những tràng hoa dâng lên tưởng nhớ Người. Bảy chín mùa xuân ,bảy chín năm –một cuộc đời ý nghĩa và vĩ đại .Cả một cuộc đời ấy ,Bác chỉ một lòng lo cho nước cho dân ,chưa bao giờ suy nghĩ cho riêng mình. Là “ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ Quốc”,là “sữa để em thơ lụa tặng già”.
Tất cả những điều đó chính là sự yêu thương vô bờ bến Bác dành cho dân tộc ,trái tim Bác mênh mông và vô tận như chính những câu thơ của Tố Hữu đã từng viết về Người :
“Bác ơi! tim Bác mênh mông thế.
Ôm cả non sông mọi kiếp người”.
Thật xúc động và trào dâng cảm xúc ,khổ thơ tiếp theo nhà thơ dẫn chúng ta vào bên trong lăng để cùng nhìn tận mắt thi hài của Bác.Nhịp thơ bỗng sâu lắng:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Dẫu rằng trời xanh biết là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.”
Trong lòng mỗi người dân Việt Nam,Bác mãi mãi bất diệt. Nên hôm nay nhìn thấy thi hài Người, nhà thơ cảm nhận đó chỉ là Bác đang ngủ mà thôi. Hình ảnh “giấc ngủ ngàn thu yên bình đó” sao bỗng dưng làm chúng ta cay xè nơi khóe mắt. Phải chăng chúng con tin rằng Người đang ngủ,lặng lẽ và yên bình. Ngày ngày mặt trời vẫn đi qua, đêm đêm ánh trăng vẫn chiếu rọi dịu hiền và thanh mát.
Dẫu rằng Người vẫn luôn sống trong trái tim,khối óc của chúng ta nhưng nỗi xúc động vẫn trào dâng. Dẫu biết rằng trời xanh bao la trên kia là bất diệt. Mặt trời đỏ chói là trường tồn nhưng nỗi nhớ thương vô hạn về Người vẫn cuộn trào trong tim.
Bác đã đi xa thật rồi .Dù muốn hay không nhưng chúng ta cũng phải chấp nhận quy luật khắc nghiệt của tạo hóa. Tính từ “nhói” được sử dụng đắt giá và đặc biệt vô cùng .Nỗi đau đó đã lên đến tột cùng ,là nhức nhối tận sâu trái tim,khối óc. Đất nước đã hoàn toàn độc lập ,non sông thu về một dải, miền Nam không còn xa xôi ngăn sông cách biển như ngày trước nữa. Nhưng trong niềm vui hân hoan to lớn của dân tộc,chúng con lại thiếu vắng Người. Còn nỗi mát mát ,đau thương nào lớn hơn nữa.
Khổ thơ cuối bài ,như là lời chào tạm biệt của nhà thơ trước lúc về lại miền Nam:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Ngày mai chúng con phải về lại miền Nam xa xôi. Nghĩ tới đây thôi mà chân như chùn bước,nước mắt trào dâng. Tạm biệt Người ở lại với giấc ngủ ngàn thu mà bước chân của những người con miền Nam như nặng trĩu
Nếu được lựa chọn ,chúng con muốn làm những cánh chim bay lượn hót ca bên lăng của Người. Muốn làm những đóa hoa rực rỡ khoe sắc tỏa ngát hương thơm. Và muốn làm cây tre để được đời đời gắn bó bên lăng Bác,che chở cho Người có giấc ngủ bình yên.
Ở khổ thơ này việc sử dụng điệp ngữ “muốn làm” và những hình ảnh ẩn dụ,càng làm tăng thêm nỗi khát khao và lòng biết ơn vô hạn của tác giả đối với Bác Hồ.
“Viếng lăng Bác” một bài thơ đẹp ,nhẹ nhàng và sâu lắng.Thể hiện những tình cảm thành kính ,biết ơn với công lao như trời biển của Bác Hồ kính yêu. Là nỗi nhớ thương vô hạn của đồng bào miền Nam đối với vị lãnh tụ của dân tộc. Nhớ tới Người là làm theo những lời Người dạy bảo,lấy tấm gương đạo đức của Người làm kim chỉ nam cho hành động .Người sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác 13
“ Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha .”
Lời thơ của Tố Hữu vẫn còn vang động trong trái tim của nhân dân miền Nam. Nhà thơ Viễn Phương ra Hà Nội viếng lăng Bác, cảm xúc trào dâng trong lòng và ông đã sáng tác bài thơ “ Viếng lăng bác “ .
Đây là bài thơ đặc sắc nhất trong những bài viết về Bác ,diễn tả niềm kính yêu xót thương và biết ơn vô hạn của tác giả. Bài thơ được viết năm 1976, cuộc kháng chiến chống Mĩ vừa kết thúc, lăng chủ tịch vừa khánh thành , Viễn Phương ra thăm lăng Bác và bài thơ được sáng tác trong dịp đó, trích trong tập “ Như mây mùa xuân”Ngay từ câu mở đầu của khổ thơ một
“ Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác “
Ta đã cảm nhận được một không khí thật thương , gần gũi trong cách xưng hô với đại từ “ con – Bác”vừa biểu lộ sự ngưỡng mộ thành kính vừa tha thiết thương nhớ, gợi nên bao niềm háo hức chất chứa từ lâu, thể hiện tình cảm kính trọng của nhân dân miền Nam đối với Bác. Tác giả sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng” mong sao giảm nhẹ được nỗi đau thương, mất mát. Hình ảnh “hàng tre” xuất hiện tạo nên một ấn tượng khó quên :
“ Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi ! hàng tre xanh xanh Việt Nam .”
Hàng tre là hình ảnh hết sức thân thuộc của làng quê, của đất nước Việt Nam. Nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Tre gần gũi với người trong đấu tranh chống giặc và bảo vệ xây dựng đất nước.Từ cảm thán “ ôi”mang bao niềm cảm xúc tự hào bởi tre mang phẩm chất cao quý của con người Việt Nam “ ngay thẳng, bất khuất” dù trải qua bao “ bão táp , mưa sa”.
“ Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Biện pháp tu từ nhân hóa hàng tre “ đứng thẳng hàng” đã làm ta càng tự hào về dáng đứng của co người Việt Nam luôn kiên cường, bất khuất.
Trong khổ 2 của bài thơ Viếng lăng Bác, nhà thơ Viễn Phương đã tập trung thể hiện kính yêu và niềm thương xót khôn nguôi của tác giả cũng như hàng triệu con người Việt Nam trước sự ra đi của Bác
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.”
Trong nền của hàng tre ẩn hiện trong sương nhà thơ không quên tả hình ảnh của đoàn người Việt Nam ngưỡng mộ , thương tiếc Bác. Âm điệu bài thơ kéo ra với thời gian liên tục không dứt. Diễn tả sự tuần hoàn và trôi chảy của thời gian trong điệp từ “ ngày ngày”.Cảm xúc càng lúc càng trào dâng , tình cảm của nhà thơ của mọi người đối với Bác qua việc kết hợp hai hình ảnh thực và ẩn dụ đặc sắc đầy ý nghĩa.
Hình ảnh “mặt trời” đã được nhân hóa gợi tả sự rực rỡ của thiên nhiên, là nguồn sáng sưởi ấm cho nhân loại. Hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng” thể hiện sự tôn kính biết ơn của nhân dân đối với Bác. Bác Hồ cũng như một mặt trời , đem lại ánh sáng độc lập tự do cho dân tộc, xua tan bóng đêm nô lệ. Nói lên sự vĩ đại của Bác , sự cần thiết của Bác đối với cách mạng Việt Nam không khác nào trái đất cần đến ánh sáng mặt trời.
Màu sắc mặt trời đỏ lại càng khiến ta liên tưởng đến trái tim nhiệt huyết, chân thành , một trái tim thương nước, thương dân.
Công ơn của Người được nhân dân ngưỡng mộ tôn vinh . Nhà thơ tưởng tưởng đoàn người nối tiếp nhau liên tục bằng từ “ dòng người” kết thành tràng hoa để dâng lên Bác : “ kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”.Đây là một hình ảnh ẩn dụ đẹp đầy sáng tạo của nhà thơ từng đoàn người đi viếng , nhà thơ nhìn vào và liên tưởng đến một tràng hoa. Từ “ dâng” chứa đựng bao nhiêu tình nghĩa. “ Bảy mươi chín mùa xuân” là cách nói đẹp , rất thú vị cuộc đời Bác như những mùa xuân. Viễn Phương chọn từ khá tinh tế nên câu thơ mang giá trị biểu cảm và tính hình tượng cao.
Ở khổ thơ thứ ba tác giả thể hiện niềm xúc động tha thiết ,nghẹn ngào khi tác giả vào lăng viếng Bác.Vào trong lăng , khung cảnh và không khí trong lành yên tĩnh như làm ngưng đọng lại thời gian trong hai câu thơ tiếp theo:
“ Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Với sự liên tưởng phong phú , dưới ánh sáng của những ngọn đèn mờ ảo dịu nhẹ, với không gian yên tĩnh trang nghiêm trong lăng , nhà thơ tưởng tượng ánh sáng đang tỏa xung quanh như ánh sáng của “ vầng trăng” . Một thứ ánh sáng dịu hiền gợi ta nhớ đến tâm hồn cao đẹp, trong sáng của Bác. Lời thơ êm ái, nhẹ nhàng,giọng thơ gợi niềm xúc động chân thành.Tâ m trạng xúc động của Viễn Phương như được nhân lên bằng hình ảnh ẩn dụ sâu xa:
“ Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.”
Vẫn biết và tin rằng Bác vẫn còn sống mãi với non sông đất nước như trời xanh mãi mãi vĩnh hằng tồn tại. Người đã hóa thân thành thiên nhiên, đất nước vĩnh hằng nhưng trong tim vẫn đau nhói vì sự ra đi của NGười là sự mất mát quá to lớn của cách mạng, của dân tộc.
Khổ thơ cuối cùng chính là cảm xúc khi tác giả từ biệt lăng Bác ra về .
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt.
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác.
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây.
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Khổ thơ như một lời chào thành kính của người con với vị lãnh tụ kính yêu.Niềm xúc động của tác giả cũng là tình cảm tha thiết của nhân dân miền Nam trước sự ra đi vĩnh viễn của Bác. Cụm từ “ thương trào nước mắt” nghe sao quá xót xa và gợi tâm trạng lưu luyến, vương vấn của nhà thơ.Điệp từ “ muốn làm” được lặp lại thể hiện cảm xúc chân thành của tác giả.Biết rằng đến lúc phải về miền Nam và chỉ có thể gửi tấm lòng mình bằng cách ước muốn, hóa thân hòa nhập vào cảnh vật quanh lăng Bác.
Nhà thơ muốn nguyện ước hóa thành chim để cất tiếng hát vui vẻ, lạc quan. Muốn làm bông hoa để tỏa hương sắc cho đời. Muốn làm cây tre trung hiếu để nhập cùng hàng tre bát ngát bên lăng Bác. Hình ảnh hàng tre kết thúc bài thơ như để bổ sung trọn vẹn ý nghĩa cho bài thơ. Gợi lên phẩm chất con người Việt Nam trọn trung, trọn hiếu.
Cách lặp lại như vậy tạo cho bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng. Nhằm tô đậm thêm hình ảnh, gây ấn tượng mạnh và mạch cảm xúc cũng được trọn vẹn. Đây cũng chính là nét đặc sắc của bài thơ. Những cảm xúc thiêng liêng của nhà thơ về Bác. Những cảm xúc chân thành, tha thiết ấy nâng lên thành ước muốn sống đẹp. Những cảm xúc của nhà thơ về Bác cũng là cảm xúc của mỗi người dân miền Nam.
Với thể thơ tự do có bố cục tự nhiên, đơn giản Viễn Phương đã viết ra những vần thơ đầy cảm xúc. Ý thơ sâu lắng, bài thơ được phổ nhạc lưu truyền rộng rãi trong nhân dân.
Cả bài thơ chính là tiếng long của người con ra thăm lăng Bác. Bác Hồ vị cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc. Dù Bác đã ra đi về cõi vĩnh hằng nhưng Bác trong trái trim Viễn Phương và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác 14
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử thân yêu nhất của dân tộc Việt Nam thế kỉ XX. Người để lại hình ảnh một người Cha già hiền từ, một tên gọi Bác thân thiết, người hiện thân cho những gì cao đẹp và mạnh mẽ của dân tộc. Lăng Bác trở thành nơi lưu giữ bóng dáng Bác lúc sinh thời, nơi chiêm ngưỡng thành kính của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế.
Biết bao nhà thơ đã làm thơ về Người, về lăng Người. “Viếng lăng Bác" của Viễn Phương là một bài thơ ngắn đầy xúc động, thể hiện tấm lòng của đồng bào miền Nam đối với Người. Mở đầu bài thơ, tác giả tự giới thiệu: "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác". Lời thơ giản dị chứa đựng rất nhiều cảm xúc. Sinh thời, Người luôn nghĩ đến miền Nam. Nhà thơ Tố Hữu từng viết:
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong Cha (Bác ơi)
Lời bài thơ đúng là lời của người con miền Nam ra thăm lăng Bác, nơi yên nghỉ của người Cha già dân tộc. Tình cảm trong bài đúng là tình cảm của người con ở xa mà nỗi niềm nhớ thương ấp ủ bấy lâu như chỉ chờ gặp lại bóng dáng thân yêu là trào dâng, thổn thức. Từ xa, nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre quanh lăng, đã biết bao xúc động:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Nhà thơ hẳn phải đến rất sớm để xếp hàng vào viếng, khi sương sớm còn bao phủ quanh lăng. Theo con đường quanh quanh dẫn tới lăng nổi lên hàng tre bát ngát. Bát ngát của tre và bát ngát của sương. Nhà thơ bắt gặp một hình ảnh thân thuộc mà bao năm đã in hẳn tiềm thức: “hàng tre xanh xanh Việt Nam / Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Một tình cảm vừa thân quen, vừa thương xót và tự hào. Thân quen vì người Việt Nam nào mà không biết tre. Thương xót vì tre phải chịu đựng bão táp, mưa sa, và tự hào vì tre vẫn thẳng hàng, không nghiêng ngả. Từ sương sa mà liên tưởng đến bão táp, mưa sa cũng rất tự nhiên. Từ cây tre mà nghĩ đến Việt Nam, rồi sẽ nghĩ đến Bác cũng là tự nhiên, bởi từ lâu “cây tre”, ‘Việt Nam”, “Hồ Chí Minh” là những từ ngữ có mối liên hệ nội tại.
Khổ thứ hai nói tới cảm xúc trước cảnh đoàn người xếp hàng vào lăng. Hẳn là đoàn người rất dài, tốc độ đi rất chậm. Khổ thơ trên, cảnh vật đang còn sương phủ, bây giờ mặt trời đã lên cao trên đầu. Mặt trời trên lăng lại gợi lên một liên hệ mới:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ví Bác với mặt trời là hình ảnh đã quen, nhưng đem so sánh mặt trời trên lăng và mặt trời trong lăng là một sáng tạo mới xuất thần, thoát sáo, chưa hề có. Mặt trời “rất đỏ” làm nhớ đến trái tim, trái tim nhiệt huyết, chân thành, trái tim thương nước, thương dân. Ngắm nhìn dòng người vào viếng, nhà thơ lại nghĩ đến vòng hoa:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Tràng hoa là chuỗi hoa vòng kết thành tròn. Từng đoàn người đi viếng di chuyển từ phía sau lăng, qua bên lăng, vòng ra trước lăng rồi quay vào chính diện của lăng, đúng là tạo thành một vòng tròn, khiến nhà thơ nghĩ đến tràng hoa. Bởi vì con người là hoa của đất, những con người từng được Bác Hồ quan tâm.
Mọi người hình như không phải đến viếng một người đã từ trần, viếng một thi hài, mà là đến viếng một cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân đã hiến dâng bao nhiêu hoa trái. Ở đây tác giả không chỉ liên tưởng sâu sắc, mà còn dùng từ tinh tế, đầy tình cảm nâng niu, quý trọng.
Những chữ “ngày ngày” được lặp lại hai lần gây cảm giác một thời gian vô tận, vĩnh viễn, không bao giờ ngừng, như tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác.
Khổ thơ thứ ba nói về cảm xúc khi đã vào đến trong lăng. Đây là nơi ngự trị của cái im lặng trang nghiêm của sự yên nghỉ đời đời. Câu thơ đã viết rất đỗi chân thực và thơ mộng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Khung cảnh bình yên, lặng lẽ gợi lên giấc ngủ ban đêm, êm đềm dưới vầng trăng sáng dịu hiền. Nhà thơ một mặt không muốn cảm nhận đây là giấc ngủ vĩnh viễn, ngủ giữa ban ngày, nhưng mặt khác không thể không thấy một sự thật rằng con người đang nằm kia đã vĩnh viễn ra đi:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi.
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Dù biết Bác sống vĩnh viễn như trời xanh thì cũng không che giấu được một sự thật mất mát, làm đau nhói con tim. Câu thơ nghe như một tiếng khóc nghẹn ngào. Khổ thơ cuối cùng là cảm xúc trước khi ra về:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, nỗi thương xót làm trào rơi nước mắt. Không phải rưng rưng, rơm rớm, mà là trào, một cảm xúc mãnh liệt. Tình thương xót như nén giữa tâm hồn, làm nảy sinh bao ước muốn. Ước muốn làm con chim hót quanh lăng Bác, để lại chút vui tươi, nhí nhảnh bên một người đã hy sinh cả gia đình, tình riêng vì đất nước. Ước muốn làm đóa hoa tỏa hương quanh lăng, một làn hương như thực như hư “đâu đây”, thoang thoảng.
Ước muốn làm cây tre trung hiếu quanh lăng. Mọi ước muốn đều quy tụ vào một điểm là mong được gần Bác mãi mãi, hẳn là muốn làm vui, làm khuây, làm vợi nỗi lạnh lẽo của con người đã suốt đời hi sinh cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, giải phóng dân tộc, một con người lúc sinh thời đã dành trọn tình thương yêu cho mọi tầng lớp nhân dân và đặc biệt cho đồng bào miền Nam ruột thịt.
Bài thơ tả lại một ngày ra thăm lăng Bác, từ tinh sương đến trưa, đến chiều. Nhưng thời gian trong tưởng niệm là thời gian vĩnh viễn của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ bốn khổ, khổ nào cũng trào dâng một niềm thương nhớ bao la và xót thương vô hạn. Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm từ cõi hằng ngày lên cõi cao cả.
Tình cảm đối với Bác chỉ có thể là tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác 15
Thời gian có thể phủ bụi dường như tất cả nhưng có những chân giá trị, những con người càng rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp. Đã gần nửa thế kỉ trôi qua, Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ vĩ đại cống hiến và hy sinh cả cuộc đời mình cho quốc gia, dân tộc – vẫn chiếm trọn tình cảm của mỗi người con Việt Nam.
“Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị. Màu quê hương bền bỉ đậm đà. Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta…” (Tố Hữu). Và một lần nữa, ta lại không khỏi bồi hồi trước những dòng thơ trong bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ chính là tấm lòng “tủy cốt chung tình” nhất không chỉ của tác giả, mà còn của toàn thể đồng bào Việt.
Nhắc đến Viễn Phương, Mai Văn Tạo có lần từng nhận xét: “Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắc, cầu kỳ, kênh kiệu, khoa ngôn. Hình ảnh nào trong đời sống anh cũng tìm thấy chất thơ. Không đợi đến “Tiếng tù và trong sương đêm”, “Hoa lục bình trôi man mác tím, bông lau bát ngát nắng chiều” hay “Chòm xanh điên điển nhuộm vàng mặt nước”…
Một mái lá khô hanh trong rừng vắng anh cũng đưa vào đấy cái thực, cái hư, rất thơ mà thực, rất thực mà thơ” Quả thật như vậy, các sáng tác của Viễn Phương đã thể hiện rất rõ điều đó. Ông có rất nhiều thi phẩm hay nhưng nổi bật nhất phải kể đến Viếng lăng Bác.
Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” năm 1976 với những dòng cảm xúc chân thành, sâu sắc, niềm thành kính và biết ơn của nhà thơ cũng như toàn thể đồng bào miền Nam, của nhân dân toàn quốc dành cho người cha vĩ đại của dân tộc. Bởi lẽ đó, bài thơ cũng được coi như một nén tâm hương chân thành dâng lên Người. Trước hết có thể thấy hiện lên ở khổ thơ đầu là cảm xúc tự hào, niềm xúc động khi được đến thăm lăng Bác để thỏa nỗi lòng của thi nhân:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Câu thơ mở đầu thay cho một lời chào, một lời giới thiệu về hành trình của những đứa con từ miền Nam ra Hà Nội thăm Bác Hồ kính yêu. Cách xưng hô “con -Bác” của người Nam Bộ gợi đến những tình cảm rất thân thương và gần gũi. Nó cho thấy mối quan hệ giữa Bác và những đứa con tựa như tình cha con ruột thịt.
Tác giả như một đứa con lâu ngày mới có dịp về thăm vị cha già kính yêu. Với từ “thăm”- một cách nói giảm nói tránh, tác giả cố giấu đi, nén lại trong lòng cảm xúc đau thương mất mát không thể nào bù đắp được của cả dân tộc và cũng như để nói với tự lòng mình: Bác còn sống mãi với non sông đất nước, còn sống mãi “như trời đất của ta”, trong “từng ngọn lúa mỗi nhành hoa” (Tố Hữu).
Hình ảnh “hàng tre bát ngát” hiện ra trong sương mờ buổi sớm trên con đường đến thăm Bác, đó là hình ảnh tả thực, hình ảnh của quê hương thân thương, yên bình, gần gũi luôn ở bên Người. Một câu cảm thán tác giả sử dụng để bộc lộ cảm giác ngỡ ngàng về hình ảnh hàng tre:
"Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”.
Đó là hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp cho người dân Việt Nam, là biểu tượng cho dân tộc Việt Nam trải qua “bão táp mưa sa”- thành ngữ chỉ muôn vàn khó khăn gian khổ để rồi thi nhân như khẳng định chắc nịch rằng: mỗi cây trẻ như một con người Việt Nam bền bỉ, kiên trung, vững vàng nay trở về kính cẩn nghiêng mình trước anh linh của Bác. Ba hình ảnh đã tạo nên một trường liên tưởng độc đáo, thú vị: Lăng Bác hiện lên như một làng quê yên bình với những con người bình dị, gần gũi vô cùng.
Chầm chậm theo dòng người vào trong lăng, nơi Bác đang yên nghỉ, tâm hồn nhà thơ chứa chan lòng thành kính, biết ơn và ngưỡng mộ sâu sắc đối với Bác Hồ:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một Mặt Trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
“Mặt trời đi qua trên lăng” là mặt trời của vũ trụ, của thiên nhiên ngày ngày sưởi ấm Trái Đất, mang lại sự sống cho vạn vật muôn loài. Tác giả cũng nhận ra, trong lăng cũng có một “mặt trời”, một “mặt trời rất đỏ”. Đó cũng chính là hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp chỉ Bác Hồ kính yêu vì Bác như vầng mặt trời có công lao to lớn cho toàn thể dân tộc, dìu dắt ta từ chỗ lầm than đến ngày tự do huy hoàng.
Đồng thời phép ẩn dụ cũng như một cách thể hiện tấm lòng thành kính của chính tác giả với Bác Hồ. Cụm từ “ngày ngày” đã khẳng định quy luật bất biến của con người cũng như tự nhiên: nơi lăng Bác dòng người nối dài vô tận không ngừng nghỉ, lặng lẽ, kính cẩn, trang nghiêm để được vào lăng viếng Bác.
Dòng người ấy là tấm gương điển hình trên các mặt trận lao động, sản xuất, chiến đấu, đại diện cho gần 60 dân tộc anh em từ khắp nơi trên mọi miền Tổ quốc tụ họp lại đây. Họ kết thành hình ảnh một “tràng hoa”- hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa tượng trưng cho những gì tốt đẹp nhất, tinh túy nhất của thiên nhiên, của con người Việt Nam thành kính dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”.
Phép hoán dụ, cũng là cách nói trang trọng nhằm diễn đạt ý tứ sâu xa: bảy mươi chín tuổi đời của Bác là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp, một cuộc đời đẹp và tràn đầy ý nghĩa. Bác đã đem lại cho ta một mùa xuân vĩnh hằng, mùa xuân của độc lập tự do và hạnh phúc.Với những cảm xúc và suy nghĩ của riêng mình, lời thơ của Y Phương đã chạm vào trái tim của tất cả chúng ta khi nghĩ về Bác:
Vì sao trái đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên Người Hồ Chí Minh.
Mạch cảm xúc của tác giả tiếp tục với những dòng cảm xúc tiếc thương vô hạn, cho dù cố giấu đi những dòng cảm xúc ấy nhưng vẫn đủ sức lay động trái tim của hàng triệu người:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Vẫn là phép nói giảm, nói tránh “giấc ngủ bình yên”, tác giả như cố gắng muốn xua đi sự thật phũ phàng: Bác không còn nữa. Hai câu thơ như tái hiện trước mắt độc giả hình ảnh chân thực: Bác đang nằm trên kính, ánh đèn hồng chiếu xuống khiến cho gương mặt Bác trở nên hồng hào và sáng dịu hiền như vầng trăng.
“Trời xanh” và “ánh trăng” được nhắc đến vừa là hình ảnh thực, vừa có ý nghĩa ẩn dụ thể hiện sự bất diệt và trường tồn của thiên nhiên. Kết hợp với cặp quan hệ từ “vẫn biết – mà sao”, tác giả như muốn lấy quy luật của tự nhiên để khẳng định quy luật của con người, nhằm tự trấn an lòng mình: vẫn biết Bác luôn sống mãi trong lòng dân tộc nhưng sự thật phũ phàng rằng Bác đã ra đi mãi mãi khiến tác giả thấy “nghe nhói ở trong tim”.
Từ “nghe nhói” là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác một cách rõ nét nhất cảm giác đau đớn tột cùng của tác giả khi nghĩ sự thật rằng Bác không còn nữa. Đó là nỗi đau quá lớn khiến tác giả không giấu nổi nghẹn ngào. Có lẽ cũng bởi vậy mà mới nghĩ đến việc ngày mai phải xa Bác kính yêu, lòng tác giả và những đứa con miền Nam đã dâng niềm xúc động bồi hồi:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Lời thơ nghẹn ngào, nức nở, cảm xúc nhớ thương được bộc lộ một cách trực tiếp, “thương trào nước mắt” không chỉ là cảm xúc của Viễn Phương mà ông như đang nói hộ tấm lòng của muôn vàn những trái tim ấm nóng khác khi phải xa chốn thiêng liêng. Để rút ngắn khoảng cách không gian, nhà thơ đã bày tỏ niềm ước muốn chân thành, thiết tha, xúc động bằng một loạt các động từ “muốn làm” kết hợp với hình ảnh thiên nhiên đầy ẩn dụ tượng trưng: làm con chim để dâng tiếng hót lên lăng Bác, làm cây trẻ thành kính, tôn nghiêm như người lính canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người.
Đó không chỉ là hình ảnh tinh túy của thiên nhiên mà còn là hình ảnh kết tinh vẻ đẹp sức sống con người kính dâng lên Bác. Bình dị, khiêm nhường, không ồn ào khoa trương, ước nguyện của nhà thơ cũng là ước nguyện của chúng ta: Ai cũng muốn ở bên Bác, muốn làm điều gì đó dẫu là nhỏ bé cho Bác vui lòng.
Đặc biệt hơn cả là hình ảnh “cây tre trung hiếu” kết thúc bài thơ tạo ra kết cấu đầu cuối tương ứng. Đồng thời còn là hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ mang ý nghĩa khái quát, nhất là đặt trong hoàn cảnh đất nước ta lúc bấy giờ, câu thơ khẳng định tấm lòng chung thủy, sắt son với Đảng, với Bác Hồ của đồng bào miền Nam. Cứ thế, bước chân đi nhưng lòng còn níu lại. Cảm xúc của nhà thơ thật chân thành, xúc động đã chạm vào dây đồng cảm của tất cả chúng ta.
Cùng với tất cả những tác phẩm ca ngợi về hồ chủ tịch, bài thơ Viếng lăng Bác đã để lại dòng cảm xúc xót thương biết bao trong lòng người đọc suốt bốn mươi năm qua bởi thành công rực rỡ về cả nội dung lẫn nghệ thuật. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, đậm chất Nam Bộ, hình ảnh thơ chân thực gợi nhiều trường liên tưởng, tưởng tượng.
Trong đó, đặc sắc nhất là những biện pháp như: nói giảm, nói tránh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ… được tác giả sử dụng linh hoạt, hiệu quả cao về giá trị thẩm mỹ. Bài thơ bởi lẽ đó đã mang đến cho ta những cảm xúc sâu sắc về Bác Hồ kính yêu với những công lao vĩ đại mà Người đã cống hiến, hy sinh cho dân tộc.
Với ý nghĩa đó, bài thơ thực sự trở thành nén tâm hương thành kính của nhà thơ cũng như của nhân dân cả nước kính dâng lên Bác. Bên cạnh đó, Viễn Phương đã góp phần lớn của mình vào đề tài ca ngợi lãnh tụ. Một bài thơ hay, một cảm xúc chân thành, lắng đọng trong lòng người đọc.
Cùng với rất nhiều bài thơ ca ngợi Bác, Viếng lăng Bác của Viễn Phương mãi mãi là bài ca đi cùng năm tháng. Bài thơ đã thể hiện trong lòng ta những cảm xúc tự hào, biết ơn vô hạn với vị cha già vĩ đại của dân tộc.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác 16
Trong những bài thơ viết về Bác sau ngày Bác đi xa, “Viếng lăng Bác”của Viễn Phương là một bài thơ đặc sắc. Bài thơ diễn tả niềm kính yêu, sự xót xa và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với vị lãnh tụ bằng cảm xúc chân thành, thiết tha, sâu lắng.
Từ mảnh đất miền Nam mấy chục năm trời chiến đấu gian khổ, tác giả làm cuộc hành hương về đất Bắc. Lòng bồi hồi xúc động, anh tìm đến Ba Đình:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác.
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi!hàng tre xanh xanh Việt Nam.
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Đoạn thơ mở đầu thiêng liêng thành kính nhưng vẫn gợi một không khí ấm áp gần gũi không chỉ ở cách xưng hô “con” mà còn ở cách dùng từ mang ý nghĩa giảm nhẹ. Nhà thơ không nói ra “viếng” mà là ra “thăm”, như con về thăm cha, thăm nơi Bác nghỉ. Nỗi đau như cố giấu mà giọng thơ vẫn chan chứa ngậm ngùi. Hình ảnh đầu tiên gây ấn tượng đậm nét với tác giả là hình ảnh hàng tre trong sương sớm, trải dài, bát ngát một màu xanh, khiến cho lăng Bác trang nghiêm bỗng trở nên thân thuộc, gần gụi như xóm làng Việt Nam. Hình ảnh hàng tre “đứng thẳng hàng” trong “bão táp mưa sa” đã trở thành biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục của nhân dân Việt Nam. Hình ảnh đó như khúc dạo đầu mở ra một loạt những suy tưởng mênh mông, sâu lắng:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
“Mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ chỉ Bác Hồ, mặt trời thiên nhiên đem lại ánh sáng và sự sống.Còn mặt trời Bác cũng là ánh sáng soi đường đem lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no.Mặt trời Bác toả sáng, ấm áp, sóng đôi và trường tồn cùng mặt trời thiên nhiên là một sáng tạo riêng của tác giả. Cách nói vừa ca ngợi sự vĩ đại, bất tử của Bác vừa thể hiện sự tôn kính, ngưỡng mộ và lòng biết ơn vô hạn đối với Bác…Tất cả tình cảm đó dệt thành ý thơ tuyệt đẹp:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Điệp ngữ “ngày ngày ”và hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ ”vừa gợi ấn tượng về cõi trường sinh vĩnh viễn vừa gợi tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác. Tình cảm đó kết thành tràng hoa đẹp dâng lên 79 mùa xuân của Bác kính yêu. Nhịp thơ chậm rãi, dàn trải, cấu trúc câu và từ ngữ được lặp lại gợi liên tưởng đến những bước đi chầm chậm của dòng người vào lăng viếng Bác trong không khí thiêng liêng, thành kính và niềm cảm xúc thiết tha.
Đứng trước di hài Bác, bao tình cảm ấp ủ bấy lâu bỗng trào dâng thổn thức :
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
“Trời xanh”, “vầng trăng” là những hình ảnh kỳ vĩ của thiên nhiên gợi suy ngẫm về cái cao cả, vĩ đại, bất diệt, trường tồn. Bác vẫn còn mãi với non sông, người đã hoá thân vào thiên nhiên, đất nước. Sự nghiệp của người là bất tử.Dù tin như vậy nhưng trái tim vẫn nhói đau khi nghĩ rằng Bác không còn nữa. Nỗi đau được biểu hiện cụ thể, trực tiếp “mà sao nghe nhói ở trong tim!”. Đó là nỗi đau, là niềm thương vô hạn của đứa con về muộn bên di hài người cha yêu kính.
Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến lúc phải chia tay. Lòng nhớ thương, đau xót kìm nén đến giờ vỡ oà thành nước mắt:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Ước nguyện được hoá thân thành con chim, đoá hoa, cây tre để canh giữ, điểm tô cho nơi vị lãnh tụ kính yêu yên nghỉ. Hình ảnh cây tre lặp lại cuối bài tạo ấn tượng đậm nét thể hiện lòng kính yêu và lòng biết ơn vô hạn đối với Bác.Điệp ngữ “muốn làm”, cấu trúc câu được lặp lại tạo thành nốt nhạc dồn dập, tha thiết diễn tả tình cảm, khát vọng trào dâng mãnh liệt. Bài thơ tưởng khép lại trong sự xa cách về không gian nhưng lại tạo được sự gần gũi trong tình cảm, ý chí.Như vậy bước chân ra đi nhưng tấm lòng của người con miền Nam thì ở lại. Tiếng lòng đó, ước nguyện đó không chỉ là của riêng tác giả mà đã trở thành tiếng lòng chung của nhiều người.
“Viếng lăng Bác” là bài thơ giàu chất suy tưởng, chất trữ tình đằm thắm với cách sử dụng nhiều luyến láy ngôn ngữ, phong phú âm điệu khiến bài thơ mau chóng được đông đảo bạn đọc tiếp nhận.Chính vì vậy nó đã sớm được phổ nhạc và trở thành một bài ca sâu lắng, giàu sức truyền cảm và quen thuộc với mỗi người Việt Nam.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác 17
Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một tác phẩm như thế. Được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm chất trữ tình này đã ghi lại tình cảm sâu lăng, thành kính cảu nhà thơ khi hoà vào dòng người viếng lăng Bác. Bài thơ cũng là tiếng nói, là nỗi niềm tâm sự của nhận dân Nam bộ và nhân dân cả nước dành cho Bác.
Mở đầu bài thơ là cảm xúc của tác giả khi vừa bước chân vào lăng. Nhà thơ xưng “con” và gọi “Bác”; lời thơ giản dị, mộc mạc mà chát chức bao tình cảm gần gũi, thân thương, kính trọng chủ tịch Hồ Chí Minh của ông. Điều đó càng cho thấy Bác là một con nguời rất hoà đồng và gần gũi. Chính vậy nhà thơ Tố hữ có viết “Người là Cha, là Bác, là Anh”. Chi tiết thơ “Con ở miền Nam” còn mang một sắc thái đầy xúc độgn. Khúc ruột miền Nam là miền đất xa xôi mà Bác không nguôi ngóng chờ, cho đến những ngày trước luc lâm chung thì trái tim ngươờ vẫn luôn huớng về mìen Nam ruột thịt. Nơi đó có biết bao đồng bào ta đang ngày đêm chiến đấu và anh dũng hy sinh vì một nàgy mai nước nhà thống nhất. Nhưng…Bác đã không chờ được đến ngày đó. Người đã ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng để lại muôn vàn niềm thương tiếc cho nhân dân ta. Câu thơ đầu gọn như một lời thông báo nhưng lại chứa chan bao tình cảm xúc độgn, bồi hồi của tác giả đối với vị cha già kính yêu của dân tộc.
Và trong cái mênh mang sương mù của mọt ngày mùa thu Hà Nội, qua con mắt thi nhân của Viễn Phương, ta chợt tìm thấy một “hàng tre” Việt Nam. Đến với Bác, đến với hàng tre, ta như đến với quê hương làng mạc, đến với mái nhà tranh âm vang lời ru của bà, của mẹ; đén với Bác là đến với dân tộc mình, thế mới đẹp làm sao! Hình ảnh nhân hoá hàng tre “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” còn là biểu tượng bất diệt của con người VN kiên cường, bất khuất biền bỉ. Màu xanh của tre chính là màu xanh của sức sốg VN, màu xanh của hy vnọg, hạnh phúc và hoà bình. Đây quả là một tứ thơ độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàg”
Và nhà thơ phải kính yêu Bác lắm mới viết được những hình ảnh ẩn dụ tài tình này:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Cũng là “mặt trời” nhưng “mặt trời” ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của thiên nhiên vũ trụ, ngày ngày tỏ sáng, đem sự sống cho muôn loài, vạn vật, nó cũng có lúc quạnh quẽo, u ám. Còn “mặt trời” của nhận dân VN. “mặt trời” trong lăng thì vẫn luôn chiếu ánh sáng vĩnh hằng, đỏ mãi. Bác chính là vầng mặt trời hồng toả tia sáng soi rọi con đừơng giúp dân tộc ta thoát khỏi kiếp đời nô lệ, là sức mạnh giúp nhân dân ta chèo lái con thuyền cách mạng cập bến vinh quang, đi đến bờ thắng lợi. Dù rằng đã ra đi mãi mãi nhưng Bác vẫn luôn bất tử, tư tưởng HCM vẫn luôn trường tồn, soi đường dẫn lối cho dân tộc ta đứng lên.
Hoà nhịp với gần trăm triệu bàn chân VN, hàng triệu bàn chân lao độgn trên thế giới, Viễn Phương bùi ngùi xúc động bước vào lăng:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như nhưng trànghoa dâng lên người. “Bảy mươi chín” tràng hoa, ấy là bày mươi chín màu xuân, bày mươi chín năm cống hiến, hy sinh hết mình của Bác đối với dân tộc và nhân dân ta. Và quả thật, Bác chính là mùa xuân, và mùa xuân ấy đã làm cho cuộc đời người dân VN nở hoa. Điệp ngữ “ngày ngày” đứng mỗi ý thơ giữ vị trí “nhãn tự”, vừa thể hiện một qui luật trình tự của dòng người vào lăng viếng Bác, lại vừa thể hiện một qui luật tự nhiên của tạo hoá.
Đứng trước sự vĩ đại, to lớn của Bác, ta cũng vô thức bị dòng thơ cuốn và trong lăng lúc nào không hay:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vãn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Bác đang nằm đây, ngay trước mắt nhà thơ, hiền hậu, nhân từ như một vầng trăng “dịu hiền”, mát mẻ mà vãn trong sáng rạng ngời.Ta có cảm giác như Bác vẫn chưa đi xa, vẫn chưa rời khỏi thế gian này mà Người đang ngủ đấy thôi. Lí trí thì nói bác đang ngủ, nghĩa là Bác vẫn còn sống mãi với đất nước, với dân tộc ta như trời xanh còn mãi trên đầu. Mỗi ngày ngẩng đầu nhìn ta lại thấy trời xanh, lại thấy Bác. Bác không bao giờ mất, Bác sống mãi cùng dân tộc ta, trong mỗi cuộc đời, trong mỗi sự việc mà chúng ta làm vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội. Ta biết thế, ta nghĩ thế nhưng sao tim ta vẫn “đau nhói”, mắt ta vẫn trào dâng khi nhận ra rằng: Bác đã không còn nữa! Khổ thơ thứ hai và ba là một chuỗi các hình ảnh vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời xanh lồng vào nhau như để ca ngời tầm vóc lớn lao của Bác; đồng thời thể hiện lòng tôn kíh vô hạn của tác giả, của nhân dân đối với vị cha già kính yêu của dân tộc.
Bài thơ bắt đầu bằng sự kiện “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” và cũng kết thúc bằng chi tiết “Mai về miền Nam”. Đây là giờ phút sắp chia tay với Bác, tâm trạgn nhà thơ tràn đầy niềm cảm thương xen lẫn bùi ngùi, lưu luyến. Điều đó được thể hiện qua hình ảnh cuờng điệu: “Thương trào nước mắt” :
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Múon làm đóa hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Tình thương xót nén giữa tam hồn đã làm nảy sinh bao ước muốn: “muốn là con chin” để dâng lên tiếng hót vui, “muốn là đoá hoa” dâng hương thơm ngát, “muốn làm cây tre trung hiếu” canh gác chi giấc ngủ yên lành của Bác. Nhịp điệu khổ thơ lúc này dồn dập với điệp ngữ “muốn làm” nhắc lại đến ba lần và các hình ảnh liên tiếp xuất hiện như một dòng khát khao mãnh liệt của nhà thơ muốn được gần Bác mãi mãi.
Bằng tất cả tình cảm chan thành, Viễn Phương đã làm “Viếng lăng Bác” trở thành một bản tình ca bất tận để lại ấn tượgn sâu sắc cho bao người dân Việt Nam. Bài thơ hay không chỉ vì các nghệ thuật, kĩ sảo độc đáo mà quan trọgn hơn, đó là sự kết hợp nhuẫn nhị giữa cái “tâm” của một nguời con yêu nước và cái “tài” của người nghệ sĩ. Rất nhiều năm tháng đã đi qua nhưng mỗi thế hệ đọclại “Viếng lăng Bác” đều đón nhận vào tâm hồn mình một ánh sáng tư tưởng, tình cảm của nhà thơ và đồng thời cũng thấm nhuần vẻ đẹp trong suốt, lấp lánh toả ra từ chính cuộc đời, trí tuệ và trái tim Bác Hồ.
Những nét đặc sắc về nghệ thuật trong bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương 18
Bài thơ Viếng lăng Bác là một bài ca mà nghệ thuật biểu đạt đã đạt tới mức điêu luyện. Điều này thể hiện trong thể thơ, nhịp điệu, ngôn ngữ và hình ảnh thơ.
Về thể thơ và nhịp điệu:
Bài thơ có bốn khổ, mỗi khổ gồm bốn dòng thơ. Các dòng thơ thay đổi từ bảy đến chín từ. Các dòng thơ mang âm điệu ấm áp, tâm tình. Nhịp thơ chậm, biến đổi theo cảm xúc trữ tình vừa tha thiết vừa trang nghiêm. Đặc biệt trong khổ thơ cuối, dòng cảm xúc được đẩy tới mức cao nhất, tuôn trào mạnh mẽ nhất: “Mai về miền Nam, thương trào nước mắt”. Câu thơ trên như lời nói bình thường, không mang yếu tốnghệ thuật. Giọng thơ chân chất rất Nam Bộ của tác giả, vừa bộc trực chân thành mà cũng rất tình cảm. Tác giả đã thay mặt cho đồng bào miền Nam này tỏ niềm thương tiếc vô hạn đối với Người.
Ước nguyện của tác giả ở phần cuối bài cho thấy niềm yêu thương, sự dâng hiến của tác giả đối với Bác. Điệp từ muốn làm được sử dụng nhiều lần đã thể hiện nỗi xót xa, ân hận vô bờ của tác giả:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này..
Ngôn ngữ và hình ảnh thơ:
Bài thơ giàu hình ảnh sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng: hàng tre xanh xanh, mặt trời, vầng trăng, trời xanh… Ngôn ngữ chọn lọc và các hình ảnh kì vĩ, rộng lớn trên nối tiếp nhau xuất hiện khiến người đọc phải suy ngẫm. Suy ngẫm về cái bất diệt, cái vô cùng của vũ trụ đến cái bất diệt, cái vô cùng cao cả ở mỗi con người.
Những nét đặc sắc về nghệ thuật trong bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương 19
Bài thơ Viếng lăng Bác là dòng chảy tâm trạng tự nhiên của Viễn Phương khi viếng thăm lăng bác. Bởi thế, tác giả không hề chú ý dụng công nghệ thuật khi viết bài thơ này. Tuy nhiên, với cảm xúc mãnh liệt, niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, nhà thơ đã sáng tạo những hình ảnh thơ hết sức đặc sắc, giàu giá trị biểu cảm.
Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc đông thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn sâu sắc và niềm tự hào lớn lao pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác. Cảm hứng ấy đã chi phối giọng điệu của bài thơ. Đó là giọng thành kính, trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng ở lăng, nơi lãnh tụ Hồ Chí Minh yên nghỉ. Cùng với giọng suy tư. trầm lắng là nỗi đau xót lẫn niềm tự hào được bộc lộ vừa kín đáo vừa mãnh liệt.
Mạch cảm xúc đi theo trình tự của một cuộc vào lăng viếng Bác, từ khi đứng trước lăng đến khi bước vào lăng và trở ra về. Mở đầu là cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng, tập trung ở ấn tượng đậm nét về hàng tre bên lăng gợi hình ảnh quê hương đất nước:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát…”
Tiếp đó là cảm xúc trước hình ảnh dòng người như bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác. Xúc cảm và suy ngẫm về Bác được gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng: mặt trời, vầng trăng, trời xanh:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Khi đứng trước linh cữu của Bác, không gian tĩnh lặng, cảm xúc của nhà thơ cũng đi vào chiều sâu của nội tâm:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.”
Cuối cùng là niềm mong ước thiết tha khi sắp phải trở về quê hương miền Nam, muốn tấm lòng mình vẫn được mãi mãi ở lại bên lăng Bác. Mạch cảm xúc như trên đã tạp nên một bố cục khá đơn giản, tự nhiên và hợp lý của bài thơ:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Trước hết, bài thơ thành công là do cảm xúc chân thành, sâu sắc của tác giả. Những người con miền Nam không có mặt trong này Bác mất (1969), mãi bảy năm sau mới có dịp ra viếng Bác. Nguyên một điều đó thôi cũng làm cho tác giả xúc động mạnh mẽ. Khi vào lăng viếng Bác, lại thấy lăng Bác với “hàng tre trong sương bát ngát” thân thuộc như mọi làng quê Việt Nam.
Tình cảm của nhà thơ cũng là tình cảm của nhân dân miền Nam đối với Bác, tình cảm của cả nước đối với Bác, Người đã làm cho đất nước, cho dân tộc vẻ vang. Chính tình cảm đó cộng với những xúc động của nhà thơ là yếu tố cộng hưởng, làm cho nhà thơ thành công. Mặt khác, những hình ảnh bình dị giàu tính tượng trưng, lời thơ giản dị, chân thành làm cho bài thơ dễ đi vào lòng người.
Phép ẩn dụ độc đáo, so sánh Bác và mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ có tác dụng làm bừng sáng cảm xúc và cũng là sự tôn vinh, ngợi ca công ơn của Bác đối với dân tộc và đất nước:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Bác như mặt trời trong lòng dân tộc, vừa vĩ đại, bao la, vừa gần gũi, ấm áp. Ánh sáng lý tưởng của Bác sẽ mãi mãi soi đường cho mọi thế hệ mai sau đi tới. Cách so sánh ấy cũng nhằm khẳng định Bác mãi mãi trường tồn cùng với dân tộc và đất nước. Biến đau thương thành sức mạnh, nhà thơ tự nhắc mình phải sống xứng đáng với bác, với nhân dân, làm tốt hơn nữa nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Giọng thơ phù hợp với tình cảm, cảm xúc, giọng điệu vừa nghiêm trang, vừa sâu lắng, vừa đau xót thiết tha, xen lẫn niềm tự hào thể hiện đúng tâm trạng xúc động lúc vào lăng viếng Bác. Giọng điệu ấy tạp nên bởi nhiều yếu tố: ở thể thơ, nhịp thơ, từ ngữ, hình ảnh. Thể thơ 8 chữ, gieo vần linh hoạt, nhịp chậm, thể hiện sự nghiêm trang, thành kính. Khổ cuối nhịp nhanh hơn nhờ các điệp ngữ thể hiện mong muốn thiết tha của nhà thơ. Hình ảnh sáng tạo, vừa thực, vừa ảo, mang ý nghĩa ẩn dụ biểu tượng.
Bài thơ giàu chất suy tưởng và chất trữ tình đằm thắm, diễn tả niềm xúc độn thành kính. Cảm xúc của bài thơ được cộng hưởng với tình cảm thiêng liêng Bác dài cho nhân dân miền Nam và tình cảm của dân tộc đối với Người. Nhà thơ đã nói lên những tình cảm của chúng ta, của dân tộc gửi tới vị cha già kính yêu. Đó không phải là nỗi đau xót mềm yếu, trái lại cho ta thêm nghị lực đi tiếp con đường của Bác như lời thơ Tố Hữu đã nói:
“Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn”.
Những đặc sắc trong bài thơ Viếng Lăng Bác 20
Bác Hồ, Người là tình yêu thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại. Câu hát xúc động về Bác vẫn vang lên trong lòng chúng ta không khỏi khiến ta bùi ngùi, xúc động. Bác đã đi xa để lại cho dân tộc cả một niềm tiếc nhớ và kính yêu vô hạn. Đã biết bao nhà thơ khắc hoạ thành công tình cảm vô hạn của chúng ta dành cho Bác. Trong đó không thể không nhắc đến bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.
Bài thơ không chỉ là nén hương thơm Viễn Phương thành kính dâng lên Bác Hồ kính yêu mà còn là khúc tâm tình sâu nặng mà nhà thơ thay mặt đồng bào miền Nam gửi đến Bác trong những ngày đầu độc lập. Ấn tượng đầu tiên là cách xưng hô rất thân thuộc, gần gũi của người con Nam Bộ với Bác:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Hai tiếng con - Bác vang lên xoá nhòa khoảng cách giữa lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh với một người lao động cần lao. Nó trở thành mối quan hệ máu thịt giữa cha và con, đặc biệt đứa con ấy lại là đứa con của miền Nam xa cách. Viễn Phương ra thăm Bác là trở về bên người cha yêu dấu, tìm lại niềm hạnh phúc ấm lòng sau bao năm tháng cách xa. Vẻ đẹp đầu tiên nhà thơ nhận ra là hàng tre bát ngát, tượng trưng cho ý chí và sức mạnh quật cường của dân tộc. Niềm xúc động đã cất lên thành lời:
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Hàng tre quanh lăng Bác phải chăng là biểu tượng của cây cỏ mang màu sắc quê hương về đây hội tụ? Tre là một loài cây luôn vươn cao, đứng thẳng, hiên ngang trong bão táp mưa sa. Vì thế tre mang nhiều đặc điểm giống như đức tính của người Việt Nam ta: cần cù, chịu khó, hiên ngang, luôn hướng về cội nguồn. Hàng tre lăng Bác tượng trưng cho thế đứng vững vàng của toàn dân tộc. Giọng thơ bồi hồi tha thiết mà rạo rực, tự hào, kiêu hãnh.
Nét đặc sắc của bài thơ là nhà thơ đã vận dụng rất sáng tạo và đặc sắc nghệ thuật ẩn dụ, hoán dụ, tạo ra một loạt hình ảnh, hình tượng lớn lao, đẹp đẽ, sáng ngời:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Bác là mặt trời hay mặt trời là Bác? Có lẽ là cả hai. Người cùng như mặt trời vĩnh hằng và ấm áp. Người đem đến cho nhân loại tình yêu thương, lòng nhân ái và nền độc lập. Hình ảnh mặt trời làm sáng cả câu thơ. Bác là nguồn ánh sáng làm hồi sinh sự sống. Nhờ có Bác mà dân tộc Việt Nam đã rũ bùn đứng dậy sáng loà (Nguyễn Đình Thi), đất nước không còn cảnh:
Con đói lả ôm lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi
(Tố Hữu)
Người người biết ơn Bác, đời đời ngợi ca Bác bằng những lời ca, ý thơ đẹp đẽ:
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng.
(Tố Hữu)
Mặt trời lặn mặt trời mang theo nắng
Bác ra đi để ánh sáng cho đời.
(Phạm Tiến Duật)
Cảm động sao những tấm lòng thành kính. Những tấm lòng như tấm lòng của Viễn Phương:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ là một phát hiện rất mới, chứa đựng nhiều ý nghĩa và cảm xúc. Không gian nơi Bác nằm dường như là không gian của tình thương nỗi nhớ, không gian của tấm lòng thành kính, thiêng liêng. Và đây nữa, tràng hoa dâng Bác vừa là hình ảnh thực vừa mang nghĩa tượng trưng. Đó là tình đoàn kết, tương thân tương ái của nhân dân ta, giúp dân tộc đứng vững trong những cơn phong ba bão táp. Những người con hôm nay không chỉ dành cho vị cha già lòng biết ơn thành kính mà còn tự hào dâng lên Người những chiến công trong thời bình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mạch cảm xúc được phát triển theo từng bước đi của nhà thơ vào lăng viếng Bác. Nỗi xúc động đã thổn thức trong lòng người con từ khi hàng tre bên lăng còn xa xa, cho đến khi cùng dòng người bước tới rồi và nghẹn ngào khi được nhìn thấy Bác:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Với chúng ta Bác không bao giờ mất, Bác mãi trường tồn cùng sông núi. Bác nằm đó trong giấc ngủ bình yên, một giấc ngủ nhẹ nhàng, thanh thản. Một vẻ đẹp rất đỗi thanh cao đang toả sáng. Sự thanh cao đó phải chăng là một chân lí nhân cách của Người? Dù là trong thơ văn hay trong cuộc sống, giữa Bác và vầng trăng luôn có sự gặp gỡ, hoà hợp và đồng điệu.
Viễn Phương cũng như những người con khác ước mơ được ra thăm Bác dù chỉ một lần. Hôm nay nỗi mong mỏi đã trở thành hiện thực nhưng sao nhà thơ lại thấy nhói đau:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Dẫu biết rằng Bác sống mãi trong tâm hồn dân tộc, sự nghiệp cách mạng và con đường cứu nước sẽ mãi là kim chỉ nam cho mọi hành động của dân tộc nhưng nhà thơ không thể nào kìm nén cảm xúc. Sự rung động đến nhói trong tim là một tình cảm chân thành của nhà thơ đối với Bác.
Cố dồn nét niềm xúc động trong lòng nhưng nghĩ đến lúc phải rời xa dòng cảm xúc ấy vội trào ra, nức nở nghẹn ngào theo dòng nước mắt:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Giọng thơ bỗng trở nên gấp gáp, vội vàng thể hiện sự cuống quýt trong tâm tưởng người con nơi xa. Viễn Phương muốn làm tất cả những gì tốt đẹp nhất để dâng lên Người. Đó là ước nguyện được làm con chim nhỏ bé, ngày ngày bên Bác kính dâng lên những bản nhạc âm vang của tâm hồn - tiếng hót. Đó là ước nguyện được làm con chim nhỏ bé, ngày ngày bên Bác kính dâng lên những bản nhạc âm vang của tâm hồn - tiếng hót. Đó là ước nguyện làm đoá hoa bình dị lặng lẽ toả hương thơm ngát, tô điểm cho giấc ngủ của Người, vẫn chưa đủ, nhà thơ còn ước muốn là một cây tre trung hiếu gìn giữ và bảo vệ giấc ngủ bình yên nhẹ nhàng cho Bác. Điều đặc biệt là kết thúc đầu cuối tương ứng trong bài thơ. Hình ảnh cây tre mở đầu bài thơ và vẫn là hình ảnh cây tre ấy khép lại bài thơ tạo ra hình ảnh có giá trị đặc biệt. Phải chăng đằng sau bóng tre râm mát ấy là tấm lòng, là tâm hồn của cả dân tộc lặng lẽ và thành kính dâng lên Bác. Điệp ngữ muốn làm được sử dụng liên tiếp trong ba dòng thơ cuối cùng càng khẳng định ước muốn, sự tự nguyện của những con người muốn chăm lo cho giấc ngủ của Bác Hồ. Cũng có thể xem những điệp ngữ này là những nút nhấn cho thấy sự lưu luyến, bồi hồi, bối rối của nhà thơ. Làm sao có thể không xúc động khi trong lòng ta hình ảnh Bác Hồ vẫn luôn sáng soi rực rỡ và ấm nồng:
Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn ở bên Người một chút.
Bài thơ khép lại mà dư âm cảm xúc của nó còn trong tâm trí ta. Nhà thơ đã truyền cảm xúc vào lòng người đọc bao thế hệ với một ý nguyện chân thành. Chúng ta hôm nay được sống trong yên vui hoà bình, chúng ta cần phải ghi nhớ công lao to lớn của Bác và của nhân dân. Chúng ta hãy rèn luyện để xứng đáng với niềm tin của Bác, xứng đáng là một cây tre trung hiếu bên Bác.
Những đặc sắc trong bài thơ Viếng Lăng Bác 21
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người con ưu tú của dân tộc, vị lãnh tụ vĩ đạo của đất nước và là vị cha già hiền từ của mọi người dân Việt Nam. Với cái tên gọi "Bác" thân thương và gần gũi, Bác của chúng ta luôn là hiện thân của những điều cao đẹp nhất và mạnh mẽ nhất. Giờ đây tuy Bác đã đi xa chỉ còn lăng Bác là nơi thiêng liêng nhất lưu giữ bóng dáng Bác lúc sinh thời, là nơi chiêm ngưỡng và bày tỏ lòng thành kính của nhân dân cả nước. Nhà thơ Viễn Phương, một người con của miền đất Nam bộ khi được vinh dự ra thăm lăng Bác đã sáng tác bài "Viếng Lăng Bác". Một bài thơ đã thể hiện niềm cảm xúc dạt dào được dồn nén kết tinh không chỉ từ lòng thương nhớ Bác của riêng tác giả mà còn là cả sự tôn kính của những đồng bào miền Nam.
Đã có nhiều nhà thơ, nhà văn viết về Bác một cách rất đỗi nồng nàn và sâu lắng như Tố Hữu, Xuân Diệu… nhưng "Viếng Lăng Bác" của Viễn Phương lại gợi cho chúng ta niềm cảm xúc sâu xa nhất. Ngay từ khi mở đầu bài thơ, tác giả đã bộc lộ niềm xúc động dạt dào:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Tuy lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng nó lại chứa đựng, lời tâm tình ngọt ngào, tha thiết bao trùm lên cảm xúc của nhà thơ. Từ xưng hô "Con….Bác" là cách gọi thân thương của đồng bào miền Nam đối với Bác, nó thể hiện sự ngậm ngùi và lòng thành kính của tác giả. Đặc biệt, nó đã thể hiện tình cảm của người con ở xa với nỗi nhớ thương ấp ủ bấy lâu nay đang bắt đầu trào dâng, thổn thức khi ra thăm lăng Bác. Từ cảm xúc chủ đạo của câu thơ đầu, ta lại nhận thấy yếu tố thực và ảo trong những câu sau:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Tác giả đã khéo léo chọn hình ảnh cây tre làm cái nhìn đầu tiên khi thăm lăng Bác. Hình ảnh này đã quá thân thuộc và gần gũi với quê hương, đất nước, đã in sâu vào tiềm thức của tác giả. Đây là hình ảnh ẩn dụ gây ấn tượng mạnh, nó còn là biểu tượng của những đức tính cao quý hiện diện trong một dân tộc kiên cường bất khuất. Giống như những câu thơ của Nguyễn Duy:
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi!
Thêm vào đó, hình ảnh cây tre đã làm cho tác giả cảm thấy thương xót lẫn tự hào. Thương xót vì tre phải chịu đựng bão táp, mưa sa; tự hào vì tre vẫn thẳng hàng, không nghiêng ngửa. Đây là một sự liên tưởng độc đáo: Từ sương sa liên tưởng đến bão táp, mưa gió và tác giả đã chấp nối hình ảnh cây tre, Việt Nam và Hồ Chí Minh lại thành một. Ta thấy đặc sắc của khổ thơ này là mạch cảm xúc cứ trào dâng mãnh liệt theo từng cung bậc" , sắc thái khác nhau. Khi kể lể, lúc xao xuyến, trầm tư gợi nên một cảm xúc sâu lắng. Ở đây, tác giả đã sử dụng nhịp hai hoặc bốn với giọng điệu tha thiết khiến người đọc bị lôi cuốn mãnh liệt hơn.
Khổ thơ hai bao trùm lên là không khí thực và ảo, với nhiều hình ảnh ẩn dụ và tượng trưng, liên tưởng sâu sắc, rộng rãi:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
"Mặt trời trên lăng" là hình ảnh thực – là mặt trời của trái đất, là nguồn sáng rực rỡ và vĩnh hằng nhất thế gian. "Mặt trời trong lăng rất đỏ" làm ta nhớ đến trái tim nhiệt huyết, chân thành, yêu nước thương dân của Bác. Tác giả đã so sánh cái trường tồn, vĩnh hằng của mặt trời với cái vĩ đại, sự bất diệt của Bác, đó quả là một sự so sánh độc đáo, giàu sáng tạo, xuất thần, thoát sáo chưa hề có. Cùng với hình ảnh ẩn dụ "mặt trời trong lăng" là hình ảnh của "tràng hoa" khiến người đọc phải hình dung là chính mình đang hòa vào dòng người thương nhớ Bác để tô thắm thêm những mùa xuân tuyệt vời Bác đã trọn hiến dâng cho đất nước:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Dường như không phải mọi người đến viếng một thi hài mà là đến thăm một cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân đã hoàn toàn hy sinh cho nước cho dân. Hình ảnh ẩn dụ "tràng hoa" là sự so sánh dòng người xếp hang vào thăm lăng Bác, nhưng tràng hoa dài bất tận. Đây thật sự là một so sánh hết sức sinh động, tự nhiên và thuần nhuyễn. Điều này còn được thể hiện qua điệp từ "ngày ngày" được lặp lại hai lần diễn tả một thời gian hầu như là vĩnh cửu, dài vô tận, nó cũng là tượng trưng cho nỗi lòng khôn nguôi nhớ Bác của đồng bào miền Nam.
Khổ thứ ba là cảm xúc trào dâng mãnh liệt, diễn tả cảm xúc khi bước vào nơi ngự trị của sự im lặng, trang nghiêm, của sự yên nghỉ đời đời. Những câu thơ mới chân thực và mơ mộng biết bao!
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.
Với các hình ảnh ẩn dụ độc đáo, tác giả đã bộc lộ cảm xúc dạt dào của mình và tình cảm thân thương, gần gũi đối với Bác. Cuộc đời của Bác như "mặt trời", giấc ngủ của Bác như "vầng trăng"-"vầng trăng" mang ánh sáng dịu nhẹ soi đường chỉ lối cho đất nước tiến đến một tương lai tốt đẹp hơn. Dẫu rằng Bác đã trở nên bất tử, đã hòa nhập vào thiên nhiên cao rộng, vĩnh hằng nhưng vẫn không che giấu được sự thương xót, nuối tiếc từ một sự thật hết sức đau lòng là Bác đã ra đi vĩnh viễn:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Hình ảnh "trời xanh" cũng càng khẳng định rằng Bác thật sự đã ra đi mãi mãi. Lời thơ dẫn dắt người đọc vào thực tế ấy như mũi kim đâm "nhói" vào tim, gợi sự đau lòng, nuối tiếc và nỗi xót xa trào dâng mãnh liệt trong lòng tác giả, câu thơ như một tiếng khóc nghẹn ngào. Sự mâu thuẫn ấy đã góp phần tạo nên kịch tính cho cả bài thơ, làm cho bài thơ đầy cảm xúc và cũng tràn đầy nước mắt. Nhưng hình ảnh ẩn dụ sáng tạo, độc đáo như "vầng trăng", "trời xanh" cũng tạo nên cái hay và đặc sắc của bài thơ.
Khổ cuối cùng vẫn liền mạch cảm xúc dạt dào của những khổ trước cộng thêm sự luyến tiếc đang trào dâng trong tim tác giả. Tuy vẫn còn đứng bên Bác, nhà thơ đã bịn rịn nhớ đến phút sắp chia xa:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Không phải rưng rưng, rơm rớm mà là "trào", chứng tỏ một cảm xúc, tình yêu thương mãnh liệt đối với Bác mới thiết tha, sâu lắng làm sao. Ở đây, tác giả không sử dụng một biện pháp nghệ thuật tu từ gì cả, nó xuất phát từ tận đáy lòng của tác giả nhưng vẫn khiến chúng ta xúc động với những câu thơ vô cùng giản dị ấy. Nỗi đau như dồn nén giữa tâm hồn làm nảy sinh bao ước muốn: Muốn làm con chim hót quanh lăng để chúng vui tươi, nhí nhảnh; muốn làm đóa hoa tỏa làn hương như thực, như hư; muốn làm cây tre bầu bạn với Bác mỗi ngày, canh từng giấc ngủ cho Bác. Tất cả những ước muốn ấy chắc hẳn cùng chung một mục đích là muốn làm vơi nổi vắng vẻ, yên ắng trong lặng. Điệp từ "muốn làm" lặp đi lặp lại ba lần chẳng những thể hiện được ước nguyện của tác giả, mong ước chung của đồng bào miền Nam mà còn tạo nên một nghệ thuật đặc sắc cho bài thơ. Ở đây, hình ảnh cây tre lại xuất hiện khép lại bài thơ một cách khéo léo nhưng vẫn rất tự nhiên, không gò bó.
"Viếng lăng Bác" của Viễn Phương là bài thơ giàu hình ảnh, giàu chất suy tưởng và lãng mạn trữ tình. Trong bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ấp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã thể hiện lòng thành kính đối với Bác và nâng cao tâm hồn của nhà thơ. Hơn nữa, bằng sự luyến láy từ ngữ, âm điệu phong phú, lời thơ mộc mạc và giản dị đã làm cho bài thơ tràn đầy cảm xúc một cách sâu lắng. Chính vì vậy, bài thơ đã sớm được phổ nhạc và trở thành bài hát hết sức truyền cảm, giọng điệu êm ái, nhẹ nhàng, trở nên quen thuộc đối với tất cả chúng ta.
Những đặc sắc trong bài thơ Viếng Lăng Bác 22
Bác Hồ là nguồn cảm hứng vĩ đại cho các nhà thơ nhà văn. Cuộc đời của Người chính là bản thiên hùng ca vô cùng tha thiết về nhân cách cũng như tinh thần yêu nước bất diệt. Đã có biết bao nhiêu nhà thơ khắc họa thành công hình tượng của Bác trong đó không thể bỏ qua bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương.
Viếng lăng Bác không chỉ đơn giản là nén hương thơm mà đứa con từ miền Nam xa xôi dâng lên Bác Hồ kính yêu mà nó còn là khúc tình ca sâu đậm mà đồng bào miền Nam nói chung gửi đến Người – vị cha già vĩ đại của dân tộc. Mở đầu bài thơ nhà thơ gây ấn tượng mạnh bởi cách xưng hô vô cùng ngọt ngào gần gũi:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Tiếng xưng hô thân thương trìu mến gọi Bác xưng con đã xóa tan cái khoảng cách xa xôi giữa vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc với người dân lao động cần lao. Nó đã trở thành mối quan hệ vô cùng thân thiết và khăng khít như máu thịt giữa con người với con người. Bài thơ được sáng tác vào những năm đầu của độc lập, nên đây có thể được coi là một cuộc hành hương tìm về cội nguồn của người con miền Nam ra thăm người cha yêu dấu sau bao nhiêu năm đằng đẵng xa cách. Hàng tre chính là hình ảnh thân quen hiện lên trong trí óc nhà thơ:
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Hàng tre chính là biểu tượng của cây cỏ mang màu sắc của một vùng quê hương bản xứ. Nói đến loài tre là nhắc đến một trong những loài cây thân mọc thẳng, hiên ngang dù có phải hứng chịu bao nhiêu sự va đập của thiên nhiên. Vì thế nói đến hàng tre còn ẩn dụ một hình ảnh đó chính là đức tính quý báu của người dân Việt Nam: cần cù, chịu khó và hiên ngang. Hàng tre đứng bên lăng Bác là vẻ đẹp đại diện cho khí phách cả một dân tộc. Giọng thơ ở đây nghe rất hào sảng và đầy kiêu hãnh tự hào.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Cái hay ở đây đó chính là việc nhà thơ đã sử dụng rất nhuần nhuyễn và hiệu quả các biện pháp ẩn dụ hoán dụ độc đáo. Nó tạo nên một hình ảnh có sức gợi cảm gợi tả mãnh liệt.
MẶt trời ở trong lăng ở đây chính là Bác Hồ - vị cha già kính yêu của người dân Việt Nam nhiều thế hệ. So sánh mặt trời thiên nhiên với Bác quả là không sai. Nếu như mặt trời thiên nhiên mang đến cho con người vạn vật sự sống đâm chồi kết trái thì Bác chính là hy vọng chính là người đưa đường dẫn lối cho các con vượt qua hết phong ba bão tố của con đường cách mạng. Để muôn dân tìm lại được tự do sau những ngày gông cùm xiềng xích.
Đến đây ta chợt nhớ đến hai câu thơ nhà thơ Tố Hữu viết về Bác như sau:
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng.
Người con tiếp tục tỏ lòng thành kính đối với Người:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ được xem là một phát hiện vô cùng vĩ đại của nhà thơ. Đó không chỉ là không gian nơi Bác nằm mà nó còn là không gian của lòng xót thương, sự thành kính và biết ơn sâu sắc. Tràng hoa dâng bác ở đây chính là hình ảnh tương thân tương ai là tấm lòng các con ở xa gửi ra viếng người.
Mạch cảm xúc như vỡ òa theo từng bước chân của con khi đến gần người cha mình hằng yêu quý. Để rồi nghẹn ngào trở thành một thứ cảm xúc trực trào tận sâu trong tâm khảm:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Người nằm trong lăng với một giấc ngủ vô cùng bình yên. Đến lúc này đứa con vẫn không thể tin là Người đã rời xa chúng con. Với con Người chỉ đang ngủ một giấc ngủ dài mà thôi. Người còn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của quần chúng, sống mãi trong tâm trí của những con dân Việt Nam. Ánh trăng và Người ở đây có một sự giao hòa đồng điệu. Ánh trăng tượng trưng cho sự thanh cao, hiền hòa và bao dung cũng giống với Bác. Một nhân cách cao cả, thanh tao cả đời chỉ biết hy sinh thân mình cho độc lập dân tộc cho chủ nghĩa xã hội muôn năm.
Dẫu biết là thế nhưng tại sao con vẫn không thể kìm nén được cảm xúc của chính mình? Vẫn thấy nhói ở trong tim? Sự rung động đến nhói tim là một thứ tình cảm vô cùng thiết tha chân thành của tác giả dành cho Bác.
Cảm xúc ấy chợt như vỡ òa khi nghĩ đến giây phút phải chia xa Người:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Ở đây ta bỗng thấy có sự chuyển biến rất lớn trong nhịp thơ của tác giả. Nó mang nét gì đó vừa vội vàng lại vừa gấp gáp cuống quýt đúng với tâm trạng của những người con chuẩn bị đi xa quê hương. Lúc này mong ước của tác giả bỗng trở nên bình dị hơn bao giờ hết chỉ đơn giản muốn trở thành con chim để cất tiếng hót quanh năm, ngày ngày được ở bên Người dâng lên những thứ âm thanh trong trẻo nhất. Là mong muốn được làm đóa hoa để tỏa hương tô điểm cho giấc ngủ của Người. Thế nhưng vẫn chưa đủ nhà thơ còn mong muốn khát khao được làm cây tre để đời đời canh giấc ngủ cho Bác. Ở đây ta bắt gặp lại hình ảnh cây tre đã được nhắc đến ở đầu bài. Sự kết nối vòng tròn đã tạo nên một ấn tượng đặc biệt đối với người đọc người nghe. Điệp ngữ “muốn làm” được lặp đi lặp lại và nhấn mạnh trong từng câu chữ càng khiến con người thêm rung động. Đó là mong muốn khát khao tột bậc, sự tự nguyện thiết tha từ trong tâm hồn nhà thơ.
Bài thơ khép lại thế nhưng những cảm xúc của nó vẫn còn in đậm trong tâm trí mỗi người. Chính Viễn Phương đã truyền cho chúng ta biết bao nhiêu tình cảm chân thành và thân thương nhất. Để cho con cháu mai sau biết được, để có được cuộc sống hòa bình như hôm nay đó là nhờ công lao vô cùng to lớn của Bác của những thế hệ cha anh đã ngã xuống. Vì thế hãy sống sao để thật xứng đáng với niềm tin và sự kỳ vọng của Người.
Những đặc sắc trong bài thơ Viếng Lăng Bác 23
Bác Hồ, Người là tình yêu thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại. Câu hát xúc động về Bác vẫn vang lên trong lòng chúng ta không khỏi khiến ta bùi ngùi, xúc động. Bác đã đi xa đểlại cho dân tộc cả một niềm tiếc nhớ và kính yêu vô hạn. Đã biết bao nhà thơ khắc hoạthành công tình cảm vô hạn của chúng ta dành cho Bác. Trong đó không thểkhông nhắc đến bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.Bài thơ không chỉlà nén hương thơm Viễn Phương thành kính dâng lên Bác Hồkính yêu mà còn là khúc tâm tình sâu nặng mà nhà thơ thay mặt đồng bào miền Nam gửi đến Bác trong những ngày đầu độc lập. Ấn tượng đầu tiên là cách xưng hô rất thân thuộc, gần gũi của người con Nam Bộvới Bác:Con ởmiền Nam ra thăm lăng BácĐã thấy trong sương hàng tre bát ngátHai tiếng con -Bác vang lên xoá nhoà khoảng cách giữa lãnh tụvĩ đại HồChí Minh với một người lao động cần lao. Nó trởthành mối quan hệmáu thịt giữa cha và con, đặc biệt đứa con ấy lại là đứa con của miền Nam xa cách. Viễn Phương ra thăm Bác là trởvềbên người cha yêu dấu, tìm lại niềm hạnh phúc ấm lòng sau bao năm tháng cách xa. Vẻđẹp đầu tiên nhà thơ nhận ra là hàng tre bát ngát, tượng trưng cho ý chí và sức mạnh quật cường của dân tộc. Niềm xúc động đã cất lên thành lời:Ôi! Hàng tre xanh xanh ViệtNam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.Hàng tre quanh lăng Bác phải chăng là biểu tượng của cây cỏmang màu sắc quê hương vềđây hội tụ? Tre là một loài cây luôn vươn cao, đứng thẳng, hiên ngang trong bão táp mưa sa. Vì thếtre mang nhiều đặc điểm giống như đức tính của người Việt Nam ta: cần cù, chịu khó, hiên ngang, luôn hướng vềcội nguồn. Hàng tre lăng Bác tượng trưng cho thếđứng vững vàng của toàn dân tộc. Giọng thơ bồi hồi tha thiết mà rạo rực, tựhào, kiêu hãnh.Nét đặc sắc của bài thơ là nhà thơ đã vận dụng rất sáng tạo và đặc sắc nghệthuật ẩn dụ, hoán dụ, tạo ra một loạt hình ảnh, hình tượng lớn lao, đẹp đẽ, sáng ngời:Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăngThấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.Bác là mặt trời hay mặt trời là Bác? Có lẽlà cảhai. Ngườicùng như mặt trời vĩnh hằng và ấm áp. Người đem đến cho nhân loại tình yêu thương, lòng nhân ái và nền độc lập. Hình ảnh mặt trời làm sáng cảcâu thơ. Bác là nguồn ánh sáng làm hồi sinh sựsống. Nhờcó Bác mà dân tộc Việt Nam đã rũ bùn đứng dậy sáng loà (Nguyễn Đình Thi), đất nước không còn cảnh:Con đói lảôm lưng mẹkhócMẹđợcon đấu thóc cầm hơi(TốHữu)Người người biết ơn Bác, đời đời ngợi ca Bác bằng những lời ca, ý thơ đẹp đẽ:Người rực rỡmột mặt trời cách mạngCòn đếquốc là loài dơi hốt hoảng.
(TốHữu)Mặt trời lặn mặt trời mang theo nắngBác ra đi đểánh sáng cho đời.(Phạm Tiến Duật)Cảm động sao những tấm lòng thành kính. Những tấm lòng như tấm lòng của Viễn Phương:Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớKết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...Hình ảnh dòng người đi trong thương nhớlà một phát hiện rất mới, chứa đựng nhiều ý nghĩa và cảm xúc. Không gian nơi Bác nằm dường như là không gian của tình thương nỗi nhớ, không gian của tấm lòng thành kính, thiêng liêng. Và đây nữa, tràng hoa dâng Bác vừa là hình ảnh thực vừa mang nghĩa tượng trưng. Đó là tình đoàn kết, tương thân tương ái của nhân dân ta, giúp dân tộc đứng vững trong những cơn phong ba bão táp. Những người con hôm nay không chỉdành cho vịcha già lòng biết ơn thành kính mà còn tựhào dâng lên Người những chiến công trong thời bình xây dựng chủnghĩa xã hội.Mạch cảm xúc được phát triển theo từng bước đi của nhà thơ vào lăng viếng Bác. Nỗi xúc động đã thổn thức trong lòng người con từkhi hàng tre bên lăng còn xa xa, cho đến khi cùng dòng người bước tới rồi và nghẹn ngào khi được nhìn thấy Bác:Bác nằm trong giấc ngủbình yênGiữa một vầng trăng sáng dịu hiềnVới chúng ta Bác không bao giờmất, Bác mãi trường tồn cùng sông núi. Bác nằm đó trong giấc ngủbình yên, mộtgiấc ngủnhẹnhàng, thanh thản. Một vẻđẹp rất đỗi thanh
cao đang toảsáng. Sựthanh cao đó phải chăng là một chân lí nhân cách của Người? Dù là trong thơ văn hay trong cuộc sống, giữa Bác và vầng trăng luôn có sựgặp gỡ, hoà hợp và đồng điệu.Viễn Phươngcũng như những người con khác ước mơ được ra thăm Bác dù chỉmột lần. Hôm nay nỗi mong mỏi đã trởthành hiện thực nhưng sao nhà thơ lại thấy nhói đau:Vẫn biết trời xanh là mãi mãiMà sao nghe nhói ởtrong tim!Dẫu biết rằng Bác sống mãi trong tâm hồn dân tộc, sựnghiệp cách mạng và con đường cứu nước sẽmãi là kim chỉnam cho mọi hành động của dân tộc nhưng nhà thơ không thểnào kìm nén cảm xúc. Sựrung động đến nhói trong tim là một tình cảm chân thành của nhà thơ đối với Bác.Cốdồn nét niềm xúc động trong lòng nhưng nghĩ đến lúc phải rời xa dòng cảm xúc ấy vội trào ra, nức nởnghẹn ngào theo dòng nước mắt:Mai vềmiền Nam thương trào nước mắtMuốn làm con chim hót quanh lăng BácMuốn làm đoá hoa toảhương đâu đâyMuốn làm cây tre trung hiếu chốn này.Giọng thơ bỗng trởnên gấp gáp, vội vàng thểhiện sựcuống quýt trong tâm tưởng người con nơi xa. Viễn Phương muốn làm tất cảnhững gì tốt đẹp nhất đểdâng lên Người. Đó là ước nguyện được làm con chim nhỏbé, ngày ngày bên Bác kính dâng lên những bản nhạc âm vang của tâm hồn -tiếng hót. Đó là ước nguyện được làm con chim nhỏbé, ngày ngày bên Bác kính dâng lên những bản nhạc âm vang của tâm hồn -tiếng hót. Đó là
ước nguyện làm đoá hoa bình dịlặng lẽtoảhươngthơm ngát, tô điểm cho giấc ngủcủa Người, vẫn chưa đủ, nhà thơ còn ước muốn là một cây tre trung hiếu gìn giữvà bảo vệgiấc ngủbình yên nhẹnhàng cho Bác. Điều đặc biệt là kết thúc đầu cuối tương ứng trong bài thơ. Hình ảnh cây tre mởđầu bài thơ và vẫn là hình ảnh cây tre ấy khép lại bài thơ tạo ra hình ảnh có giá trịđặc biệt. Phải chăng đằng sau bóng tre râm mát ấy là tấm lòng, là tâm hồn của cảdân tộc lặng lẽvà thành kính dâng lên Bác. Điệp ngữmuốn làm được sửdụng liên tiếp trong ba dòng thơ cuối cùng càng khẳng định ước muốn, sựtựnguyện của những con người muốn chăm lo cho giấc ngủcủa Bác Hồ. Cũng có thểxem những điệp ngữnày là những nút nhấn cho thấy sựlưu luyến, bồi hồi, bối rối của nhà thơ. Làm sao có thểkhông xúc động khi trong lòng ta hình ảnh Bác Hồvẫn luôn sáng soi rực rỡvà ấm nồng:Ta bên Người, Người tỏa sáng trong taTa bỗng lớn ởbên Người một chút.Bài thơ khép lại mà dư âm cảm xúc của nó còn trong tâm trí ta. Nhà thơ đã truyền cảm xúc vào lòng người đọc bao thếhệvới một ý nguyện chân thành. Chúng ta hôm nay được sống trong yên vui hoà bình, chúng ta cần phải ghi nhớcông lao to lớn của Bác và của nhân dân. Chúng ta hãy rèn luyện đểxứng đáng với niềm tin của Bác, xứng đáng là một cây tre trung hiếu bên Bác.
Những đặc sắc trong bài thơ Viếng Lăng Bác 24
Bài thơ là khúc nhạc lòng mà nhà thơ Viễn Phương đã đại diện nhân dân miền Nam gửi đến Bác. Để hiểu rõ hơn về tác phẩm cùng chúng tôi nêu những đặc sắc trong bài thơ Viếng lăng bác của nhà văn Viễn Phương nhé!
I. Tóm tắt tác phẩm
Có lẽ không bao giờ và mãi mãi, nhân dân miền Nam mất đi niềm tự hào, kiêu hãnh về mảnh đất mang tên Hồ Chí Minh mà mình đang gắn bó. Dẫu biết bao thế hệ chúng tôi không diễm phúc được một lần gặp Bác, nhưng hình ảnh Người vẫn lồng lộng trong tim và nhớ câu nói: Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi” của Bác. Nhà thơ Viễn Phương đã cùng linh hồn chúng tôi gửi trọn cả trái tim miền Nam đến với “vị cha già của dân tộc” qua bài thơ “Viếng lăng Bác” dạt dào cảm xúc. Đọc câu thơ, ta như “say” trong hào quang rực rỡ của hai ánh mặt trời. Hình tượng mặt trời của Bác được Viễn Phương liên tưởng thật sáng tạo và độc đáo qua nghệ thuật ẩn dụ. Con người cảm nhận được sự vĩ đại của Bác trong lúc còn sống cho đến lúc mất đi vẫn rạng ngời thắm sắc. Riêng mặt trời thực dù có mang lại ánh sáng và sự sống cho nhân loại nhưng vẫn chưa có ai tận mắt thấy được màu sắc của nó. Ý thơ ngộ nghĩnh mà độc đáo! Điệp từ “ngày ngày” trong bốn câu thơ vừa thể hiện một quy luật tự nhiên của tạo hóa vừa là quy luật của tình cảm của dòng người nối nhau viếng lăng Bác. Bác đã đi xa nhưng tác giả vẫn cảm thấy Bác đang trong “giấc ngủ” say giữa đất trời bình yên của quê hương “dịu hiền”. Phải, Bác vẫn còn sống trong lòng mọi người!
II. Nét đặc sắc trong bài Viếng lăng bác
- Bài thơ mở đầu bằng bối cảnh bình dị: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác… và khép lại trong hình ảnh…Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
- Lời bài thơ thật tha thiết, trang nghiêm, có lúc dường như dạt dào chảy, lúc thì như đọng hẳn lại trong một khoảnh khắc suy tư, khiến bài thơ nổi bật hẳn lòng thành kính sâu sắc đối với Bác của tác giả.
- Khổ thơ thể hiện tình cảm kính trọng của lớp trẻ miền Nam đối với Bác trong cách xưng hô “Con – Bác” vừa biểu lộ sự ngưỡng mộ, thành kính vừa gần gũi thân thương. Mặc dù sương sớm có làm cảnh vật mờ đi nhưng tác giả vẫn cảm thấy nơi đây thật thân thuộc bởi khung cảnh “bát ngát” lũy “tre” xanh, gợi nhớ trong Viễn Phương một thoáng liên tưởng đến phong thái của dân tộc Việt Nam: vẫn một màu xanh vĩnh cửu, hiên ngang, bất diệt trong tiếng biểu cảm. “Ôi!” nhưng không hề lộ một trạng thái ngạc nhiên mà trái lại, nhà thơ cảm thấy gắn bó với dáng đứng trải dài khắp đất nước của tre mặc dù “bão táp, mưa sa” khắc nghiệt nhất. Tre vẫn tồn tại, phát triển, sừng sững giữa đất trời Việt Nam – Tượng đài “Tre” cũng tương đồng với tượng đài của vị lãnh tụ tài ba…
- Đứng trước lăng Bác, nhà thơ không khỏi xúc động trước tình cảm tiếc thương của nhân dân cả nước với công ơn trời biển của Bác qua: … Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng … Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
- Trong câu thơ, nhà thơ đề cập đến quy luật của cuộc sống qua đó để gửi gắm suy nghĩ của mình. Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” càng khẳng định Bác Hồ đã mất thật rồi. Khổ thơ dẫn dắt người đọc từ cái xa đến thực tế đó đã như mũi kim làm “nhói” trái tim của lớp thế hệ khao khát được gặp Bác.
- Khổ thơ cuối, nhà thơ đưa mọi người bay bổng theo khát vọng của mình. Vì thương tiếc “trào nước mắt” trước một vĩ nhân mà tác giả “muốn làm con chim” suốt ngày ca hát ngợi ca về Bác, “muốn làm đóa hoa” ngát hương điểm tô cho Bác. Và thật đáng trân trọng khi tác giả mơ ước mình trở thành một trong số những cây tre mộc mạc nhưng thủy chung, “trung hiếu” hiên ngang của hàng tre Việt Nam làm đẹp cho đời theo Bác Hồ. Ý thơ thể hiện sự khiêm tốn nhưng đáng quý của nhà thơ.
Những đặc sắc trong bài thơ Viếng Lăng Bác 25
Có rất nhiều nhà văn, nhà thơ viết về Bác với tấm lòng thành kính và biết ơn sâu sắc, như Tố Hữu với bài thơ Bác ơi!, viết ngay sau ngày Bác mất, Trần Đăng Khoa với bài thơ Ảnh Bác, hay Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ, cùng rất nhiều tác phẩm khác nữa. Mỗi một tác phẩm đều mang những nỗi niềm và cảm xúc riêng của tác giả dành cho vị cha già kính yêu của dân tộc. Riêng Viễn Phương đã để lại cho độc giả Việt Nam một bài thơ tràn đầy cảm xúc trầm lắng và xót thương khi đứng trước lăng của Người, ấy là bài thơ Viếng lăng Bác được sáng tác năm 1976, trong lần đầu nhà thơ được ra viếng lăng Bác.
Thơ của Viễn Phương thường mang nhiều cảm xúc, lời thơ trong sáng giản dị và lãng mạn. Trong Viếng lăng Bác cũng vậy, một trong những điểm đặc sắc nhất của bài thơ đó chính là nguồn cảm xúc của tác giả, đó là nỗi xúc động khi lần đầu được gần kề Bác, mà Bác lại đã đi xa, là nỗi nghẹn ngào, đau xót, là niềm tiếc thương và biết ơn sâu sắc dành cho chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Đọc câu thơ đầu, ta cứ ngỡ là tác giả đang thủ thỉ kể chuyện, "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác", câu thơ có sự gần gũi thân thiết lạ lùng chỉ nhờ cặp xưng hô "Con-Bác", điều ấy đã cho ta một cảm giác ấm áp, tựa như Bác là một người thân yêu mà tác giả hằng tôn kính trong nhà. Rồi cái cảm giác thân quen gần gũi ấy lại tiếp tục được nhà thơ gợi lên thông qua hình ảnh đẹp mà tác giả nhìn thấy đầu tiên trước lăng đó là "hàng tre xanh xanh", biểu tượng của những làng quê Việt, gợi nhắc đến một dân tộc Việt Nam anh hùng, bền bỉ như những hàng tre bát ngát đã ăn sâu cắm rễ ở đất Việt thân thương này. Dù bao nhiêu "bão táp mưa sa" như giặc ngoại xâm, thiên tai lũ lụt quét qua, thì có khi nào nhân dân ta phải lùi bước khuất phục đâu. Dân Việt ta cứ như những hàng tre xanh tươi, đoàn kết "đứng thẳng hàng" khiến mưa cũng phải tan, bão cũng phải tàn. Qủa thực hình ảnh tre xanh trong khổ thơ đầu là hình ảnh mang nhiều sức gợi, làm nên cho bài thơ những cảm xúc vừa thân thương vừa hoài niệm đẹp đẽ.
Đến khổ thơ thứ hai Viễn Phương lại tiếp tục gây ấn tượng với hình ảnh sóng đôi, ẩn dụ rất đặc biệt và mang ý nghĩa thật sâu sắc.
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ"
Vốn hình ảnh "mặt trời đi qua trên lăng" là quy luật tự nhiên vĩnh hằng của tạo hóa, còn hình ảnh ẩn dụ "mặt trời trong lăng rất đỏ" là Viễn Phương đang gợi nhắc đến Bác Hồ, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đang yên giấc ngàn thu. Ngụ ý Bác chính là mặt trời chân lý vừa ấm áp vừa sáng chói trong trái tim mỗi người dân Việt Nam, những tư tưởng và cống hiến của Người đã soi đường dẫn lối cho dân tộc ta bước ra khỏi bóng đêm khổ đau và lầm than của đế quốc. Hơn thế nữa hình ảnh ẩn dụ này còn chứng minh tầm vóc và sức mạnh tư tưởng của Hồ Chủ tịch, đó là tầm vóc và tư tưởng mang tính vũ trụ, tính chân lý và cũng là duy nhất, không một ai có thể thay thế được, tựa như mặt trời của thiên nhiên tạo hóa.
Tiếp tục với những phép hoán dụ và ẩn dụ trong câu:
"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân..."
Đọc câu thơ ta tưởng chừng dòng người ấy là vô tận là mãi mãi chẳng bao giờ dứt được, kết hợp với cụm "đi trong thương nhớ" khiến ta liên tưởng đến ngay cái sợi dây tình cảm của nhân dân Việt Nam dường như cứ dài mãi vậy, đời đời nhớ ơn và xót thương cho vị cha già kính yêu. Hình ảnh "Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân" là một hình ảnh ẩn dụ đẹp và lãng mạn, tràng hoa ấy thể hiện cho sự đoàn kết đồng lòng của dân tộc Việt Nam cùng thành kính dâng lên cho Bác, mà chẳng phải chỉ dâng cho một khoảnh khắc trong đời Người, mà đấy là cả 79 mùa xuân - 79 năm cuộc đời, Bác đã hi sinh trọn vẹn cho dân tộc cho đất nước. Đó là sự hi sinh cao cả và lớn lao, chưa một người nào có thể làm được.
Đọc bài thơ ta lại nhận ra một điều thú vị, hình như Viễn Phương rất hay liên tưởng đến các hình ảnh mang tính bền vững và vĩnh cửu, không bao giờ có thể tận diệt được, trước là hàng tre xanh Việt Nam, sau là mặt trời và bây giờ là vầng trăng và trời xanh.
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim"
Khi đứng trước di hài của Bác, trước cái không khí thiêng liêng và yên ắng, nhà thơ đã mường tượng ra Bác như chỉ đang ngủ, phía trên là vầng trăng tỏa ánh sáng vàng nhàn nhạt. Ôi, cái hình ảnh sao lãng mạn và êm đềm đến thế, ở đây Viễn Phương đã phải cố dằn lòng mà tránh đi cái sự xót thương khi đứng trước di hài Bác bằng những hình ảnh thật duy mỹ, mang nhiều sức gợi về một tâm hồn cao đẹp và trong sáng của Bác như vậy. Thế nhưng dường như cảm xúc ấy, có cố nói giảm nói tránh đi thì nó vẫn luôn hiện diện ở trong tim của người con miền Nam. Viễn Phương lại tiếp tục dùng biện pháp ẩn dụ, "trời xanh" ở đây chính là Bác, Bác còn sống mãi trong tâm hồn người dân Việt Nam đấy, nhưng đó chỉ là những ký ức mà Bác còn để lại, Bác đã thực sự ra đi mãi mãi, để lại cho cả dân tộc Việt Nam một nỗi đau sâu sắc tựa như dằm vẫn nhói trong tim, mà mỗi khi đụng vào lại đau đớn khôn nguôi. Điều đó càng chứng minh tấm lòng kính yêu, lòng biết ơn thủy chung, sắt son mà nhân dân ta luôn dành cho Bác.
"Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này..."
Khổ thơ cuối nếu tinh ý nhận ra, ta sẽ thấy ở đây tác giả có sự biến đổi cảm xúc, dường như nỗi đau của tác giả đã được bộc lộ hẳn ra ngoài, không còn nằm trong nỗi niềm âm thầm lặng lẽ ở những khổ thơ đầu nữa. Điều đó là bởi tác giả lại sắp phải rời xa Bác, khi mà nỗi lòng được gần gũi Bác chưa thỏa, biết bao niềm thương, niềm kính yêu đều như trực trào ra, bởi nỗi tiếc nhớ, tác giả sợ phải xa Bác lần này, rồi biết khi nào mới lại được một lần nữa ra thăm Bác. Tất cả điều đó đã khiến tác giả "thương trào nước mắt", nỗi đau xót, nỗi buồn bã này liệu có ai hiểu? Trước niềm đau như thế, Viễn Phương đã nảy ra những khao khát lạ lùng, cốt chỉ để được gần Bác, ngày ngày canh giữ cho Bác một giấc ngủ ngàn thu êm đềm. Nhà thơ ước được làm một chú chim nho nhỏ hót quanh lăng cho Bác vui, lại ước làm đóa hoa thơm để Bác ngắm, và cuối cùng là ước được là "cây tre trung hiếu", quay lại đúng với biểu tượng của dân tộc Việt Nam, trung thành và giữ trọn lòng hiếu nghĩa với Bác.
Viếng lăng Bác là một bài thơ có ngôn từ giản dị, trong sáng, những hình ảnh ẩn dụ dễ hiểu lại mang nhiều sức gợi, đặc biệt là nguồn cảm xúc nghẹn ngào, đau xót lan tỏa trong bài thơ, đã làm nên một tác phẩm rất riêng biệt, có giá trị cho đến tận ngày hôm nay, chưa bao giờ phai mờ. Điều đó cũng chứng tỏ Bác sẽ luôn sống mãi trong tâm hồn của từng người con đất Việt, dù có là 100 năm hay 1000 năm nữa, điều đó cũng mãi không bao giờ đổi thay.
Những đặc sắc trong bài thơ Viếng Lăng Bác 26
Bác Hồ là nguồn cảm hứng vĩ đại cho các nhà thơ nhà văn. Cuộc đời của Người chính là bản thiên hùng ca vô cùng tha thiết về nhân cách cũng như tinh thần yêu nước bất diệt. Đã có biết bao nhiêu nhà thơ khắc họa thành công hình tượng của Bác trong đó không thể bỏ qua bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương.
Viếng lăng Bác không chỉ đơn giản là nén hương thơm mà đứa con từ miền Nam xa xôi dâng lên Bác Hồ kính yêu mà nó còn là khúc tình ca sâu đậm mà đồng bào miền Nam nói chung gửi đến Người – vị cha già vĩ đại của dân tộc. Mở đâu bài thơ nhà thơ gây ấn tượng mạnh bởi cách xưng hô vô cùng ngọt ngào gần gũi:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Tiếng xưng hô thân thương trìu mến gọi Bác xưng con đã xóa tan cái khoảng cách xa xôi giữa vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc với người dân lao động cần lao. Nó đã trở thành mối quan hệ vô cùng thân thiết và khăng khít như máu thịt giữa con người với con người. Bài thơ được sáng tác vào những năm đầu của độc lập, nên đây có thể được coi là một cuộc hành hương tìm về cội nguồn của người con miền Nam ra thăm người cha yêu dấu sau bao nhiêu năm đằng đẵng xa cách. Hàng tre chính là hình ảnh thân quen hiện lên trong trí óc nhà thơ:
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Hàng tre chính là biểu tượng của cây cỏ mang màu sắc của một vùng quê hương bản xứ. Nói đến loài tre là nhắc đến một trong những loài cây thân mọc thẳng, hiên ngang dù có phải hứng chịu bao nhiêu sự va đập của thiên nhiên. Vì thế nói đến hàng tre còn ẩn dụ một hình ảnh đó chính là đức tính quý báu của người dân Việt Nam: cần cù, chịu khó và hiên ngang. Hàng tre đứng bên lăng Bác là vẻ đẹp đại diện cho khí phách cả một dân tộc. Giọng thơ ở đây nghe rất hào sảng và đầy kiêu hãnh tự hào.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Cái hay ở đây đó chính là việc nhà thơ đã sử dụng rất nhuần nhuyễn và hiệu quả các biện pháp ẩn dụ hoán dụ độc đáo. Nó tạo nên một hình ảnh có sức gợi cảm gợi tả mãnh liệt.
MẶt trời ở trong lăng ở đây chính là Bác Hồ - vị cha già kính yêu của người dân Việt Nam nhiều thế hệ. So sánh mặt trời thiên nhiên với Bác quả là không sai. Nếu như mặt trời thiên nhiên mang đến cho con người vạn vật sự sống đâm chồi kết trái thì Bác chính là hi vọng chính là người đưa đường dẫn lối cho các con vượt qua hết phong ba bão tố của con đường cách mạng. Để muôn dân tìm lại được tự do sau những ngày gông cùm xiềng xích.
Đến đây ta chợt nhớ đến hai câu thơ nhà thơ Tố Hữu viết về Bác như sau:
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng.
Người con tiếp tục tỏ lòng thành kính đối với Người :
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ được xem là một phát hiện vô cùng vĩ đại của nhà thơ. Đó không chỉ là không gian nơi Bác nằm mà nó còn là không gian của lòng xót thương, sự thành kính và biết ơn sâu sắc. Tràng hoa dâng bác ở đây chính là hình ảnh tương thân tương ai là tấm lòng các con ở xa gửi ra viếng người.
Mạch cảm xúc như vỡ òa theo từng bước chân của con khi đến gần người cha mình hằng yêu quý. Để rồi nghẹn ngào trở thành một thứ cảm xúc trực trào tận sâu trong tâm khảm:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Người nằm trong lăng với một giấc ngủ vô cùng bình yên. Đến lúc này đứa con vẫn không thể tin là Người đã rời xa chúng con. Với con Người chỉ đang ngủ một giâc ngủ dài mà thôi. Người còn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của quần chúng, sống mãi trong tâm trí của những con dân Việt Nam. Ánh trăng và Người ở đây có một sự giao hòa đồng điệu. Ánh trăng tượng trưng cho sự thanh cao, hiền hòa và bao dung cũng giống với Bác. Một nhân cách cao cả, thanh tao cả đời chỉ biết hi sinh thân mình cho độc lập dân tộc cho chủ nghĩa xã hội muôn năm.
Dẫu biết là thế nhưng tại sao con vẫn không thể kìm nén được cảm xúc của chính mình? Vẫn thấy nhói ở trong tim? Sự rung động đến nhói tim là một thứ tình cảm vô cùng thiết tha chân thành của tác giả dành cho Bác.
Cảm xúc ấy chợt như vỡ òa khi nghĩ đến giây phút phải chia xa Người:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Ở đây ta bỗng thấy có sự chuyển biến rất lớn trong nhịp thơ của tác giả. Nó mang nét gì đó vừa vội vàng lại vừa gấp gáp cuống quýt đúng với tâm trạng của những người con chuẩn bị đi xa quê hương. Lúc này mong ước của tác giả bỗng trở nên bình dị hơn bao giờ hết chỉ đơn giản muốn trở thành con chim để cất tiếng hót quanh năm, ngày ngày được ở bên Người dâng lên những thứ âm thanh trong trẻo nhất. Là mong muốn được làm đóa hoa để tỏa hương tô điểm cho giấc ngủ của Người. Thế nhưng vẫn chưa đủ nhà thơ còn mong muốn khát khao được làm cây tre để đời đời canh giâc ngủ cho Bác. Ở đây ta bắt gặp lại hình ảnh cây tre đã được nhắc đến ở đầu bài. Sự kết nối vòng tròn đã tạo nên một ấn tượng đặc biệt đối với người đọc người nghe. Điệp ngữ “muốn làm” được lặp đi lặp lại và nhấn mạnh trong từng câu chữ càng khiến con người thêm rung động. Đó là mong muốn khát khao tột bậc, sự tự nguyện thiết tha từ trong tâm hồn nhà thơ.
Bài thơ khép lại thế nhưng những cảm xúc của nó vẫn còn in đậm trong tâm trí mỗi người. Chính Viễn Phương đã truyền cho chúng ta biết bao nhiêu tình cảm chân thành và thân thương nhất. Để cho con cháu mai sau biết được, để có được cuộc sống hòa bình như hôm nay đó là nhờ công lao vô cùng to lớn của Bác của những thế hệ cha anh đã ngã xuống. Vì thế hãy sống sao để thật xứng đáng với niềm tin và sự kì vọng của Người.
Những đặc sắc trong bài thơ Viếng Lăng Bác 27
Về nghệ thuật trong bài thơ Viếng lăng Bác, có những nét chủ yếu sau :
– Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ.
+ Bài thơ tả việc viếng lăng Bác theo trình tự thời gian và không gian từ ngoài vào trong lăng, từ khi viếng và xúc cảm sau khi viếng với những thủ pháp nghệ thuật quen thuộc: ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng…nhưng gây một cảm xúc đặc biệt. Thành công trước hết là nhờ cảm xúc hết sức chân thành và sâu sắc của Viễn Phương. Xúc cảm đó lại được “cộng hưởng” bởi tình cảm thiêng liêng mà Bác dành cho nhân dân miền Nam và tình cảm thành kính, ngưỡng mộ mà toàn dân tộc dành cho Bác.
+ Bài thơ có bố cục gọn rõ, giọng điệu phù hợp với nội dung cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa thiết tha, đau xót xen lẫn sự tự hào. Giọng điệu thơ được tạo nên bởi các yếu tố: thể thơ, nhịp điệu, ngôn ngữ, hình ảnh.
+ Thể thơ: chủ yếu là tám tiếng, riêng khổ thứ ba chỉ có bảy tiếng và dòng cuối khổ hai là chín tiếng, cách hiệp vần có hai dạng: vần liền và vần cách: nhịp thơ nhìn chung là chậm rãi, diễn tả được sự trang nghiêm, thành kính, lắng đọng trong tâm trạng tác giả. Riêng khổ thơ cuối nhịp thơ có phần nhanh hơn, với điệp ngữ “muốn làm” và điệp cấu trúc, thể hiện rõ mong ước tha thiết và nỗi niềm lưu luyến của nhà thơ.
+ Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, nhất là có sự kết hợp giữa hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ giàu tính biểu tượng, nhất là các ẩn dụ – biểu tượng như: mặt trời trong lăng, tràng hoa, vầng trăng sáng dịu hiền, trời xanh mãi mãi…
Những đặc sắc trong bài thơ Viếng Lăng Bác 28
Bài thơ Viếng lăng Bác của tác giả Viễn Phương có những đặc sắc nghệ thuật, được thể hiện qua thể thơ, nhịp điệu, ngôn ngữ và hình ảnh giàu cảm xúc.
– Đây là bài thơ được viết theo thể thơ tự do với 4 khổ thơ, mỗi khổ 4 dòng, mỗi dòng từ bảy đến chín từ. Với thể thơ này, tác giả có thể bày tỏ cảm xúc của mình một cách trọn vẹn và chân thành nhất.
– Nhịp điệu thơ chậm mang cảm xúc tâm tình, ấm áp và trang nghiêm. Cảm xúc được sắp xếp nhẹ nhàng trong khổ đầu và tăng dần trong khổ cuối. Khi đó, cảm xúc được đẩy lên cao nhất, mạnh mẽ tuôn trào “Mai về miền Nam, thương trào nước mắt”. Đó là cảm xúc chân thật và tiếc thương sâu sắc nhất của nhà thơ khi phải rời xa Bác. Nó đúng với diễn biến cảm xúc, tâm trạng của một người con luôn hướng về Bác.
– Giọng thơ chân thật, chân tình đậm chất Nam Bộ. Sinh ra, lớn lên và chiến đấu gắn liền với mảnh đất Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến ác liệt, đã hun nấu trong lòng nhà thơ những tình cảm yêu thương chân thật nhất. Đó không chỉ là tình cảm riêng mà còn gửi gắm trong đó cả tình thương của đồng bào Nam Bộ dành cho người cha vĩ đại của dân tộc mình.
– Khổ thơ cuối điệp từ “muốn làm” thể hiện mong ước của tác giả. Đó là sự tiếc nuối, ân hận vô bờ của tác giả. Ước nguyện nhỏ nhoi dù là con chim, đóa hoa hay hàng tre để được gần Bác, bên Bác.
– Bài thơ là cả một nghệ thuật sáng tạo, có sự kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ. Biện pháp ẩn dụ đẹp được tác giả sử dụng trong bài thơ như hàng tre, mặt trời, vầng trăng… Ngôn ngữ được chọn lọc một cách tinh tế được đặt với những hình ảnh kì vĩ, lớn lao, nối tiếp nhau. Điều này làm cho người đọc phải suy ngẫm về sự lớn lao, kì vĩ đó, không chỉ là của cảnh sắc thiên nhiên mà còn là của con người vĩ đại.
+ Mặt trời nói về hình ảnh Bác, người soi đường dẫn lối cho dân tộc.
+ Vầng trăng đó là tình cảm nhẹ nhàng, thuần khiết mà Bác dành cho nhân dân, đất nước.
– Ngôn ngữ thơ sâu sắc, bình dị có chọn lọc, tình cảm chân thành khiến người đọc xúc động trước tình cảm nhà thơ với Bác.
Viếng lăng Bác là bài thơ nổi tiếng và thành công về nội dung và nghệ thuật. Tác giả nói lên tình cảm của cá nhân và đại diện cho nhân dân miền Nam thể hiện lòng thành kính, biết ơn đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh.Bác đã sống cuộc đời của một con người vĩ đại và mãi trường tồn cùng dân tộc, đất nước.