Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa (20 mẫu)

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 1

Tôi đang du học ở một nước xa xôi, cách Việt Nam hàng ngàn kilomet, nơi đất nước lạnh giá bỗng thèm hơi ấm từ bếp lửa của người bà thân yêu, ngọn lửa mà bà thắp lên mỗi sáng tinh mơ.

Tuổi thơ tôi gắn bó với bà, ngọn lửa chờn vờn trong sớm mai, ngọn lửa gắn liền với hình ảnh người phụ nữ Việt Nam cần cù, chịu khó và giàu đức tính hi sinh. Bà tôi là một người phụ nữ như vậy, kí ức về bà gắn với kỉ niệm tuổi thơ nạn đói năm 1945 hoành hành khiến hàng triệu người chết, gia đình tôi cũng vậy phải cố gắng đi tìm miếng ăn để vượt qua thời khắc đen tối đó, giờ nghĩ lại mà sóng mũi còn cay cay.

Tôi có nhiều kỉ niệm nhớ mãi với người bà, thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp mẹ và cha tôi phải đi công tác ở chiến khu, bà ở nhà nuôi nấng, dạy dỗ tôi trưởng thành, bà đun lửa lên sưởi ấm cho tôi mỗi khi trời trở rét. Bà thương yêu bao bọc che chở giúp cha mẹ an lòng công tác xa nhà.

Một kỉ niệm đến tận giờ tôi vẫn không quên đó là lần giặc càn tàn phá xóm làng, ngọn lửa thiêu rụi tài sản mọi người trong làng, khi giặc đi qua tất cả không còn gì. Trong hoàn cảnh như vậy bà vẫn dặn tôi không được nói với cha mẹ để họ yên tâm công tác. Bà không chỉ cần cù, giàu tình yêu thương mà còn giàu đức hi sinh làm hậu phương vững chắc cho cha mẹ yên lòng, với tôi bà là người mẹ Việt Nam trung hậu, đảm đang, bất khuất.

Ngọn lửa của bà không chỉ dùng để sưởi ấm mà chứa đựng niềm yêu thương luôn cháy trong lòng tôi, bà là đại diện thế hệ cha anh giữ lửa truyền lửa đến thế hệ tương lai, hình ảnh bếp lửa giản dị quen thuộc như chứa đựng sự cao quý thiêng liêng đến kỳ lạ.

Trải qua thời gian, tôi đã trưởng thành, tìm đến với những con đường, chân trời mới, cuộc sống mới đã có “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng trong lòng tôi vẫn luôn hiện hữu câu hỏi “sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa” ? ngọn lửa của bà chính là kỉ kiệm tuổi thơ, tình bà cháu đã nuôi nấng tôi trưởng thành, hình ảnh đó sẽ cháy mãi trong lòng tôi – ngọn lửa yêu thương của gia đình, yêu quê hương đất nước.

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 2

Tôi vẫn nhớ nhà thơ Nguyễn Duy đã từng viết:

“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

níu váy bà đi chợ Bình Lâm

bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”

Dường như trong kí ức tuổi thơ của bao đứa trẻ, những tháng năm vô lo vô nghĩ bên người bà luôn là quãng thời gian êm đềm và thân thương nhất. Vượt qua bao sự thăng trầm trong cuộc đời và sàng lọc của thời gian, những kỉ niệm mộc mộc ấy về bà vẫn đọng lại trong miền nhớ của biết bao tâm hồn, nó đưa ta về với khoảng trời xưa cũ bình dị mà an nhiên tự tại thuở niên thiếu. Với riêng tôi, có lẽ kỉ niệm về bà bên bếp lửa bập bùng mỗi sớm mai luôn đi về trong cõi nhớ của tôi trên những chặng đường mà tôi trải qua. Nỗi nhớ ấy lại càng cồn cào da diết hơn trong những năm tháng sống xa xứ, đón những đợt gió tuyết nơi xứ sở Bạch Dương. Trong những phút giây tĩnh lặng, mỗi khi nhìn làn khói của những ngôi nhà phía xa kia, cả một trời nhớ thương trong tôi lại ùa về, về bà về bếp lửa hồng sưởi ấm cả tuổi thơ tôi, về hương vị quê nhà…

Theo dòng hoài niệm, kí ức đưa tôi về với những đêm đen của cái đói mòn đói mỏi năm 1945. Ngôi làng nhỏ nơi tôi sinh sống, nhà nào cũng rơi vào cảnh đói thê thảm. Trong những năm tháng cơ cực ấy, để giành giật lấy sự sống ngày một thoi thóp, bố tôi phải lên phố xe thuê rạc cả người, dẫu vậy cũng chỉ đủ để rau cháo cầm hơi mà sống qua ngày. Cái đói nghèo cùng cực của năm Ất Dậu ấy như một nỗi ám ảnh trong tâm hồn non nớt của đứa trẻ bốn tuổi lúc đó. Chính mùi khói bếp của bà đã mang đến cho tôi những hơi ấm, sự an lòng và xua đi cái mùi tử khí tràn ngập quanh ngõ xóm thôn nghèo. Thứ hương thơm dung dị như nhen lên từ tình yêu nồng hậu của bà đã sưởi ấm cho tôi trong suốt thuở thiếu thời để rồi sau này trên mỗi hành trình dài và rộng mà tôi qua, mùi khói bếp ấy vẫn làm tôi cay cay sống mũi mỗi khi hồi tưởng lại. Những năm tháng sau đó khi kháng chiến bùng nổ, bố mẹ tôi thoát ly gia đình đi làm cách mạng, lên đường theo tiếng gọi của Tổ Quốc. Suốt tám năm trời đằng đẵng tôi sống trong sự đùm bọc chở che của bà, bên bóng dáng tảo tần của bà và bên bếp lửa hồng bà nhen lên mỗi sớm chiều. Những năm tháng thơ bé ấy, bên cạnh bà cháu tôi, bên cạnh bếp lửa vẫn còn một nhân chứng mà tôi chẳng thể nào quên đó là chim tu hú. Tiếng hót của nó nghe sao mà chơ vơ lạc lõng như khao khát được che chở ấp iu đến vậy. Tiếng tu hú khắc khoải như xé tan cả khoảng không gian mênh mông buồn vắng, thương con chim tu hú bất hạnh biết bao nhiêu tôi càng biết ơn và trân trọng những ngày tháng tuổi thơ hạnh phúc được bà chăm chút, bao bọc bấy nhiêu. Bên bếp lửa bập bùng, tôi được nghe bà trải lòng về cuộc đời bà những tháng năm còn ở Huế. Một cuộc đời đầy truân chuyên và cùng cực. Bà gửi những hi vọng, ước mong về một tươi lai tươi sáng hơn trong tôi. Rồi cũng ở bếp lửa nơi góc bếp, bà chăm tôi từng bữa ăn giấc ngủ và là người thầy đầu tiên dạy tôi những bài học quý giá trong cuộc đời. Những bài học làm người cao đẹp ấy đã trở thành một điểm tựa vững chắc chắp cánh cho những giấc mơ cao đẹp trong cuộc đời. Thứ ánh lửa ấm áp nồng nàn ấy mang đến cho tầm hồn tôi một sự an ủi trong những ngày tháng sống thiếu tình cảm của cha mẹ, bà như điểm tựa tinh thần cho tôi vững bước. Cuộc sống vẫn vậy, vẫn khắc nghiệt và luôn muốn thử thách bản lĩnh của con người. Đến một ngày tiếng súng, tiếng bom của cuộc chiến tranh khắc nghiệt dội về làng tôi. Trước họng súng và ngòi nổ hủy diệt của quân địch, ngôi làng tôi lúc đó là một đống tro tàn, nhà cửa của mọi người đều hoàn toàn cháy rụi. Tôi biết lúc đó bà đang nuốt ngược nỗi đau và nước mắt vào trong. Nơi chốn nương thân của hai bà cháu tôi không còn, nhưng nghị lực và ý chí thép được tôi luyện trong những năm tháng bể dâu của cuộc đời không cho phép bà tôi gục ngã buông xuôi. Bà cứng rắn dắt tôi vượt qua hoàn cảnh ngặt nghèo. Tôi hiểu rằng những thiếu thốn, cơ cực mà tôi mới trải qua không thể nào đong đếm được với những gian khó, nhọc nhằn và nỗi nhớ thương con nơi chiến trường đỏ lửa đều phải nén lại vào trong của bà. Và rồi đâu rồi cũng vào đó, nhờ vào tình làng nghĩa xóm mà bà cháu tôi cũng dựng được căn nhà nhỏ trên nền đất cũ năm nào. Bà đã nhóm lên trong tôi ý chí và nghị lực sống trong cuộc đời này. Thật kì diệu bởi tôi tin rằng những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa hung tàn kia đã được hồi sinh trong bếp lửa của bà. Cứ thế tuổi thơ tôi được bà che chở qua bao tháng năm. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen lên ngọn lửa bền bỉ, trường tồn theo dọc thời gian của bếp lửa kia.

Tháng năm làm tôi lớn lên và trưởng thành, những hoài bão đưa bước chân tôi đến với những chân trời xa nhưng chẳng thể nào tôi quên được ngọn lửa hồng nơi góc bếp bởi nơi đó có tình yêu thương và đức hi sinh lặng thầm của người bà mà tôi dành cả cuộc đời mình để biết ơn và trân trọng, cũng chính tại nơi đó bà nhen nhóm lên trong tôi những ước mơ về một cuộc đời mới. Nếu những câu chuyện cổ tích là người bạn của bao tâm hồn thơ bé, thì bà chính là người viết lên câu chuyện cổ tích giữa cuộc đời này cho riêng tôi. Trong câu chuyện ấy là ánh lửa bập bùng sớm tối, là tình yêu nồng hậu của bà, là mùi nếp mùi sắn thơm hương, của quê hương, và luôn là nơi mà tôi thuộc về…

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 3

“Đôi mắt càng già càng thấm thía yêu thương

Da dẻ dù khô đi tấm lòng không hẹp lại

Giàu kiên nhẫn bà còn hi vọng mãi

Chỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm”

Đó là những vần thơ mà tôi muốn tặng cho người bà kính yêu của mình. Tôi đang là sinh viên ngành Luật ở nước Nga. Bây giờ đã là tháng 9, trời bắt đầu trở lạnh làm tôi nhớ những kí ức về bà, bếp lửa mà ngày xưa tôi cùng bà nhóm bếp, cũng là một phần đã tạo nên tuổi thơ của tôi.

Tuổi thơ của tôi được sống bên bà, lúc đó nhóm lửa cùng bà vô cùng cực khổ và nhọc nhằn. Lên năm bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói. Tôi vẫn nhớ lúc ấy vào năm 1945, nạn đói xảy ra khủng khiếp đối với gia đình tôi cũng như bao gia đình ở Việt Nam. Cái cảnh mọi người làm việc kiếm miếng ăn thấy mà đau lòng. Số người chết vì đói cũng ngày càng tăng. Ba tôi đi đánh xe ngựa cực khổ con ngựa cũng gầy gò mà cái đói vẫn bám riết không tha, người dân cực khổ vô cùng.

Rồi vào những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xảy ra, ba và mẹ tôi tham gia công tác kháng chiến nên tôi ở cùng bà. Tám năm tôi cùng bà nhóm lửa, hẳn là tuổi thơ tôi đã gắn liền với bếp lửa đó. Cái mùi bếp lửa cay cay, khiến mỗi lần tôi nhóm lửa nước mắt, nước mũi đều chảy. Bà đã thay ba mẹ tôi nuôi dạy tôi nên người. Bà dạy tôi làm việc nhà, dạy tôi học, chăm sóc tôi với tình yêu thương vô vàn như một người mẹ .

Mỗi buổi sáng, bà đều làm đồ ăn để tôi dậy ăn. Bà làm việc này tới việc khác không nghỉ ngơi mà cũng không than phiền hay trách móc gì cả. Cuộc đời bà đã đi qua bao nhiêu sóng gió nắng mưa, đã chịu nhiều cực khổ nên tôi không muốn phiền lòng bà nữa. Tôi đã lớn lên trong vòng tay yêu thương và bảo bọc của bà. Đôi lúc những khi rãnh rỗi bà còn thường kể chuyên tôi nghe rồi nhắn nhủ với tôi rằng: “Con phải ráng học để xây dựng đất nước, nếu không thì đất nước mình chỉ mãi nghèo khổ thôi”.

Có những khi trời mưa làm cho củi ướt, lúc đó nhóm bếp khổ vô cùng. Mỗi khi tu hú kêu trên những cánh đồng, bà thường kể cho tôi nghe những chuyện ở Huế. Bà kể giọng rất truyền cảm, từng chữ từng lời nói của bà đều khác sâu trong lòng tôi. Tiếng tu hú kêu làm tôi và bà đều nhớ ba mẹ tôi ở chiến khu da diết. Càng lớn tôi càng cảm thấy thương bà, càng không muốn xa quê hương để bà khó nhọc.

Năm đó là nạn giặc tàn phá xóm làng, thiêu rụi nhà cửa, tài sản. Hàng xóm và bà cháu tôi đều chịu nhiều khổ cực, mất mát và đau thương. Cái hình ảnh đó đã ám ảnh hết một phần của tuổi thơ tôi. Sau những ngày rời khỏi quê nhà, thì hàng xóm và bà cháu tôi trở về lậm lụi. Tôi đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh nhỏ để sống qua ngày. Tôi thấy bây giờ cuộc sống cực khổ nên nói với bà: “Bà ơi hay là cháu viết thư cho ba mẹ nhé, để ba mẹ trở về để phụ bà”. Nhưng bà không chịu và nói nhỏ nhẹ với tôi rằng: “Ba mẹ ở chiến khu còn rất nhiều việc, nên mày có viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo là gia đình vẫn bình yên là được rồi.

Tôi hiểu lòng bà nên chỉ vâng lời thôi, và tôi càng thấy thương bà hơn, một mình bà gánh vác hết mọi công việc còn lo cho con ở chiến khu, tôi cảm thấy bà như một vị anh hùng giàu tình yêu thương và đức hi sinh. Nên mọi việc gì trong nhà tôi có thể làm được thì tôi liền giúp bà như: cho gà ăn, lấy củi, hái rau,… dù những công việc đó nhỏ nhưng cũng giúp bà đỡ được phần nào. Những ngày mà bà làm việc nặng, tới tối tay chân bà mỏi thì đôi đấm bóp cho bà, cho bà dễ chịu.

Ngày qua ngày tôi cùng bà nhóm bếp lửa. Một ngọn lửa chứa niềm tin và hình ảnh của bà. Mấy chục năm rồi mà bà vẫn thức khuya dậy sớm trải qua mưa nắng cuộc đời, tảo tần chăm sóc tôi. Công việc của bà giản dị nhưng tôi vẫn biết ơn vô cùng như: bà nấu khoai, bà san sẻ tình làng nghĩa xóm. Bếp lửa đã cùng bà trải qua nắng mưa trong cuộc đời bà. Ôi bếp lửa giản dị nhưng riêng tôi cảm thấy đó là điều kì lạ thiêng liêng cao đẹp.

Bếp lửa còn là tình bà nồng ấm, bếp lửa gắn với những gian khổ, gian lao đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lên, cũng giống như bà nhóm niềm vui niềm yêu thương giành cho tôi và mọi người. Bà không những là người nhóm lửa, mà còn là người truyền lửa truyền niềm tin cho mọi người.

Giờ đây tôi đã trưởng thành sống với những nơi có bếp gas, bếp điện. “Có ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả “luôn hiện hữu trong tâm trí tôi với câu hỏi: “Mai này bà nhóm lửa lên chưa”. Ôi bếp lửa tình bà sao ấm áp đến như vậy! Bếp lửa đã nuôi lớn tôi, giúp tôi trưởng thành như ngày hôm nay. Bây giờ tôi chỉ muốn về với bên bà, được bà kể chuyện, được bà chăm sóc yêu thương. Mỗi con người ai cũng đều có cội nguồn để trưởng thành. Vì thế mà tôi sẽ không bao giờ quên được cái hình ảnh người bà và bếp lửa đã nuôi dạy tôi trưởng thành như ngày hôm nay.

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 4

Trong mỗi chúng ta, có lẽ kỉ niệm tuổi ấu thơ bao giờ cũng là những trang kí ức sâu đậm nhất. đó có thể là kỉ niệm về làng quê thân thương, hay cũng có thể là kỉ niệm về tuổi học trò. Những kỉ niệm ấy như ăn sâu vào tiềm thức của chúng ta, khiến ta khó lòng mà quên được. Đối với tôi cũng vậy!

Tuổi thơ về người bà thân thương gắn liền với bóng đen ghê rợn của nạn đói năm Ất Dậu, đó trở thành dấu ấn sâu đậm nhất trong lòng tôi và trong nỗi nhớ ấy, lòng tôi đã dấy lên một niềm xúc động khi những dòng kí ức ấy ùa về.

Đối với bản thân tôi “bếp lửa chờn vờn sương sớm”, “bếp lửa ấp iu nồng lượm” đã trở thành một hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong gia đình nông thôn chúng tôi. Bếp lửa là nơi bắt đầu nỗi nhớ da diết của tôi. Trong dòng cảm xúc dạt dào ấy, bếp lửa đã trở thành một kỉ niệm khó phai. Bếp lửa thể hiện sự tần tảo của bà mà còn thắp lên tình thương yêu sâu sắc của hai bà cháu.

Từ năm lên bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói mà bà nhóm lên. Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi và hình ảnh bếp lửa đã trở nên không thể thiếu trong đời tôi. Để bây giờ nhớ lại tôi lại cảm thấy cay xè sống mũi. Bếp lửa thiêng liêng trở thành một dấu ấn, một nỗi nhớ, nỗi ám ảnh sâu sắc trong cuộc đời tôi.

Tám năm! một quãng thời gian không dài cũng không ngắn nhưng đủ để nhen nhóm trong lòng tôi một ngọn lửa tình yêu cháy bỏng dành cho người bà. Bếp lửa của quê hương, của sự yêu thương gợi lên tiếng chim tú hú như giục giã nghe sao mà da diết quá!

Trong khoảng thời gian chiến tranh, tôi sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà. Bếp lửa hiện lên như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự đùm bọc châm chút của bà. Bên bếp lửa, bà kể tôi nghe những câu chuyện còn ở Huế, bà dạy, bà bảo, bà chăm chút tôi.

Giặc đi, ai ai cũng bị mất mát rất nhiều, tuy nhiên mọi người vẫn giúp đỡ nhau dựng cho nhau những túp lều. Bà âm thầm chịu dựng để bố mẹ tôi yên tâm công tác nơi phương xa. Vất vả chồng lên vất vả, gian truân nối tiếp gian truân, nhưng bà vẫn dặn tôi đinh ninh “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, mày viết thư chớ kể này, kể nọ, cứ bảo nhà vẫn bình yên. “Ôi chao! khi nghĩ lại lời dặn ấy thật mộc mạc, bình dị nhưng lại chất chứa trong ấy biết bao tâm tình, biết bao đau khổ cuộc đời bà

Khi nhớ lại, nỗi kỉ niệm ấy lại dâng lên thêm. Tôi lại suy ngẫm về cuộc đời tần tảo của bà, cuộc đời luôn cặm cụi làm việc. Bà vẫn luôn giữ thói quen dậy sớm nhóm lửa và công việc ấy kéo dài suốt cuộc đời bà, bà nhóm lửa cho hôm nay, cho ngày mai và đến mãi mai sau,… Bà nấu cho tôi những bữa ăn trông thật đơn giản nhưng lại chất chứa trong đó tình cảm sâu đậm của bà. Và chính bà là người khơi dậy ước mơ, khát vọng tuổi thơ của tôi.

Ngọn lửa mà bà nhen nhóm cả một đời người là ngọn lửa thiêng liêng và kì lạ. Là kỉ niệm nâng bước tôi trong cuộc đời dài. Bà tôi không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, tình yêu thương, niềm tin cho bao thế hệ. Bếp lửa có lẽ trở thành một biểu tượng của sự sống của niềm yêu thương và cội nguồn, gia đình, đất nước, là sự sống bền bỉ của con người

Không chỉ như vậy, hiện diện cùng bếp lửa là người bà, cũng là tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại và đầy yêu thương. Bà là người giàu đức hi sinh, giàu lòng yêu nước. Giữa tro tàn, mất mát đau thương, bà vẫn miệt mài nhóm lửa. Bếp lửa mà bà vẫn thường nhóm sớm sớm chiều chiều đã dâng lên thành ngọn lửa trong lòng bà.

Những nỗi nhớ về bà khép lại trông sự buồn man mác của tôi. Tôi rất nhớ, rất nhớ về tình yêu thương của bà, bếp lửa thiêng liêng và quê hương nồng nàng, tha thiết của tôi. Vì vậy, tôi càng trân trọng những tình cảm tôi đang có. Bếp lửa như lời nhắc nhở tôi về cội nguồn, nghĩa tình thiêng liêng, sâu nặng trong cuộc sống!

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 5

Bao nhiêu năm xa quê hương, xa bà, xa miền quê yêu dấu nhưng tôi vẫn không thể nào quên được những thánh năm tuổi thơ, có bà bên bếp lửa ấm. Dường như cái rét cắt da thịt của mùa đông nước Nga khiến tôi hồi tưởng về ký ức khi ấy.

Năm tôi lên bốn, tức là năm 1945, đất nước đang lâm vào một nạn đói khủng khiếp, khi ấy cuộc sống khó khăn rất nhiều. Bố mẹ tôi phải ra ngoài kiếm tiền, tôi được bà chăm sóc. Tôi còn nhớ khi ấy nhà nhà ai cũng đói, cả người lẫn ngựa đều gầy. Người chết vì đói cũng không ít, thế nên người dân phải đót rơm để trừ tử khí, đốt nhiều đến nỗi khói hun nhèm mắt, tới giờ vẫn còn cay. Dù vậy tôi cùng bà cũng không bỏ cuộc, chúng tôi ngồi bên ngọn lửa như có một hy vọng, dù không lớn nhưng vẫn sống mãnh liệt.

Bố mẹ tôi đi theo tiếng gọi Tổ Quốc, giao tôi cho bà giữ. Tám năm ròng tôi cùng bà nhóm lửa, dù có khổ đến mấy, bà vẫn ngày ngày thắp lên ngọn lửa như thấp lên mỗi niềm hy vọng. Tôi ngồi trông những đàn chim tu hú hót tha thiết ngoài cánh đồng, tôi chỉ muốn nó rằng: "Tu hú ơi sao chẳng ở cùng bà?”. Tôi từ nhỏ đã quen cái hơi thân thuộc của bà. Cùng bà dậy sớm để cùng thắp lên “hy vọng” dần dần đã trở thành niềm vui nho nhỏ của tôi.

Tôi vẫn nhớ những câu chuyện khi ấy của bà. Bà thường hay kể những ngày ở Huế cho tôi nghe, dù bà có kể bao nhiêu tôi vẫn không thấy chán. Được áp đầu nằm lên đùi bà, được những ngón tay ấm áp của bà luồn qua khe tóc, nằm nghe những câu chuyện cùng với hơi ấm của bếp lửa và tất nhiên là với bà cũng đủ làm cho tôi hạnh phúc.

Bố mẹ đi xa, bà tôi thay bố mẹ dạy tôi nhiều việc, bà lo cho tôi ăn học, lo cho tôi ăn uống, chăm sóc tôi, khuyên răn tôi những việc sai. Khi lớn lên tôi mới nhận ra, bà thương tôi, lo cho tôi không có đủ tình thương, bà cố gắng đảm nhiệm là một người bố, người mẹ và là một người thầy để lo cho tôi. Dù khó khăn bà cũng chỉ để tôi thấy một nụ cười hiền hòa. Nhớ đến đây, hai gọt lệ lăn dài trên má tôi…

Bình yên là thế cho đến khi…. Năm đó, giặc đốt làng cháy rụi. Tôi cùng bà đi trốn. Khi mọi việc kết thúc, bà nắm chặt tay tôi đi từng bước run rẩy vào làng, mọi thứ trước mắt tôi thật hoang tàn. Tôi có thể nghe được cả tiếng khóc than của người dân. Chúng tôi về tới ngôi nhà tranh của mình, nó đã bị đổ xuống nhưng may là các bác hàng xóm đã giúp chúng tôi dựng lại được. Đêm ấy, ngồi bên bà, chợt bà bảo tôi: "Mày có viết thư cho bố thì đừng kể này kể nọ, cứ bảo là chúng ta vẫn bình yên. Đừng để bố bây lo.”

Chính là thế, dù có ra sao bà tôi vẫn gắng gượng. Người phụ nữ ấy là niềm tự hào to lớn của tôi, bà không bao giờ than vãn, hay tỏ ra mệt mỏi, tôi biết bà đang cố gắng giữ cho tôi luôn lạc quan. Dù sớm dù chiều, dù đã qua mấy chục năm, bà vẫn luôn thắp lên bếp lửa ấp iu ấy. Ngọn lửa được bà dành chọn tất cả niềm thương yêu của mình. Chính bếp lửa ấy là nơi có khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo sẻ chia và những tâm tình tuổi thơ. Tôi hiểu lòng bà, vì sao bà lại nhóm lửa, tôi hiểu rằng bà đang hy vọng, ngọn lửa bà thắp như là một niềm tin đất nước sẽ chiến thắng, sẽ bình yên. Bà dành cả đời mình chỉ để hy vọng niềm tin hạnh phúc của bà có thể thành hiện thực.

Dù tôi đang ở nơi xa Tổ Quốc, cho dù tôi không thể ở cùng bà, dù tôi đang thấy những điều mới lạ. Tôi vẫn không quên hình ảnh người bà thân thường cùng bếp lửa thắp lên niềm tin của tôi. Tôi tin bà vẫn luôn ở đây, đang thắp lên ngọn lửa ấm áp trong lồng tôi. “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?.”

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 6

Ở một nơi xa xôi của châu Âu, nơi mùa đông giá rét, ngồi bên lò sưởi lửa cháy, hơi ấm của ngọn lửa phả vào mặt khiến tôi nhớ về bếp lửa nhỏ sớm mai và hình bóng bà tôi của tuổi thơ. Hình ảnh bếp lửa nhỏ chờn vờn trong sương sớm và người bà hết mực yêu thương khiến nỗi nhớ trong tôi khôn nguôi.

Tôi sinh ra trong thời điểm đói kém, khi mà nhân dân ta cùng chống thực dân Pháp xâm lược. Đất nước chìm trong chiến tranh và khủng hoảng. Cuộc sống khó khăn và ngột ngạt nhất là người nông dân.

Năm tôi lên bốn, thiên tai, hạn hán khiến cho sản xuất nông nghiệp mất mùa, thất thu. Cái đói len lỏi và từng gia đình. Tiếng người chết, khóc thương khiến khung cảnh trở nên u ám.

Bố mẹ tôi làm quần quật mưu sinh để lo cho cuộc sống, còn bà  ở nhà chăm nom tôi. Cả tuổi thơ của tôi chỉ ở bên bà. Mỗi khi nhóm lửa, ngồi bên bếp lửa ấm vô cùng. Khói bếp cay xè mắt, nước mắt, nước mũi chảy. Nhớ về những hình đó khiến tôi như cay cay trên sống mũi.

Bố mẹ theo cách mạng kháng chiến chống lại kẻ thù. Tôi ở cùng bà vượt qua nhiều khó khăn và tôi dần khôn lớn trong vòng tay người bà thân yêu. Thời gian trôi qua chiến tranh ngày càng ác liệt. Bố mẹ không về được. Kẻ thù tấn công ngôi làng, chúng cướp sạch, đốt sạch. Chúng gieo rắc sự sợ hãi cho nhiều người dân vô tội.

Bà con bên cạnh giúp bà tôi dựng lại túp lều tranh, gây dựng lại từ đống đổ nát, trong tâm trí của mọi người cũng không biết ngày mai thế nào? Tuy khổ nhọc nhưng bà vẫn dặn dò tôi có viết thư cho bố thì chớ kể chuyện nhà. Bảo rằng bà vẫn mạnh khỏe. Dù thế nào đi chăng nữa bà vẫn một lòng nghĩ về cuộc chiến, mong bố mẹ tôi an tâm công tác. Bà nhóm ngọn lửa như cháy lên trong tôi ngọn lửa yêu nước, niềm tin và khát vọng gửi gắm đến tương lai.

Hòa bình trở lại với chúng tôi, bố mẹ tôi trở về quê hương đoàn tụ. Bà vui mừng đến nỗi khóe mắt cứ rưng rưng.

Dù nắng hay mưa, mấy chục năm qua bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm lên bếp lửa, ngọn lửa tuổi thơ trong tôi. Ôi ngọn lửa kỳ lạ và thiêng liêng, có tắt đi rồi lại cháy lên mãnh liệt. Ngọn lửa như nhắn nhủ tôi luôn nhớ về người bà yêu thương, hi sinh vì con cháu và cả quê hương đất nước.

Dù sau này có đi xa, hưởng cuộc sống sung túc, tôi vẫn không quên hình ảnh bếp lửa và người bà hiền hậu, đồng thời luôn nhắc nhở trách nhiệm của tôi với bà cũng như quê hương, đất nước.

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 7

Có một nơi là nơi xuất phát, cũng là nơi trở về và là điểm tựa vững chắc cho con người trong hành trình sống. Nơi ấy là nhà. Nơi ấy với tôi còn có người bà kính yêu. Và để rồi, khi trưởng thành, khi đang sinh sống và làm việc tại Liên Xô, tôi lại bồi hồi, xốn xang nhớ về người bà kính yêu gắn với hình ảnh bếp lửa….

Tôi lại nhớ về hình ảnh ngọn lửa hồng ấy…Ngọn lửa có lẽ là không lạ gì trong đời sống của mỗi chúng ta. Một ngọn lửa được bà nhen lên mỗi buổi sáng sớm. Một ngọn lửa được đôi bàn tay gầy guộc của bà ấp iu, che chở để chúng có thể cháy lên và tỏa sáng…

Hình như cái ngọn lửa thân thương ấy, tôi đã quen mùi khói từ năm tôi lên bốn. Năm đó gắn với nạn đói của dân tộc- năm 1945 với hình ảnh của những người chết vì đói nằm như ngả rạ. Bố tôi phải làm việc vất vả. Đến bây giờ tôi vẫn còn cay sống mũi mỗi khi nhớ lại về những năm đó…

Rồi tám năm ròng, tôi đã bên bà, cùng bà nhóm lên những ngọn lửa hồng. Khi con tu hú kêu trên những cánh đồng xa báo hiệu một mùa hè lại về, bà ơi, bà có còn nhớ không bà? Tôi còn nhớ, khi tu hú kêu, lại gắn với những câu chuyện bà hay kể về những ngày ở xứ Huế. Tiếng tu hú tha thiết kêu mãi không ngừng… Đó là những ngày tháng chiến tranh, bố mẹ tôi bận công tác ở xa nên không có nhà. Tôi ở cùng bà, được bà dạy làm, được bà dạy học. Bà đã thay cha mẹ tôi nuôi tôi khôn lớn và trưởng thành.

Rồi năm đốt làng cháy tàn cháy rụi, hàng xóm bốn bên trở về trong cảnh lầm lụi. Bằng tình cảm làng xóm láng giềng. mọi người đã giúp bà dựng lại túp lều tranh. Vẫn vững lòng, và thêm cả sự lo lắng cho bố mẹ tôi, bà liền dặn tôi rằng:

- Bố ở chiến khu, bố vẫn còn nhiều việc lắm. Mày có viết thư, không được kể này kể nọ nghe chưa, cứ bảo nhà vẫn được bình yên để bố mẹ an tâm công tác!

Rồi hàng ngày, cứ sớm rồi lại chiều, bà vẫn tiếp tục với công việc hàng ngày của mình là nhóm lửa. Một ngọn lửa chứa tình yêu thương của bà luôn ủ ấp nơi đáy lòng, một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng của bà…

Đời bà luôn vất vả như thế. Vất vả nuôi tôi khôn lớn và ngày trước là vất vả nuôi bố tôi. Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, nhóm những bếp lửa ấp iu nồng đượm, nhóm cả những nồi khoai sắn có cả những yêu thương của bà để xây đắp cho tôi bao ước mơ, để giờ tôi có thể du học tại đất nước Liên Xô. Bếp lửa của bà còn nhóm lên cả nghĩa tình với xóm làng. Ôi bếp lửa của bà, tuy giản dị mà lại rất đỗi thiêng liêng!

Giờ đây, tôi đã đi xa, cách bà đến nửa vòng Trái Đất. Một cuộc sống mới đã mở ra trước mắt tôi. Nơi ấy, có những ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà và có niềm vui trăm ngả. Nhưng tôi vẫn chẳng thể nào tự quên nhắc nhở bản thân rằng “ Sớm mai này, bà đã nhóm bếp lên chưa?”

Bà ơi! Cháu yêu bà và cũng thương bà biết bao. Cuộc sống hiện đại dễ làm lòng người đổi thay nhưng hình ảnh của một người bà ngày ngày nhóm lên những ngọn lửa yêu thương sẽ mãi không bao giờ phai nhạt trong tâm trí cháu. Cuộc sống ở phương xa này, dù vui thật nhưng khi niềm vui tàn đi, nhất là những khi cháu ở một mình, cháu lại nghĩ về bà nơi mái nhà tranh, nơi bà kể chuyện cháu nghe, nơi bà dạy cháu học, nơi hình thành con người cháu, nơi có ngọn lửa hồng thắp lên trong cháu những ước mơ.

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 8

  Hồi ức về bếp lửa đã thổi luồng hơi ấm làm bớt đi cái lạnh lẽo của mùa đông xa quê. Nỗi nhớ quê có cha mẹ, có bà nội cứ day dứt hoài khôn nguôi. Nơi đó luôn vương vấn hình ảnh bà nội tảo tần hôm sớm. Dáng bà còng lưng thổi bếp, thổi mãi cho đến khi bếp cháy và toả ra luồng hơi ấm nồng nàn. Hơi ấm của lửa tràn khắp căn bếp nhỏ sưởi ấm tâm hồn đơn côi của hai bà cháu, sưởi ấm sự chờ mong và niềm tin vào ngày mai chiến thắng.

     Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

     Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

     Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!…

  “Tôi nghĩ rằng, chính sự quần tụ quanh bếp lửa của gia đình Việt là những ấn tượng về nét riêng biệt mà thiêng liêng giúp tôi làm nên những vần thơ đầy cảm xúc đó”. Bên lửa và cùng với lửa, những người trong gia đình kể cho nhau nghe mọi chuyện trên đời, về sự khó khăn, may mắn và thành công. Không khí ấm cúng của gia đình Việt có lẽ không bao giờ thiếu lửa. Bên lửa muôn thuở vẫn là những người đàn bà mang dáng dấp và phong cách Việt Nam. Vì thế, đương nhiên, bà và bếp lửa trở thành hình tượng gần gũi, thân thương, cụ thể và trìu mến. Bà thổi hồn cho bếp, thổi vào đó tình cảm và trách nhiệm, lòng yêu thương cũng như sự hy sinh. “Tôi nhớ mãi hình ảnh bà đun bếp, phải khó khăn mới thổi được bếp lên, giữ cho lửa thật đều, thật đậm là cả một nghệ thuật”. Những người phụ nữ Việt Nam luôn là hiện thân của sự gắn kết cuộc đời mình với bếp lửa, với sự nồng nàn ấm áp của lửa và một niềm tin không thể chuyển lay.

     “Cho đến ngày hôm nay, qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, tôi vẫn không sao quên được hình ảnh bà và ngọn lửa trong trái tim bà. Bà và bếp lửa. Hai hình tượng ấy có lẽ đã thực sự làm nên dấu ấn trong cuộc đời tôi. Bây giờ, cuộc sống thay đổi quá nhiều, bếp lửa truyền thống không còn vẻ hữu dụng của nó trong cuộc sống thường nhật nữa. Nó đã bị thay thế bằng đủ kiểu bếp nhanh hơn, tốt hơn. Cảnh xúm xít thiêng liêng quanh bếp lửa gia đình bỗng trở nên hiếm hoi hơn. Ăn uống cũng không thành vấn đề gì nặng nề nữa, từ cơm cặp lồng, đến cơm hộp rồi cơm nhà hàng, tự nhiên lại chạnh lòng nhớ tới bàn tay cần cù của bà chăm sóc nấu nướng thưở xa xưa”.

      Nhắc đến bà, vẫn thấy đâu đây cái mùi khói lan toả từ bếp của bà, sống mũi nhà thơ dường như vẫn còn cay. Bếp lửa thực ra chỉ là bếp lửa thôi, nhưng hồn bếp vẫn đi cùng năm tháng với ông, vẫn gắn với toàn bộ cuộc đời thơ ca của ông:

       Giờ cháu đã đi xa

       Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

   Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

       Sớm mai này bà đã nhóm bếp lên chưa?…

   Phải làm sao cho làn khói tan trong gió, mờ trong sương, khói ẩn vào cây, len vào rừng!”. Chính cái cay cực ấy, cái lui cui khó nhọc ấy - những kỷ niệm thú vị về một thời đạn bom mà những ai đã trải qua đều không thể nào quên được, đã tạo nên những cảm xúc để sau này.Tôi nhớ mãi câu chuyện rất nhân văn của nhà văn Nga Koronenko. Trên con thuyền lạnh lẽo, đầy sương mù, người lái thuyền liên tục động viên lữ khách rằng đằng kia có ánh lửa, sắp đến nơi rồi. Nhưng, càng đi, ngọn lửa càng xa, mãi mãi không bao giờ đến được. Đó là một triết lý mang tính nhân đạo cũng có cái gì đó thật hoài niệm xót xa. Sự ấm cúng, tưởng có thể với tới, nhưng chẳng phải dễ dàng gì…

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 9

" Đôi mắt càng già càng thấm thía yêu thương

Da dẻ dù khô đi tấm lòng không hẹp lại.

Giàu kiên nhẫn bà còn hi vọng mãi

Chỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm"

​Đó là những vần thơ của tôi – Người cháu dành cho bà nội nội kính yêu của mình giờ đây đang du học ở ucraina xa xôi tôi vẫn không thể nguôi quên bếp lửa ấm áp tình bà.

Là người Việt Nam không ai không biết đến bếp lửa được nhen lên bằng những nhiên liệu bình thường củi, rơm, rạ,… Bếp lửa tỏa sáng chờn vờn bốc cao bập bùng mỗi sớm mai gắn liền với hình ảnh người phụ nữ Việt Nam tảo tần giàu tình yêu thương giàu đức hi sinh.

Bà tôi cũng vậy bà khéo léo chi chút kiên nhẫn nhóm lửa gửi vào đó bao tình yêu thương cháu con. Nhớ về bếp lửa tôi lại bồi hồi nhớ bà thương bà trải bao mưa nắng của bà.

Trong vai người cháu kể lại chuyện Bếp Lửa

Bếp lửa không chỉ gợi nhắc tình bà mà còn gợi bao kỉ niệm tuổi thơ đó là kỉ niệm nạn đói 1945 ám ảnh day dứt cái đói hoành hành khủng khiếp gia đình tôi cũng như bao gia đình Việt Nam khác long đong mỏi mệt vì miếng ăn. Bố đi đánh xe ngựa gầy gò khô rạc mà cái đói vẫn bám riếc không tha nếu không có bếp lửa ấm áp của bà có lẽ tôi không qua được nạn đói thật khủng khiếp biết bao giờ đây nghĩ lại sống mũi vẫn cay khé quá khứ như đồng hiện ở hiện tại xóa nhòa hoàn cảnh mấy chục năm.

Kỉ niệm thứ hai là những năm kháng chiến chống thực dân Pháp mẹ và cha tôi tham gia công tác ở chiến khu bà đã thay cả cha cả mẹ nuôi dạy tôi nên người tôi ở cùng bà, bà bảo tôi nghe bà dạy tôi làm, bà chăm tôi học bà chi chút cho tôi tất cả bên ccanh bếp lửa ấm áp tình bà trong tâm thức tôi còn có tiếng chim tu hú đồng việt. Mỗi lần tu hú kêu bà hay kể lại kỉ niệm những ngày ở Huế. Tiếng chim tu hú gọi mùa càng khiến lòng tôi và bà dậy lên nỗi nhớ mong da diết cha mẹ tôi ở chiến khu. Được sống trong tình yêu thương của bà tôi càng chạnh thương con tu hú cô đơn bé nhỏ kêu da diết khắc khoải trên những cánh đồng xa.

Kỉ niệm thứ ba cũng có sức ám ảnh lớn trong tâm hồn tôi là nạn giặc càn tàn phá xóm làng ngọn lửa hung tàn bốc lên ngùn ngụt thiêu rụi nhà cửa tài sản trong mất mát đau thương bà cùng tôi và xóm làng lầm lụi trở về. Tôi cũng sớm trưởng thành lớn khôn biết đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh cảm động nhất là lời dặn của bà: " Mày có viết thư cho bố kể này kể nọ cứ bảo nhà vẫn được bình yên để bố yên tâm công tác". Bà tôi là thế đấy bà không chỉ lam lũ tảo tần giàu tình yêu thương mà còn giàu đức hi sinh bà gánh vác mọi lo toan gian khó về mình để con yên tâm công tác. Phải chăng bà tôi là hậu phương vững chắc giúp cho tiền tuyến đánh giặc. Đẩy nhanh cuộc kháng chiến đến ngày thắng lợi. Bà xứng đáng với tám chữ vàng bác Hồ trao tặng " Anh hùng bất khuất trung hậu đảm đang" Bà vừa mang nét đẹp truyền thống vừa mang nét đẹp hiện đại của người phụ nữ thời kì mới.

Từ kỉ niệm năm xưa tôi băn khoăn suy ngẫm về cuộc đời bà và hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa bà nhen mỗi chiều đã thành ngọn lửa của niềm yêu thương sẵn trong lòng bà niềm tin bà khơi thắp trong tôi. Phải chăng bà là đại diện của thế hệ cha anh giữ lửa truyền lửa, truyền niềm tin đến thế hệ tương lai mấy chục năm đã trôi qua bà vẫn luôn thức khuya dậy sớm lam lũ tảo tần trải qua bao mưa nắng cuộc đời, công việc bà làm có ý nghĩa to lớn biết bao, bà đã nhóm trong lòng tôi tình yêu thương lòng biết ơn sâu nặng từ những thứ giản dị đời thường nhất như khoai sẵn ngọt bùi, khơi thắp trong lòng tôi niềm vui san sẻ tình làng nghĩa xóm và đặc biệt bà còn khơi dậy mọi tâm tình ước vọng để tôi bay cao bay xa đến tận những chân trời mới. Ôi bếp lửa giản dị đời thường sánh ngang với điều kì lạ thiêng liêng cao đẹp.

Giờ đây tôi đã lớn khôn trưởng thành đến với những chân trời rộng mở nơi đây có bếp điện, bếp gas… Có ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả nhưng trong tiềm thức câu hỏi luôn hiện hữu trong tôi sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa. Có lẽ bếp lửa – Tình bà sẽ luôn tỏa sáng nâng đỡ nhiều con người xa xứ như tôi suốt hành trình dài rộng của cuộc đời phả chăng yêu bếp lửa yêu bà là tình cảm cội nguồn tình gia đình và rộng ra là tình yêu quê hương đất nước?

Ôi bếp lửa tình bà sao mà ấm áp đến vậy! Bếp lửa ấy đã nuôi dưỡng tuổi thơ tôi để tôi lớn khôn trưởng thành như hôm nay. Có gốc rễ của cội nguồn con người mới trưởng thành vì vậy tôi muốn nhắn nhủ các bạn trẻ hãy trân trọng những gì đáng quí nhất, giản dị đời thường quanh ta. Yêu kính ông bà gia đình, cha mẹ, anh chị em rộng ra là tình quê hương, đất nước theo đúng truyền thống của nhân dân. Thương người như thể thương thân.

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 10

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm … Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa? Cảnh vật làng quê đã gợi lại cho tôi những kỉ niệm về người bà yêu kính của mình và tình bà cháu thiêng liêng, ấm áp, thâm sâu.

“Chờn vờn sương sớm” là một hình ảnh gợi cảm, quen thuộc với phong cách sinh hoạt của những người dân quê cần cù, chịu thương, chịu khó như chúng tôi. Từ “ấp iu” là ôm ấp trong lòng một cách nâng niu. Nó đã diễn tả được tình cảm nồng nàn, sâu đậm và rất mực quý yêu của bà đối với tôi.

Vì nhớ đến bếp lửa nên tôi nhớ thương bà một đời vất vả.Cuối năm 1944, đầu năm 1945 (lúc tôi lên bốn tuổi), miền Bắc nước ta có trên hai triệu đồng bào bị chết đói. Xác người đầy đường, đầy đồng. Đúng là “năm đói mòn, đói mỏi”. Để chăm lo cho con, cha của tôi phải lao động rất cật lực, làm nghề “đánh xe”. Đến "khô rạc ngựa gầy” có sức gợi tả lớn nỗi thống khổ của người lẫn vật, đồng thời nỗi xót xa, thương cảm trong lòng độc giả cứ thế trào dâng. Chính vì vậy mà đến năm 1963 (năm tôi 19 tuổi, viết bài thơ này) cái cảm giác cay đắng, xốn xang của chuỗi ngày gian khổ, thiếu thốn vẫn còn in đậm trong tiềm thức của nhà thơ: “Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”.

Tu hú là một loài chim ăn sâu bọ, lớn hơn sáo, có lông màu đen huyền hoặc điểm những đốm trắng, hay kêu vào đầu mùa hè. Tiếng tu hú kêu báo hiệu một mùa lúa chín vàng cả cánh đồng. Tiếng tu hú thân thuộc là tiếng vọng đồng quê. Những âm thanh ấy đã khơi gợi những hoài niệm tha thiết, những nỗi nhớ mong khắc khoải trong lòng đứa cháu đang sống ở phương trời xa. Vậy nên, nỗi nhớ của tôi đã chắp cánh bay cao hòa quyện với nỗi nhớ quê hương, đất nước trăm quý ngàn yêu.

Nhân đây tôi muốn gửi lời nhắn nhủ chúng ta hãy uống nước nhớ nguồn bằng hành động kính yêu, biết ơn ông bà ruột thịt. Đó là suối nguồn tình cảm đẹp muôn thuở, là đạo lí mà mỗi con người cần phải biết bồi đắp, nuôi dưỡng trong suốt cuộc đời mình.

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 11

Công lao của bà thật to lớn , ngay từ nhỏ cháu đã không được sống trong bàn tay chăm sóc dạy dỗ của cha mẹ . Chỉ có bà là ngừơi quan tâm chăm sọc dạy dỗ cháu " bà bảo cháu nghe bà chăm cháu học " Công lao dưỡng dục của bà khó có bậc cha mẹ nào bì kiệp . Cứ thế bà đã sống cực khổ , lam lũ cả mấy chuc năm . Đời bà đã trải qua biết bao nhiều nắng mưa . Vậy mà cuộc sống của bà vẫn thế. Vẫn không có gì đổi thay . Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm . Dậy để làm việc , quét nhà , nấu ăn tất cả công việc nội trợ . Cuộc đời bà thật vất vả . Chỉ vì đất nước đang có chiến tranh nên con cái bà đều thoát li đi kháng chiến , để lại đứa cháu bé bỏng ngây thơ cho bà chăm sóc , nuôi nấng . Trong bài thơ , khi cháu nhớ về bà thì luôn gắn liến với hình ảnh bếp lửa. Có lẽ hình ảnh bếp luẳ thân quen với cháu lắm với bà lắm . Mỗi sớm mỗi chiều bà đều nhóm bếp lửa , phải chăng bà muôn nhóm lên tình thương yêu nồng ấm , nhóm lên tình cảm yêu thương mà bà dành cho cháu . Trong những năm đói mòn đói mỏi ấy có phải chăng bà cháu đã dựa vào hơi ấm tình người , tình bà cháu, niềm tin hi vọng , và chính cái bếp lửa thân quen đễ mà sống , tồn tại , để vượt qua mọi khó khăn . Chính lúc này đây ta như hình dung ra được hình ảnh 1 người bà nhỏ nhắn trong bộ quần áo nâu đắp đổi qua ngày , mái tóc bạc , đôi mắt ngời lên vẻ vị tha phúc hậu , đôi bàn tay khéo léo, và những vết nhăn do cuộc đời lam lũ . Bà ngồi bên bếp lửa , da tay sằn sùi hăn đi dấu vết thời gian cô gắng giữ cho ngọn lửa nồng đượm . " nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm " Vì ngọn luẳ này bà đã chịu bao cực nhọc trong cuộc sống . Nhóm lửa 1 công việc tuy hình sức bình thường như bao công việc khác mà trách nghiệm của người phụ nữ đảm đang phải làm , nhưng ngọn lửa của bà lại khác , ngọn lửa cao quý hơn đặc biết hơn . Ngọn lửa ấp iu nồng đượm . Từ ấp iu được dùng rất khéo là sự giao thoa , kết hợp của 2 từ ấp ủ và iu thương cộng với tính từ nồng đượm. CÓ phải chưang ngọn luẳ bà nhóm lên là tình thương , tình yêu mà ba dành cho cháu . Lúc này không chỉ tác giả cảm nhận được hơi ấm dịu dàng mà ca ta người đọc : tâm hồn cũng được sưởi ấm bên ngọn lửa thiêng liêng ấy, ngọn lửa của niềm yêu thương khoai sắn ngọt bụi , của nồi xôi gạo mới sẻ chung vui .Và đặc biệt chính ngọn lửa này , ngọn lửa đã tiu hao mấy chục năm đời của bà đã giúp cháu nên người , đã nhóm dậy cả những tâm tình của tác giả . Đên tận bây giờ , dù đã trải qua rất lâu , tác giả đã ở trong 1 cuộc sống tiện nghi , đang trên đừơng đi học vậy mà khói bếp bà nhem vẫn con hum nhèm mắt tác giả . Ngọn luẳ ấy cao cả quá, vĩ đại quá làm tác giả không thể nào quên.

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lủa bà nhen

Một ngọn luẳ lòng bà luôn ủ sẳn

Một ngọn luẳ chứa niềm tin dai dẳng....

Một lần nuẵ qua lời thơ của tác giả ta đã cảm nhận được sự khó nhọc của người bà khi ngày ngày , sớm chiều nhen bếp lửa . Tại sao bà có thể nhẫn nại hi sinh đến như vậy ! Do trong lòng bà luôn có 1 ngọn luẳ niềm tin ủ sẳn . Ngọn luẳ của niềm tin đất nước sẽ hòa bình độc lập , cuộc sống sẽ được nâng cao , không còn viễn cảnh đói nghèo nữa , đất nước sẽ thống nhất với nhau , người thân và gia đình sẽ không còn chịu cảnh thoát li nữa mà sẽ về sum họp cùng bà lúc cuối đời . Là ngọn luẳ của niềm tin đứa cháu mình sau này sẽ nên người , sẽ noi gương được cha mẹ , sẽ nhận ra được sự khó nhọc của bà trong công việc nuôi dạy cháu tù đó người cháu có thể quyết tâm học thành tài để xây dựng đất nước tươi đẹp hơn , giàu đẹp hơn . Bà luôn mong cháu sẽ cống hiến mãi không nguôi cho tổ quốc giống như Thanh Hải trong mùa xuân nho nhỏ

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 12

Nga 1963.

Ngoài trời, tuyết rơi trắng xóa. Đường phố vắng tanh, không một bóng người. Thỉnh thoảng chỉ nghe vang vọng đâu đây tiếng “cờ rộp, cờ rộp” của chiếc xe ngựa chạy vội trong đêm. Mọi nhà đều đã thắp đèn đi nghỉ. Chỉ còn le lói vài ánh đèn vàng mờ rồi bỗng vụt tắt. Tôi vẫn chưa ngủ. Cái buốt giá của mùa đông thấu tận trong tâm can khiến tôi bất giác nhớ lại những ngày tháng ấm áp của tuổi thơ. Bên chiếc lò sưởi bập bùng ánh lửa, tôi chợt nhớ đến bà, nhớ đến những hồi ức có bà ở bên, bên bếp lửa nồng đượm tình yêu thương.

Lim dim đôi mắt, tôi nhớ lại cái năm tôi lên bốn tuổi. Thời kì này, cái đói, cái thiếu thốn hoành hành khắp nơi. Ngân khố nhà nước cũng chỉ vẻn vẹn có vài đồng. Người Việt Nam quen gọi cái sự kiện kinh hoàng này là “nạn đói năm 45”. Cái đói triền miên dai dẳng, cái đói vắt kiệt sinh lực của biết bao nhiêu con người. Số người chết vì đói gấp rất nhiều lần số người chết vì bệnh tật. Những người còn lại sống vật vờ như những bóng ma trong đêm. Bố tôi đi đánh xe ngựa với con ngựa gầy còm, ốm yếu, tất cả trong mùi khói hun đến nghẹt thở, nao lòng cả tuổi thơ. Tuổi thơ của tôi không phải là vòm trời cổ tích cao rộng và nhuốm màu lãng mạn của những phép màu kì diệu, mà đúng hơn khói bếp đã bao trùm ấn tượng suốt khung trời tuổi thơ. Tôi chợt thấy sống mũi của tôi xộc lên một thứ gì đó cay nồng khiến cho hàng lệ bất giác tuôn rơi. Dư vị một thời thơ bé vẫn còn ám ảnh đâu đây, nghĩ lại vẫn thấy xót thương trong hồi ức về bà.

Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, ba mẹ tôi phải đi ra chinh chiến ngoài mặt trận. Họ gửi tôi cho bà chăm sóc. Suốt thời gian đó tôi cùng bà nhóm lửa. Tám năm chưa phải là dài so với một đời người nhưng đối với tôi, nó như kéo dài đến triền miên, vô tận bởi tám năm ấy chỉ hai bà cháu tôi nương tựa vào nhau. Bà thường ôm tôi vào lòng, bên chiếc bếp bập bùng ngọn lửa, bà kể cho tôi những câu chuyện hồi bà còn ở Huế. Vào những ngày hè rực nắng, tiếng chim tu hú kêu tha thiết nhưng nghe như khắc khoải, giục giã cả một khoảng trời. Mỗi khi nghe tu hú kêu, tôi thường đứng lặng hàng giờ, tôi nói với cánh chim ngoài đồng kia: “Tu hú ơi! Sao mày không đến ở cùng bà, sao cứ kêu hoài trên những cánh đồng xa kia vậy?”. Ba mẹ tôi đi rồi nên việc chăm sóc, dạy dỗ tôi đều nhờ cả vào đôi bàn tay bà. Bà bảo tôi những điều hay lẽ phải, bà dạy tôi những bài học bổ ích. Mỗi việc làm của bà đều thấm đượm tình yêu thương. Để có thể học ở Trường Đại học Tổng hợp KF như bây giờ có lẽ cũng đều nhờ công sức bà dạy dỗ cho tôi. Nghĩ vậy lòng tôi lại dâng lên lòng nhiệt huyết, tôi sẽ cố gắng học tập và rèn luyện thật tốt sao cho xứng đáng với những gì bà mong đợi.

Chiếc lò sưởi bỗng cháy lên dữ dội. Cái ngọn lửa đó đưa tôi về cái năm giặc đốt phá làng cháy tàn, cháy rụi. Sau những ngày tháng đi tản cư, cả dân làng trở về lầm lụi. Hàng xóm bốn bên giúp hai bà cháu tôi dựng lại túp lều tranh nhỏ để có chỗ che nắng che mưa. Gian khổ là thế, vậy mà bà vẫn vững lòng. Tôi vẫn còn nhớ như in câu nói của bà “Mày có viết thư cho ba mẹ chớ có kể này kể nọ, cứ bảo là nhà vẫn được bình yên”. Hồi đó tôi chưa đủ chín chắn để có thể hiểu được câu nói của bà. Tôi chỉ thắc mắc tại sao bà lại nói dối trong khi bà luôn dạy tôi phải luôn trung thực. Sau này tôi mới hiểu và cảm thấy xúc động vô cùng khi biết đó chính là hành động hy sinh âm thầm của bà. Bà đã nhận về mình tất cả những mất mát, khổ đau để cho ba mẹ tôi có thể yên tâm đánh giặc cứu nước. Tấm lòng của bà thật bao la, độ lượng làm sao!

Cơ hàn rồi giặc giã… lại vẫn chỉ có hai bà cháu tôi sớm tối. Tôi thương bà lắm nhưng chẳng biết làm thế nào cho bà đỡ khổ. Rồi sớm rồi chiều, ngày lại qua ngày, bà vẫn nhen lên bếp lửa và ấp ủ trong lòng ngọn lửa tình thương bà dành cho tôi, của niềm tin vào một ngày chiến thắng, các con sẽ trở về đoàn tụ. Suốt một đời gian nan, vất vả, bà tôi tần tảo chăm sóc cho con, cho cháu. Hình ảnh bà tôi với mái tóc bạc phơ luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng. Bếp lửa do tay bà nhen nhóm tỏa hơi ấm khắp căn lều nhỏ và sưởi ấm cả lòng tôi, khơi gợi những tâm tình thiết tha của thời thơ dại.

Giờ đây tôi đã trưởng thành, được Tổ Quốc chắp cho đôi cánh để bay vào bầu trời thênh thang của tri thức và khoa học. Tôi đã được khám phá biết bao điều mới mẻ nhưng tôi không bao giờ quên được hình ảnh bếp lửa bà nhen lên mỗi sớm mỗi chiều ở quê nhà. Bởi đó là cội nguồn, bởi cuộc đời tôi đã được nhen lên bởi ngọn lửa ấy. “Bà ơi, giờ đây bà đã đi xa, cháu chẳng bao giờ có thể gặp lại bà được nữa, nhưng hình ảnh bà sẽ mãi như ngọn lửa bà nhen, hừng hực cháy trong trái tim cháu để cháu có thêm động lực, để bước tiếp trên con đường tri thức”

Tôi thiếp đi lúc nào không hay. Tôi đã mơ một giấc mơ thật đẹp. Tôi lại trở thành cậu bé năm ấy và bà hiện lên thật đẹp, hiền từ và nhân hậu như bà tiên trong câu chuyện cổ tích…

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 13

Một buổi sáng tháng 9 tại Kiev trong màn sương trắng giăng phủ. Một lớp sương mờ mờ bên ngoài ô cửa kính, vắt vẻo trên cành cây, luồn lách qua mỗi gầm ô tô. Những làn sương mỏng manh như màu khói, thoang thoảng dư vị của quá khứ một thời. Xa xa, một màu hồng nhen nhóm trong đám khói của kí ức… Là bếp lửa của bà tôi. Là bà tôi …

Khói và mùi khói- những thứ đã quá quen thuộc với tuổi thơ của một đứa trẻ như tôi, ngay từ khi mới lên bốn tuổi. Khói của bếp lửa bà nhen lên mỗi ngày trong căn bếp nhỏ hẹp, khói ở ngoài kia xộc vào trong nhà. Nếu chẳng là khói, tại sao không khí ngoài kia lại âm u và xám xịt đến thể?

Những năm ấy, năm của 1945 đói mòn đói mỏi. Trẻ con không dám và cũng không được cho ra ngoài bởi những cái thây đang chất đầy ngoài đường. Mặt họ hốc hác, tiều tùy, chỉ có xương đang lả đi, đang bất động vì không thể hoạt động được nếu chỉ có không khí mà sống. Tôi chỉ dám đứng gần đó, tựa cửa đợi bố về. Đó là một cái bóng khô rạc, gầy gò cũng chẳng khác gì con ngựa mà bố đang đi cả. Những con người chẳng một chút quen biết kia hay chính người thân thích tôi vẫn đang tựa cửa hằng ngày đợi đây, liệu họ có còn sống không, ngày mai tôi có nhìn thấy họ nữa không?... Và mùi khói kia lại tràn về. Không còn gì khác trong kí ức của một đứa trẻ bốn tuổi non nớt, chỉ là một mùi khói, một làn khói. Những làn khói đủ sức làm sống mũi của tôi bây giờ vẫn còn cay.

Ngồi nơi đây, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng tu hú. Tiếng tu hú vọng về từ một nơi nào đó, rất xa. Có lẽ là từ kí ức, kí ức của tám năm ròng cùng bà nhóm lửa. Khi ấy, ngồi nơi căn bếp chật hẹp, tối tăm, tiếng tu hú gợi mở tôi về cả một thế giới mênh mông, về những điều tốt đẹp và hạnh phúc nhưng lại rất đỗi xa vời. Những khi ấy, bà vẫn thường bế tôi vào lòng. Đôi bàn tay chai sần nhẹ nhàng xoa đầu tôi, bà kể tôi nghe những ngày ở Huế. Bà kể tôi nghe về những tháng năm dân quân cùng nhau hoạt động, về cái ngày mà bà bế tôi nghe tin Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập, cái ngày mà có nước Việt Nam, có Huế độc lập.

Tiếng tu hú vẫn tha thiết, vẫn khắc khoải trong nỗi nhớ mênh mông của đứa trẻ dành cho cha mẹ. Bà bảo họ đang đi công tác, đang làm việc cho Bác Hồ, cho cuộc sống tốt đẹp hơn của hai bà cháu. Vậy là tuổi thơ của tôi gắn bó với bà còn nhiều hơn cả cha mẹ. Bà kể chuyện tôi nghe, bà dạy tôi biết làm những công việc trong nhà, biết tự lập. Bà giúp tôi chắp cánh đến gần với những con chữ, đến với tương lai. Những kí ức ấy vẫn còn tươi rói, như mới hôm qua, như vừa mới đây thôi. Rồi hình ảnh bà một mình. Hình ảnh người là lầm lũi nhóm lửa mỗi sớm mai một mình làm tôi bỗng nhói đau. Tiếng tu hú vẫn văng vẳng không nguôi. Những con người cô đơn lại sống cuộc sống đơn độc trong một cuộc đời lầm lũi của mình, không thể gặp nhau, không thể cùng hòa làm một…

Dòng kí ức xoay chuyển, chỉ còn một màu hồng rực cháy khắp nơi. Không có những căn nhà, chẳng có những mái rơm rạ, chỉ là một ngọn lửa đang cháy điên cuồng. Những ngọn lửa của giặc cháy lên cùng với nỗi đau và tức giận của những con người nơi đây vừa mới mất ngôi nhà thân yêu nhất của mình. Những khuôn mặt nhem nhuốc bước đi uể oải, tuyệt vọng từ đám tro tàn đi ra. Nhưng rồi, ngay sau đó lại là những nụ cười ấm áp. Họ hỏi thăm nhau, họ sẻ chia cho nhau, họ giúp bà cháu tôi dựng lại một túp lều mới, đong đầy tình yêu thương con người. Lúc ấy, bà vẫn nhớ mà dặn tôi rằng:

-Bố ở chiến khu còn nhiều chuyện phải lo, đừng nói gì khiến bố bận lòng. Không phải bà cháu mình vẫn bình an, và có cả một căn nhà mới rồi sao? Cứ viết thư bảo nhà vẫn được bình yên, nghe!

Nhìn khuôn mặt hiền từ với nụ cười lạc quan của bà, tôi chỉ biết gật đầu. Bà có phải tiên, phật hay không mà sao mà lại đẹp như vậy!

Sớm rồi chiều, bếp lửa ấy vẫn bập bùng mãi không tắt. Từ năm này qua năm khác, bàn tay ấy vẫn đều đặn nhóm lửa. Những củ khoai củ sắn trong những năm đói rét, trong những năm bom đạn, lửa thiêu vẫn đến tay đứa cháu, vẫn đến tay mọi người. Là khoai sắn ấy nuôi tôi lớn hay chính tình yêu thương của bà ủ trong bếp hồng, là khoai sắn hay chính tình làng xóm tạo nên niềm vui nơi xóm nhỏ? Có lẽ chính là tấm lòng của bà, là bàn tay người nhóm lửa, là đức hi sinh muôn đời của người phụ nữ Việt Nam.

Nơi tôi ở được thắp sáng trong ánh đèn điện, được sưởi ấm bên lò sưởi hiện đại, nhưng tôi vẫn thấy lạnh. Dẫu khói ở trăm nhà nhưng chẳng có điều gì có thể làm cay mắt tôi như ngọn khói năm ấy. Chẳng có món nào ngon như củ khoai ấy, lời nói nào hay như những lời mắng yêu của bà… Liệu lúc này, trong một buổi sớm mai, bà đã nhóm bếp chưa?

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 14

Nhận được thư nhà tôi vui sướng vô cùng. Ngồi bên lò sưởi, giở đọc bức thư, lòng tôi lại nhớ đến quê hương tha thiết. Mùa đông châu Âu giá rét căm căm. Căn lò sưởi lửa cháy bừng bừng nhưng vẫn không đủ ấm. Ánh sáng chói gắt và hơi ấm phả vào mặt khiến tôi chợt nhớ về bếp lửa hắt hui và hình bóng bà tôi năm xưa. Nỗi nhớ ngập tràn chiếm lĩnh hồn tôi, bâng khuân đến lạ. Hình ảnh bếp lửa hiu hắt, chờn vờn trong sương sớm và người bà hiền hậu, tảo tần sớm hôm hiện về trong trí nhớ xa mờ.

Tôi sinh ra giữa thời đói khổ cùng cực. Chính sách bóc lột tàn tệ của thực dân Pháp khiến cho đất nước kiệt quệ, người nông dân khốn khổ không sao kể xiết. Đất nước rơi vào bóng tối của cuộc khủng hoảng. Cuộc sống trở nên bế tắc. Một cảnh sống bức bối, ngột ngạt phủ khắp mặt đất.

Tôi không còn nhớ rõ tôi đã lớn lên như thế nào. Kí ức xa xăm và rõ ràng nhất là năm tôi lên bốn tuổi. Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi. Hết thiên tai, hạn hán lại đến đại dịch, sản xuất liên tục bị mất mùa, thất thu. Cái đói như bóng ma lạnh lùng len lỏi trong mọi gia đình. Đâu đó xung quanh, thỉnh thoảng vẳng nghe tiếng khóc tiễn người đi. Khói rấm um lên khắp cả làng, phủ trùm một không khí thương tang.

Bố đi đánh xe khô rạc cả ngựa gầy. Có khi bố đi nhiều ngày mới về. Còn mẹ tảo tần trên đồng dưới ruộng, sớm đi tối về để lo cuộc sống mưu sinh. Bà tôi tuổi già sức yếu ở nhà chăm nom tôi. Quẩn quanh chỉ có tôi và bà. Bà đi đâu tôi theo đấy. Bà làm gì, tôi cũng đứng cạnh. Tôi sợ hãi với những thứ có ở xung quanh. Bởi nó điêu tàn và im lặng đáng sợ.

Nhớ nhất là những lần cùng bà nhóm lửa, những làn cùng bà ngồi bên bếp lửa ấm. Khói bếp cuộn cay xè cả hai con mắt, cứ chớp lia lịa, rồi thở, nước mắt, nước mũi ròng ròng chảy. Cho đến bây giờ, mỗi khi nghĩ lại, tôi vẫn còn thấy cay cay trên sống mũi.

Không chịu được kiếp đời nô lệ lầm than, sớm giác ngộ lí tưởng Cách mạng, bố mẹ tôi thoát li đi kháng chiến, quyết chiến đấu tiêu diệt kẻ thù giành lại đất nước. Ở nhà vẫn chỉ còn lại tôi và bà tôi. Bao nhiêu năm thức dậy cùng bà là bấy nhiêu yêu thương, thấu hiểu. Hết mùa hạ, đến mùa thu, rồi đông tới, xuân sang, thời gian cứ lặng lẽ trôi đi. Đằng đẵng bao năm bố mẹ không ở nhà. Tôi cũng dần lớn lên trong vòng tay yêu thương, che chở của bà.

Tôi thương bà tảo tần khổ nhọc, bàn tay làm lụng không khi nào ngơi nghỉ. Việc đồng, việc nhà đều do một tay bà lo liệu cả. Mỗi sớm bà thức dậy, tôi cũng dậy theo bà. Bà nhóm lửa, tôi ngồi cạnh xem. Rồi tôi phụ bà nhóm bếp để bà đi vo gạo.

Ôi! Có giúp bà nhóm bếp mới thương bà cam chịu khổ nhọc đắng cay. Mùa khô nhóm lửa không khó. Nhưng vào mùa mưa và mùa đông lạnh thì đó là một việc làm kì công. Cái cúi rơm ẩm ướt thổi mãi mà không chịu cháy, cứ khói um lên mịt mù. Càng thổi mạnh, càng khói dữ hơn. Cái cúi rơm cứ lầm lì, bướng bỉnh và đáng ghét ấy. Nhiều lúc bực quá, tôi dập cho nó tắt rồi mồi lửa lại. Bà nhìn và cười bảo để bà nhóm cho.

Bố mẹ công tác không về được. Thỉnh thoảng, tôi thấy có người đến nhắn gửi cái gì đó. Biết là bố mẹ nhắn lời hỏi thăm. Bà tôi cũng dặn gửi mấy lời. Thương bà, tôi cũng ngoan lắm, luôn nghe lời bà và không nghịch ngợm bao giờ. Bà thường dạy tôi làm mọi việc, bảo rằng sau này lớn len còn biết mà làm. Bà tuổi già sức yếu, không biết sống được bao lâu, bố mẹ lại ở xa, cuộc chiến chưa biết khi nào kết thúc. Mỗi khi nhắc đến điều đó, khóe mắt bà rưng rưng muốn khóc.

Bà còn dạy tôi học. Bà nào biết chữ nên cũng không thể dạy tôi viết chữ. Bà dạy tôi đạo lí ở đời qua những câu chuyện kể. Có lẽ, cố tôi ngày xưa đã dạy bà những điều đó. Bà thuộc trong lòng và dạy lại cho cháu con. Mãi sau này, các anh chị quân giải phóng về làng và dạy tôi viết chữ, tôi mới biết viết, biết đọc.

Đêm đêm, bà ôm tôi vào lòng, kể chuyện cho tôi nghe. Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế. Rồi những chuyện ngày xửa, ngày xưa… Những câu chuyện cổ tích kì diệu đưa tôi vào thế giới thần tiên, có cái thiện và cái ác. Những câu chuyện ngụ ngôn nhắc nhở tôi phải biết sống tốt đẹp, thảo hiền. Ôi, những năm tháng thần tiên có bà là những tháng năm đầy mơ mộng và niềm vui. Tôi ước có một thần tiên nào đó đến đây ban cho bà thật nhiều điều ước. Và tôi chỉ ước là làm sao đất nước thái bình, để cho đời bà bớt khổ là tôi an lòng rồi.

Thế nhưng, đó chỉ là mơ ước thôi. Cuộc đời bà vẫn còn nhiều kham khổ. Mỗi buổi trưa hè, cái nắng hừng hực đốt lửa trên những cánh đồng khô khốc, trơ trọi, tiếng tu hú kêu khan khiến tôi không khỏi nao lòng. Tiếng tu hú khắc khoải u buồn vang lên từng nhịp. Mùa này tu hú kêu có cái gì đó khác lạ. Có phải vì đói quá mà lang thang tìm đến chốn này chăng?

Tiếng tu hú ảo não vọng về từ những lùm cây bụi rậm trên cánh đồng xa vật vờ đáng sợ. Tiếng tu hú vang lên trong buổi chiều tắt nắng, trên nghĩa địa tiêu ma mỗi khi có người chết vừa chôn cất. Âm thanh ấy ám ảnh trong tôi như một kí ức không thể phai mờ. Phải chăng nó cũng đang tìm một chỗ trú ngụ nhưng chưa tìm thấy? Nhiều lúc, tôi nghĩ sao nó chẳng đến ở cùng bà, kêu quanh vườn bà cho bớt cô đơn.

Thắm thoắt thời gian trôi đi. Cuộc chiến ngày càng ác liệt. Bố mẹ không về được. Kẻ thù tràn đến làng. Đi đến đâu chúng cướp sạch, đốt sạch đến đó. Không những cướp của con người nguồn sống, chúng còn muốn hủy diệt luôn nguồn sống của con người. Chúng là ác quỷ. Chúng không có trái tim. Bởi thế, chúng cũng không có lòng thương xót. Chúng hung hăng và cuồng bạo tràn đến gieo rắc tai họa.

Năm ấy, cả ngôi làng yên bình bỗng rực sáng. Mọi nóc nhà bao năm kiên cường trước mưa bão đều hóa thành tro. Công sức mấy mươi năm gây dựng của con người phút chốc trở thành cát bụi. Sau cuộc khủng bố ấy, mọi người trở về làng. Không đầu hàng, họ lại quyết tâm làm lại, quyết tâm gây dựng cuộc sống mới. Kẻ thù có tàn bạo, có hủy diệt bao lần đi chăng nữa cũng không thể khuất phục được họ. Bếp lửa tắt rồi lại cháy lên tin tưởng và mạnh mẽ.

Bà con xung quanh lại giúp bà tôi dựng lại túp lều tranh trên nền đất cũ. Lúc chạy giặc chẳng mang theo được thứ gì. Bà lại tay đan thúng, tay dựng lều, sửa lại cái kiềng cho thẳng, kê lại mấy cái kệ ngồi. Một không gian ấp lại hiện lên. Bếp lửa đêm ấy lại sáng. Hai bà cháu trông chờ nồi cháo chín. Một nỗi lo âu đeo đẳng trong lòng, không biết ròi mai nay sẽ ra sao?

Tuy khổ nhọc đến thế nhưng bà vẫn vững lòng, đinh ninh dặn dò tôi tha thiết rằng có viết thư cho bố thì chớ có kể chuyện nhà. Cứ bảo là nhà mình vẫn bình an, bà vẫn mạnh khỏe. Ôi, đến lúc này mà bà vẫn nghĩ cho đất nước. Dù có đâu khổ đến thế nào bà vẫn một lòng nghĩ về cuộc chiến đấu. Kẻ thù càng hung bạo thì lòng căm thù và quyết tâm đánh thắng kẻ thù trong bà càng lớn. Tôi thấu hiểu lòng bà nên “dạ” một tiếng thật rõ to.

Rồi sớm rồi chiều, bếp lửa từ đôi tay bà bừng cháy lên. Một ngọn lửa từ trong lòng bà luôn ủ sẵn. Nó cháy lên mọi lúc. Nó dai dẳng cháy mãi như niềm tin bất diệt của bà. Bà đã truyền ngọn lửa ấy cho tôi, đốt lên trong tôi một ngọn lửa ấm áp. Đó là ngọn lửa yêu nước. Đó là ngọn lửa đấu tranh, ngọn lửa của niềm tin và khát vọng đến tương lai.

Chiến tranh đi qua. Hòa bình lại đến. Niềm tin tưởng của bà đã được đền đáp. Bố mẹ tôi trở về quê hương. Ngày đoàn tụ xúc động vô cùng. Dù đã cố giấu đi giọt nước mắt hạnh phúc nhưng khóe mắt bà cứ rưng rưng. Bà lại đi nhóm lửa, nấu một cái gì đó để đãi cả nhà, ăn mừng ngày vui.

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa, kham khổ đã nhiều, đau thương cũng không ít. Vậy mà mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ, bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm lên bếp lửa nồng ấm yêu thương. Đâu phải tuổi già mất ngủ. Ấy là do bà muốn giữ ấm quá khứ đau thương mà nghĩa tình đấy thôi. Bà muốn được tận tay bà nhóm lên những niềm vui, làm nên những bữa khoai sắn ngọt bùi, cùng xóm láng giềng gần chung vui lúa mới để nhắc nhở về những tháng ngày lầm lụi xưa kia mà thêm trân trọng và mến yêu.

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa! Nó kì lạ bởi không bao giờ tắt. Có tắt đi rồi lại mạnh mẽ cháy lên. Nó cháy lên trong cả những tháng ngày mưa bão hay giá rét. Nó lại cháy sau mỗi lần kẻ thù đến và cố hủy dệt nó. Từ đôi bàn tay cằn cõi của bà lại làm cháy lên ngọn lửa ấm diệu kì. Thiêng liêng là bởi nó gắn chặt với hình bóng và tình cảm nồng ấm của bà tôi đã dành cho tôi tất cả.

Giờ tôi đã đi xa, cách tổ quốc trăm núi nghìn sông. Cuộc sống lầm than, đói khổ đã qua rồi. Cuộc sống mới hân hoan khắp mọi nơi. Thế nhưng, chẳng bao giờ tôi thôi nhớ về bếp lửa quê hương và người bà hiền hậu; chẳng bao giờ tôi quên nhắc nhở về bổn phận và trách nhiệm của tôi đối với bà tôi, đối với quê hương, đất nước tôi.

Cha ông ta đã sống kiên cường, bất khuất, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ mảnh đất thiêng liêng này. Trách nhiệm của thế hệ chúng tôi hôm nay là bảo vệ thành quả lớn lao ấy và làm cho đất nước ngày càng giàu mạnh. Tôi dặn lòng mình nhớ lấy điều ấy và tiếp tục truyền ngọn lửa kì lạ và thiêng liêng ấy đến với mọi thế hệ mai sau.

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 15

Tôi đặt chân lên đất nước Nga thấm thoắt đã được bốn tháng rồi. Ở đây đang là mùa đông. Sáng sáng, tôi thường vén rèm cửa sổ căn phòng kí túc xá sinh viên từ tầng năm để nhìn ra ngoài. Tuyết rơi trắng xóa mái vòm nhà thờ cổ kính, trên ngọn cây và mặt đường. Tôi rùng mình ớn lạnh trong mấy lớp áo len, áo khoác dày sụ. Trong tâm tưởng tôi hiện lên hình ảnh một bếp lửa chờn vờn trong sương sớm ở quê nhà. Bếp lửa toả sáng bập bùng, in bóng bà tôi chập chờn trên vách liếp. Ôi, trải qua bao mưa nắng thời gian mà bếp lửa ấp iu nồng đượm gắn liền với người bà kính yêu của tôi vẫn lung linh trong kí ức đứa cháu đang sống xa quê hương, đất nước.

Quá khứ lần lượt hiện lên như một cuốn phim quay chậm. Lên bốn tuổi, tôi đã quen mùi khói. Đó là năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra khiến cho hơn hai triệu người chết đói. Đây là hậu quả của chính sách cai trị tàn ác, vô nhân đạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật ở Việt Nam giai đoạn này. Giống như bao gia đình nông dân khác, gia đình tôi cũng đói mòn đói mỏi. Cha tôi đi đánh xe ngựa chở hàng thuê. Cả người lẫn ngựa khô rạc mà đồng tiền kiếm được chẳng đáng là bao. Cảnh đau thương, tang tóc diễn ra khắp chốn. Người ta phải đốt những đống rạ, đống trấu lớn để hơi nóng xua bớt đi tử khí. Xóm làng điêu tàn ngập trong mùi khói. Nghĩ lại, đến giờ sống mũi tôi vẫn cay cay, nước mắt muốn ứa ra.

Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Đảng và Bác Hồ lãnh đạo nhân dân vùng lên đánh Pháp đuổi Nhật, giành lấy chính quyền, chấm dứt ách nô lệ kéo dài gần thế kỉ. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Chính phủ lâm thời được thành lập và lãnh tụ Hồ Chí Minh là vị Chủ tịch đầu tiên. Cả dân tộc hân hoan, phấn khởi trong niềm hạnh phúc vô bờ của cuộc sống tự do, độc lập.

Không lâu sau, thực dân Pháp quay lại cướp nước ta một lần nữa. Đảng và Bác Hồ kêu gọi toàn dân trường kì kháng chiến. Cha mẹ tôi gửi gắm tôi cho bà ngoại để tham gia vào sự nghiệp chống xâm lăng.

Suốt tám năm ròng, tôi ở cùng bà; sớm sớm, chiều chiều quấn quýt bên bà trước bếp lửa hồng. Bà rủ rỉ kể cho tôi nghe về những ngày lưu lạc ở Huế. Tháng năm, nghe tiếng chim tu hú kêu mà khắc khoải nhớ quê nhà. Cha mẹ tôi công tác xa, biền biệt không về. Quanh quẩn ra vào chỉ có hai bà cháu nên bà đã dồn tất cả tình yêu thương cho đứa cháu bé bỏng là tôi. Bà dạy tôi điều hay lẽ phải. Bà là người thầy đầu tiên dạy tôi tập đọc, tập viết những chữ đầu tiên trong cuộc đời. Tôi lớn dần lên trong vòng tay bao bọc của bà. Mỗi lần nghe tu hú kêu, tôi lại thầm hỏi: “Tu hú ơi! Sao mày chẳng đến ở cùng bà mà cứ kêu hoài trên những cánh đồng xa như vậy?”

Cuộc kháng chiến chống Pháp đã bước vào giai đoạn quyết liệt. Giặc Pháp đánh tràn ra mọi nơi. Chúng đi đến đâu cướp sạch, đốt sạch, giết sạch đến đó, gây ra tội ác ngút trời đối với dân ta. Giặc càn vào làng tôi, mấy trăm ngôi nhà bị đốt cháy tàn, cháy rụi. Sau những ngày tản cư, dân làng lầm lụi kéo về, dựng lại những ngôi nhà đơn sơ trên nền đất vương vãi tro than. Họ giúp bà cháu tôi dựng tạm túp lều tranh nho nhỏ góc vườn. Bà bình tĩnh dặn tôi: “Bố mẹ cháu ở chiến khu, bận nhiều việc lắm. Nếu có viết thư, cháu nhớ viết rằng ở nhà, mọi chuyện vẫn bình thường để bố mẹ yên tâm”. Tôi hiểu lòng bà, càng thêm yêu quý bà hơn. Ngày lại qua ngày, bà vẫn nhen lên bếp lửa và ấp ủ trong lòng ngọn lửa niềm tin vào một ngày chiến thắng; các con sẽ trở về đoàn tụ.

Suốt cuộc đời gian nan, lận đận, bà tôi tần tảo, chăm lo cho con, cho cháu. Hình ảnh bà tôi mái tóc bạc phơ, thân hình còm cõi luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng. Bếp lửa do tay bà nhen nhóm tỏa hơi ấm khắp căn lều nhỏ và sưởi ấm lòng tôi, khơi dậy những tâm tình thiết tha của thời thơ dại. Giờ đây, tôi đã trưởng thành, được Tổ quốc chắp cho đôi cánh để bay vào bầu trời thênh thang của tri thức và khoa học. Bàn chân tôi đã in dấu trên những nẻo đường xa xôi. Mắt tôi đã được nhìn thấy nhiều điều mới lạ. Nhưng tôi không bao giờ quên hình ảnh bếp lửa mà bà tôi ấp iu nhen lên mỗi sớm, mỗi chiều ở quê nhà. Tôi ao ước được về ngay bên bà, ôm chặt lấy bà mà thủ thỉ: “Bà ơi! Bà kính yêu của cháu ơi! Bà chính là người giữ lửa, truyền lại ngọn lửa của sự sống và niềm tin bất diệt cho các thế hệ con cháu của mình!”. Hình ảnh người bà kính yêu cùng bếp lửa hồng mãi mãi theo tôi suốt cả cuộc đời. ủ Suốt tám năm ròng, tôi ở cùng bà; sớm sớm, chiều chiều quấn quýt bên bà trước bếp lửa hồng. Bà rủ rỉ kể cho tôi nghe về những ngày lưu lạc ở Huế. Tháng năm, nghe tiếng chim tu hú kêu mà khắc khoải nhớ quê nhà. Cha mẹ tôi công tác xa, biền biệt không về. Quanh quẩn ra vào chỉ có hai bà cháu nên bà đã dồn tất cả tình yêu thương cho đứa cháu bé bỏng là tôi. Bà dạy tôi điều hay lẽ phải. Bà là người thầy đầu tiên dạy tôi tập đọc, tập viết những chữ đầu tiên trong cuộc đời. Tôi lớn dần lên trong vòng tay bao bọc của bà. Mỗi lần nghe tu hú kêu, tôi lại thầm hỏi: “Tu hú ơi! Sao mày chẳng đến ở cùng bà mà cứ kêu hoài trên những cánh đồng xa như vậy?”

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 16

Trong cuộc đời ,ai cũng có cho riêng mình những kỉ niệm thời ấu thơ hồn nhiên trong sáng. Những kỉ niệm ấy là thiêng liêng và thân thiết nhất . Nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời . Tôi nhận thức sâu sắc điều đó nhờ văn bản “ Bếp lửa” của Bằng Việt . Hình ảnh người bà, bếp lửa  và tình bà cháu in đậm trong tâm trí tôi . Và sự ám ảnh đó theo tôi vào giấc ngủ …

Thời gian trôi , tôi là một sinh viên ngành luật tại Maxcơva .Tôi có người bạn rất thân thiết tên là Việt Bằng.Việt Bằng rất nổi tiếng trong giới sinh viên du học tại Liên Xô. Anh làm thơ rất hay.Tôi đã đọc và rất thích bài thơ “ Bếp lửa” của anh.

Nhân dịp tết cổ truyền ở quê nhà, nhóm sinh viên xa nhà chúng tôi tổ chức nấu bánh chưng  , bánh tét . Bên ánh lửa bập bùng tôi được nghe câu chuyện về tuổi thơ của anh Việt Bằng . Anh kể trong nỗi xúc động về tuổi thơ và nỗi nhớ nhung về người bà giấu yêu của mình.

Bằng giọng chậm rãi bùi ngùi , đôi mắt như đắm chìm trong quá khứ ,Anh tâm sự :

- Các bạn ơi ! Thời gian trôi qua hơn hai mươi năm rồi . nhưng mỗi lần nhìn bếp lửa tôi lại nhớ về bếp lửa , quê hương ,bếp lửa tuổi thơ .hồi ức bếp lửa làm bớt cái lạnh lẽo của mùa đông xa quê , nỗi nhớ quê ,cha mẹ . Ở trời Tây này, tuyết thường rơi trắng xoá. cái lạnh ở nơi đây làm tôi liên tưởng đến bếp lửa của quê nhà chờn vờn trong sương sớm. Bếp lửa toả sáng bập bùng, in bóng bà tôi trên vách bếp. Bếp lửa luôn vương vấn hình ảnh bà nội tôi tần tảo sớm hôm . Dáng  bà cong lưng thổi bếp ,thổi mãi cho đến khi bếp cháy và tỏa luồng hơi ấm nồng nàn . Hơi ấm của tình thương, của niềm tin và hi vọng . Ôi hình ảnh bếp lửa vẫn lung linh trong kí ức của dù trải qua bao mưa nắng thời gian. Tôi nghĩ rằng chính sự quần tụ quanh bếp lửa của gia đình Việt là ấn tượng thiêng liêng mà tôi không bao giờ quên được.

Nói đến đây anh đừng lại và chìm trong suy tư. Tôi không muốn phá vỡ mạch suy nghĩ của anh nhưng trí tò mò của tôi đã thắng. tôi vội hỏi:

- Hồi nhỏ anh sống với bà à? Chắc có nhiều kỉ niệm lắm ?

- Tuổi thơ của tôi được sống bên bà, cùng bà nhóm lửa là tuổi thơ với nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn.Hồi quê hương tôi khổ lắm , chiến tranh mà ! Năm 1945 cả nước đang lâm vào cảnh đói khủng khiếp khiến hơn hai triệu người chết ,gia đình tôi cũng không ngoại lệ. Bố tôi còn con ngựa để đánh là may mắn lắm . Cả xã hội đói mòn đói mỏi . Trong những năm đói khổ đó , tôi và bà gắn bó với nhau . Bà không bao giờ để tôi đói hay thiếu bữa ăn nào . Bà mót từng củ khoai , lượm từng củ sắn để có cái ăn cho tôi .  Bà như bà tiên,  xua tan đi cái  không khí ghê rợn đầy tử khí của năm đó . Tôi nhớ mãi cái ” mùi khói “ .Hơn hai mươi năm rồi , khói vẫn làm cay mắt tôi. Cái “ cay “  của những kỉ niêm đói khổ, càng  “cay “ tôi càng nhớ bà và thương bà hơn.

Tôi lặng đi , không dám cất lời  hỏi tiếp . Thời gian trôi trong thinh lặng . Một lúc sau , đè nén xúc động , Việt Bằng kể tiếp: Cả quãng đời tuổi thơ tôi sống cùng bà. Trong tám năm ấy , đất nước có chiến tranh , hai bà cháu phải đi tản cư còn bố mẹ tôi thì đi công tác . Chỉ có tôi và bà , bà phải xoay sở nuôi thân mình và nuôi cả cháu . Thời gian ấy , tuy đói khổ với tôi lại là niềm hạnh phúc vô bờ . Suốt tám năm ròng, tôi ở cùng bà, sớm sớm chiều chiều cùng bà nhóm lửa. Bà kể cho chúng tôi nghe những ngày lưu lạc ở Huế. Trong khói bếp , chập chờn mở ảo , bà như bà tiên hiện ra từ trong những câu chuyện bà kể. Đối với tôi , bà là cha , là mẹ. Trong những năm sống, cùng bà , bà chăm lo tôi từng miếng ăn , từng giấc ngủ và bà còn là người thầy đầu tiên của tôi . Tôi lớn lên trong sự chăm sóc , dạy bảo của bà.Bà dạy tôi cách sống , cách làm người và những bài học đó đi theo tôi suốt cuộc đời . Là hành trang tôi luôn mang theo bên người . Bây giờ nghĩ lại, tôi đi xa rồi bà ở với ai , ai cùng bà nhóm lửa , ai cùng bà chia sẻ những ngày ở Huế ?. Mỗi lần nghe tiếng chim tu hú kêu, lòng tôi trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong, muốn được ở gần bà, sợ phải xa bà. Đang kể bỗng Việt Bằng dừng lại , nhìn mông lung rồi đột ngột cất tiếng ngâm thơ :

“ Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa “ .

Tôi lặng người và cảm thông cho nỗi lòng của anh , cảm thông với  nỗi nhớ bà của đứa cháu nơi xứ người .Tim tôi thổn thức , lòng dâng trào cảm xúc . Hình như nơi quê nhà tôi cũng có ngươi bà đang mong chờ tôi về. Đang miên man trong suy nghĩ của mình, tôi nghe tiếng Việt Bằng kể tiếp :

- Chiến tranh khốc liệt vô cùng. Nó gây ra bao đau khổ . Bà cháu tôi cũng là một nạn nhân của chiến tranh . Gia đình tôi bị chia cắt , bố mẹ tôi công tác bận không về, nhà cửa bị đốt trụi … Nhưng cuộc sống càng khó khăn , cảnh ngộ càng ngặt nghèo thì bà càng thêm vững vàng . Nhớ năm đó túp lều tranh của bà cháu tôi bị đốt .Không còn chốn nương thân . Bà dẫn dắt tôi qua hết mọi khó khăn . Bà cấm tôi kể này ,kể nọ trong bức  thư viết cho bố . Bà không muốn bố tôi đang bận việc nước , lo lắng cho nhà . Lời dặn của bà giản dị nhưng chứa biết bao tình cảm . Ôi, bà ơi ! hồi ấy đầu óc non nớt của cháu đâu thấu hiểu tấm lòng hi sinh vì nước của bà . Tấm lòng của bà cao cả chan chứa yêu thương .

Kể đến đây đôi mắt Việt Bằng đã nhòa loẹt . Tôi cũng bồi hồi xúc động lẫn khâm phục ngươi phụ nữ anh hùng.

-Bà của anh thật tuyệt vời ! Bây giờ bà của anh còn không ? Làm gì?

Đè nén xúc động , Việt Bằng cười rất tươi , vội vã trả lời :

-Còn … Bà tôi rất còn khỏe và vẫn dậy sớm nhóm bếp nấu nước , nấu cơm . Nhắc đến bà , tôi không quên được hình ảnh của bà với bếp. Hình ảnh bà tôi mái tóc bạc phơ, thân hình còm cỏi luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng. Bếp lửa do tay bà nhóm lên toả hơi ấm khắp căn lều nhỏ và suởi ấm lòng tôi, khơi dây ở tôi những tâm tình của thời thơ dại. Bà và bếp lửa , hai hình ảnh ấy thực sự đã ghi dấu ấn lên cuộc đời tôi. Bây giờ cuộc sống đã thay đổi qua nhiều , bếp lửa truyền thống đã không còn hữu dụng nữa . Nhưng tôi mãi không bao giờ  quên được hai hình ảnh đó. Bếp lửa là tình bà nồng ấm, bếp lửa là tay bà chăm chút, bếp lửa gắn với những khó khăn gian khổ của đời bà. Ngày ngày bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui , sự sống, niềm yêu thương chăm chút dành cho tôi và mọi người. Bà không những là người nhóm lửa, giữ lửa, mà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin , sự sống cho tôi. Bà là người phụ nữ Việt Nam muôn thuở với vẻ đẹp tần tảo , nhẫn nại và đầy yêu thương. Giờ đây tôi đã trưởng thành. Tôi có những niềm vui mới, tình cảm mới, bến bờ mới. Tổ quốc đã chấp cánh cho tôi bay vào bầu trời thênh thang của tri thức khoa học,nhưng tôi không thể nào quên hình ảnh bà gắn với hình ảnh bếp lửa mà bà tôi ấp iu nhen lên mỗi sớm, mỗi chiều ở  nơi quê nhà.

Lắng nghe Việt Bằng thộ lộ tâm sự , tôi bồi hồi xúc động về hình ảnh người bà thiêng liêng cao cả. Để đất nước được hòa bình , những người bà , người mẹ đã  âm thầm hi sinh . Trong tôi dâng tràn lên một niềm tin cao đẹp đất nước ngày càng phát triển khi còn những người mẹ , người bà như thế . Câu truyện của Việt Bằng gợi tôi nhớ về quê hương , gia đình và càng thấm thía hơn tình cảm gia đình , ông bà , cha mẹ . Quê hương là bến bờ hạnh phúc sưởi ấm tâm hồn những đứa con xa xứ như chúng tôi

Qúa nửa đêm , giờ đã sang giờ giao thừa ở Việt Nam ,bếp lửa đã tàn , chúng tôi chia  nhau về phòng để kịp gởi lời chúc xuân tốt đẹp về Việt Nam . Viết xong lời chúc , Tôi lên giường đi ngủ .

-  Reng ! Reng ! Reng !

Tiếng chuông báo thức vang lên . Giời tôi mới nhận ra mình đã có một giấc mơ thật đẹp . Nhưng sao tôi vẫn cảm nhận được cái lạnh của nước Nga.Cái lạnh nhưng lại ấm áp tình cảm gia đình. Những gì là thân thiết nhât của tuổi thơ  mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời phải không các bạn ? Tình yêu thương , lòng biết ơn trong gia đình chính là cội nguồn của tình yêu quê hương đất nước, con người. Tôi thầm hứa mình phải biết yêu quý và bảo vệ hạnh phúc mình đang có.

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 17

Mùa đông ở Liên Xô lạnh cắt da cắt thịt, nhà nào cũng giữ cho lò sưởi nhà mình luôn nóng, khói từ các ống trên mái nhà liên tục bây lên quyện vào mây trời. Giấu mình trong chiếc áo khoác dày sụ từ trường về nhà khi trời đã chập tối, khi nhìn lên bầu trời, tâm trí tôi lại hoa lên lạ thường bởi hình ảnh làn khói xa lạ kia khiến lòng mình nhớ đến những điều thân thương ở quê nhà. Đó là hình ảnh bà tôi bên làn khói nơi bếp lửa cũ, hình ảnh nuôi sống tuổi thơ tôi, hình ảnh mà cả đời tôi sẽ không bao giờ quên được.

Đã mấy năm tôi không về lại Việt Nam nơi tổ quốc thân thương mà nình sinh ra và lớn lên nhưng không ngày nào tôi nguôi suy nghĩ về quê nhà cùng việc tìm hiểu thông tin về cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Không chỉ vì thói quen khi nhớ nhà mà đó còn là sự không yên lòng cho những người thân yêu. Không biết bà tôi giờ ra sao… Tôi sinh ra trong hoàn cảnh đất nước trong cuộc chiến bảo vệ độc lập gian nan, đã sớm chứng kiến đủ mọi khó khăn. Lên bốn tuổi, khi đã có kí ức và ý thức về mọi thứ, ý thức sâu sắc nhất đó là về mùi khói bếp của bà. Đó là những năm đói kém, mất mùa, dân ta một cổ ba tròng bị giày xéo dưới gót giày bọn cướp nước. Cha tôi lúc ấy là phu xe, con ngựa gầy ngày ngày theo cha ra thị trấn rồi lại quay về với bộ dạng thất thiểu gầy yếu vì không có gì ăn trong nhiều ngày, cha không có khách, nhà chắc túng thiếu lắm, ấy vậy mà trong kí ức của tôi thì bếp lửa của bà chưa lúc nào tắt, tôi cũng chưa phải đói rết ngày nào. Lớn lên tôi mới hiểu đó là biết bao công sức tần tảo hôm sớm, hi sinh, chắt chiu của cha mẹ, nhất là của bà để giữ sự ấm nóng cho bếp lửa, để giữ lấy sự sống cho gia đình, có đủ cơm no ấm áo cho đứa cháu trai. Nghĩ đến hương khói ngày ấy, sống mũi tôi bất giác cay lên, có lẽ mùi hương ấy sẽ chẳng thể nào phai và đáng quý hơn bất kể mùi hương lạ nào.

Tôi lớn hơn vài tuổi, đó là lúc cuộc kháng chiến của dân tộc đi vào gian nan nhất, cha mẹ vào chiến trường, để lại tôi cho bà nuôi dạy. Những năm tháng ấy tiếng chim tu hú luôn ám ảnh tâm thức tôi, nó xuất hiện mọi lúc mọi nơi làm cho con người ta não lòng, tôi chợt nhớ cha, nhớ mẹ biết mấy. Khi ấy ở làng chưa có trường, bà là người dạy tôi đọc sách viết chữ, dạy tôi nhóm lửa, làm mọi thứ, bảo ban tôi từng li từng tí một,… Bà còn hay kể chuyện ngày xưa khi gia đình còn ở Huế, tôi còn chưa biết Huế ra sao nhưng nó hiện lên trong lời kể của bà thật đẹp thật đáng ước mơ. Nhưng đột nhiên tôi lại thấy thương bà mỗi khi màn đêm buông xuống. Bóng lưng bà gầy gò in trên vách lều khi đèn dầu được đốt lên, có lẽ, nếu không vì tôi, tấm lưng kia đã không gầy đến thế. Và tôi nhớ đến tu hú, thay vì kêu não lòng người ngoài cánh đồng xa vắng, chúng đến ở đây với tôi, với bà, có lẽ hai bà cháu sẽ bớt phần cô đơn hơn.

Nhưng cuộc sống yên bình rồi cũng qua. Năm ấy, quân giặc tràn đến làng, đốt nhà, cướp của, bắt người,… tội ác để không biết đâu cho hết. Căn nhà nhỏ bé đơn xơ xưa kia đâu còn, hia bên làng xóm thương hai bà cháu côi cút, giúp đỡ dựng được túp lều tranh để che mưa, che nắng. Tôi liền muốn viết thư cho cha kể cha mẹ nghe về việc ấy nhưng bà bảo: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, con có viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên để bố mẹ yên tâm mà đánh giặc cùng mọi người”. Vậy là trong lá thư ấy chỉ có nỗi nhớ tôi dành cho cha mẹ và như lời bà tôi nói nhà vẫn được bình yên. Khi ấy tôi cứ thắc mắc mãi vì sao bà không cho tôi kể về việc nhà bị giặc đốt, nhưng khi lớn lên tôi mới thấy hết sự kiên cường của bà. Bà không muốn cha mẹ tôi lo, bà chọn cách tự mình gánh vác việc nhà để con cái lo toan việc đất nước, đánh giặc, bảo vệ độc lập. Bà có niềm tin vững chắc vào cuộc kháng chiến của dân tộc ta, có một lòng lặng lẽ hi sinh cao cả. Có lẽ không chỉ bà tôi mà tất cả những người bà người mẹ của dân tộc đều kiên cường như thế.

Nay tôi đang được đón nhận nền học vấn ở một nơi xa yên ổn và an bình nhưng không ngày nào tôi thôi nhớ về quê hương, nhớ về bà tôi. Mấy chục năm nay, bà vẫn tần tảo sớm hôm một nắng hai sương như vậy và trong những lá thư gửi qua tôi biết bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm bếp. Ở nơi quê nhà chỉ có một mình nhưng bà có bà con lối xóm cùng chia ngọt sẻ bùi nên cũng ắp đầy tình thương mến. Và có lẽ ở đó, bà nhóm lên bếp lửa từng ngày là để giữ lại hơi ấm lửa của tuổi thơ cho đứa cháu một ngày trở về sẽ ngồi lại bên hơi ấm ấy mà ôm bà. Ngọn lửa ấy chính là ngọn lửa thiêng liêng và kì diệu nhất cuộc đời tôi, là ngọn lửa đại diện cho sự sống và tình yêu không bao giờ tắt.

Giờ ở nơi đất khách, tôi vẫn không sao quên được mùi khóm của bà, hơi ấm lửa của bà, dù sau này có đi đâu xa, có ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả thì hạnh phúc của tôi cũng chỉ đặt ở ngọn lửa do chính tay bà nhen mà thôi.

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 18

Thời gian trôi qua thấm thoát nhanh nhưng có lẽ đọng mãi trong làng tôi – người cháu là cả một chuỗi kỉ niệm dài tuổi thơ khi sông bên bà, tuy lúc đó cuộc sống còn nhiều khó khăn thiếu thốn , nhọc nhằn nhưng tình cảm bà dành cho cháu vẫn không thể xóa nhòa.

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi ,

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Cái “ năm đói mòn đói moit” chính là năm 1945. Nạn đói khủng khiếp xảy ra. Người chết như ngả rạ. Người sống thì “ dật dờ như bóng ma”. Hoàn cảnh khó khăn,thiếu thốn của hai bà cháu cùng cái khốn khó chung của những người lao động lúc ấy. Bao năm trôi qua nhưng nhớ về tuổi thơ cháu thấy “ sống mũi còn cay” . Cháu nhớ về những kỉ niệm là nhớ về bếp lửa , nhờ về tình cảm bà dành cho cháu trong suốt tám năm cháu ở bên bà.

Mẹ và cha đi công tác, cháu ở cùng bà – bà là người cháu kính yêu, tôn trọng nhất. Chính vì thế khi xa quê hương, hình ảnh bếp lửa , hình ảnh bà ,hình ảnh cuộc sống thường hiện lên trong tâm trí cháu :

Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế,

Mẹ cùng cha công tác bận không về,

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Cháu nhớ rất nhiều tình cảm bà danhc ho cháu trong những năm ba mẹ đi công tác . “ Bà bảo”,” bà dạy” , “bà chăm” đó có phải tình thương bao la, sự chăm chút hêt mình mà bà đã dành cho cháu không? Thật sâu sắn và cảm động biết bao, bà ơi !!! Hồi đấy mỗi lần “nhóm bếp lửa” cháu lại “ nghĩ thương bà khó nhọc”. Tiếng chim tu hú kêu tha thiết mỗi độ hè về như giục giã , như khắc khoải một điều gì da diế lắm , khiến lòng cháu trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong. Tiếng chim ấy gọi một tình cảnh thậy vắng vẻ , nhớ mong mà cả hai bà cháu đề đang nhớ tới người cha đang hoạt động cách mạng ở chiến khu , người mẹ đang đi công tác.

Nhớ về kỉ niệm cháu còn nhớ về những năm tháng chiến tranh khốc liệt :

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Nhà cửa bị đốt cháy rụi . Bà con giúp hai bà cháu mình dựng lại * túp lều tranh” .Nhưng hai bà cháu mình vẫn vững lòng tin. Bà vẫn dặn cháu :

"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!".

Trong tâm trí cháu, hình ảnh của bà hiện lên thật đẹp, thật nhân hậu và cũng thật vững vàng. Bà không chỉ là người chăm chút cháu, bà còn là điểm tựa tinh thần cho cháu khi cha mẹ cháu vắng nhà.

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 19

Đã nhiều năm xa quê hương nhưng cháu vẫn luôn nhớ về nơi đã gắn bó với những kỷ niệm tuổi thơ của cháu. Cháu nhớ nhất đó chính là những kỷ niệm về bà, về bếp lửa đã từng ám ảnh vào tâm trí cháu trong biết bao năm tháng.

Dường như những lí ức tuổi thơ về những năm tháng vô lo, vô nghĩ bên người thân luôn là quãng thời gian êm đềm, thân thương nhất. Những ký ức ấy vượt qua biết bao thăng trầm của thời gian và luôn đọng lại trong tâm trí của mọi người. Đối với riêng tôi, khi đang ở xứ sở Bạch Dương xa xôi, mỗi khi có những giây phút tĩnh lặng thì tôi luôn nhớ bà bà. Khi nhìn thấy làn khói tỏa ra từ những ngôi nhà ở đằng xa thì tôi luôn nhớ về cái bếp lửa hồng ngày nào.

Từ dòng hoài niệm ấy, những ký ức chợt ùa về khiến tôi nhớ lại những đêm đen bị bủa vây bởi cái đói mòn đói mỏi. Tại ngôi làng nhỏ mà tôi sinh sống thì cũng không tránh khỏi cảnh nghèo đói thê thảm. Đó chính là những tháng ngày cơ cực. Mọi người dường như đang phải thoi thóp, giành giật lấy sự sống. Cũng trong hoàn cảnh đó, bố tôi phải lên thành phố chạy xe thuê gầy rạc cả người. Lúc ấy tôi mới chỉ bốn tuổi nhưng cái đói nghèo cùng cực của năm Ất Dậu giống như một nỗi ám ảnh khiến tôi không thể nào quên được. Trong không khí dấy lên mùi khói, mùi tử thi. Chính cái khói của bếp lửa đã phần nào xua đi, át đi cái mùi ghê rợn đó. Thứ khói vốn tưởng rằng khét lẹt, khiến người khác không thở nổi nhưng lại là thứ hương thơm được nhen nhóm lên từ tình yêu nồng hậu của bà đã sưởi ấm trái tim của tôi. Thậm chí mùi khói ấy đã bá theo tôi trong suốt thời gian dài, cho tới tận bây giờ vẫn làm tôi cay sống mũi mỗi khi nhớ lại.

Sau khi cuộc kháng chiến nổ ra, bố mẹ tôi thoát ly và đi theo tiếng gọi của Cách mạng, lên đường vì Tổ quốc. Trong thời gian dài đằng đẵng gần chục năm trời tôi sống trong sự đùm bọc, che chở của bà. Bà lúc nào cũng tần tảo, lo lắng và chăm chút cho tôi từng chút một. Mỗi sớm tối tôi đều thấy hình ảnh bà cặm cụi nhóm bếp lửa để sưởi ấm cho tôi. Trong những năm tháng ấy, còn có một nhân chứng khiến tôi cũng không sao quên nổi đó chính là chim tu hú. Giữa bối cảnh không gian của cái đói nghèo bủa vây thì tiếng tu hú kêu ôi sao nghe lạc lõng, bơ vơ. Tiếng kêu giống như sự khát khao được chở che. Tiếng tu hú giống như sự khắc khoải xé tan không gian ảm đạm, buồn vắng nhưng lại tăng thêm sự bất hạnh, thương cảm cho người nghe. Tôi thương con tu hú, thông cảm cho sự bơ vơ của nó. Đi đôi với đó thì tôi lại rất trân trọng những gì mà tôi đã và đang nhận được từ người bà của mình. Bà đã cho tôi một tuổi thơ tuy còn có nhiều thiếu thốn về vật chất nhưng lại chan chứa tình yêu thương, bao bọc. Càng thương con chim tu hú bao nhiêu thì tôi càng thêm trân trọng, biết ơn những gì bà đã dành cho tôi.

Nhớ những ngày bên bếp lửa, tôi lắng nghe những trải lòng của bà về cuộc đời, về những ngày bà còn ở Huế. Thế mới biết bà tôi đã trải qua rất nhiều khổ cực. Dường như tôi đã cảm nhận được bà đang gửi gắm những hi vọng, ước mong vào người cháu bé bỏng đó là tôi. Cũng tại nơi góc bếp ấy bà đã chăm chút cho tôi từng chút một, từ bữa ăn cho đến giấc ngủ. Bà chính là người thầy đầu tiên của tôi bởi bà đã dạy tôi rất nhiều bài học quý giá. Những bài học về làm người, đã chắp cánh ước mơ trong tôi. Chính bà đã đem lại hơi ấm khiến tôi không cảm thấy buồn tủi khi không được sống cùng mẹ cha.

Suốt thời gian dài đằng đẵng ấy cuộc sống vẫn rất khắc nghiệt. Đau đớn nhất chính là ngày tiếng bom đạn vang lên đã phá hoại ngôi làng của bà cháu tôi. Khi ấy dù bà đau đớn nhưng vẫn gồng mình không gục ngã, buông xuôi để dắt tôi vượt qua hoàn cảnh cùng cực đó. Cũng nhờ hàng xóm mà bà cháu tôi dựng lại được căn nhà nhỏ trên mảnh đất xưa. Chính lúc lại thấy bà nhóm lửa tôi thấy những thứ trước kia bị ngọn lửa hung tàn của bom đạn thiêu trụi nay như được hồi sinh vậy. Ngọn lửa bền bỉ đeo bám tuổi thơ của tôi cũng trường tồn mãi theo thời gian.

Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa 20

Tuổi thơ của tôi gắn liền với hình ảnh của người bà tần tảo, suốt những năm tháng đầy khó khăn nhất bà đã luôn cùng tôi trải qua mọi biến cố. Đối với tôi bà chính là người mà tôi yêu thương, kính trọng nhất trên đời, mọi kí ức của tuổi thơ tôi cũng đều chứa đựng những hình dáng của bà, bởi vậy mà nói về tuổi thơ, kỉ niệm của một thời hồn nhiên trong sáng thì có lẽ kỉ niệm đẹp nhất trong tôi đó chính là kỉ niệm về người bà dấu yêu.

Hình ảnh tuổi thơ tôi cứ ồ ạt ùa về, đó chính là hình ảnh bếp lửa mà tôi vô tình bắt gặp, nó đưa tôi về những kí ức của tuổi thơ, là khoảng thời gian sống cùng bà. Hoạt động quen thuộc trong ngày của hai bà cháu chính là nhóm lửa. Những hình ảnh ngọn lửa chờn vờn trong sương sớm, những ngọn lửa thắp lên tình yêu thương dường như cháy bỏng trong tôi, gợi cho tôi về hình ảnh của người bà. Trong những ngày tháng sống cùng bà, bà tôi đã vất vả dãi dầu nắng mưa để cho tôi có một cuộc sống đủ đầy, tốt đẹp hơn:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mất nắng mưa”

Không biết tự khi nào, bếp lửa đã trở thành thứ quen thuộc trong cuộc sống của tôi, khi lên bốn tuổi thì hình ảnh bếp lửa đã in sâu vào trong tâm trí, tôi cũng dần quen với mùi khói bốc lên từ bếp lửa, đó là hơi ấm thân thuộc như chính tuổi thơ của tôi. Tôi còn nhớ rất rõ đó là năm đói kém mất mùa, khiến cho cuộc sống của hai bà cháu cũng như những người hàng xóm xung quanh vô cùng khổ cực, vất vả. Để kiếm thêm kế sinh nhai cho cả gia đình, bố tôi đã phải đi đánh xe thuê.

Tần xuất công việc vất vả không chỉ khiến cho bố tôi thêm những mệt mỏi mà ngay cả những người bạn đồng hành cùng bố tôi, đó là con ngựa cũng khô dạc người. Kí ức về cái đói cái khổ vẫn hằn sâu trong tâm trí mà sau này mỗi khi nhớ lại thì khóe mắt tôi lại cay cay, đó là cái cay do khói bếp nhưng cũng là cái cay do cuộc sống mang lại:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun làm nhoèn mắt cháu

Nghị lại đến giờ sống mũi còn cay”

Tám năm ròng tôi đã cùng bà đốt lửa, những kỉ niệm cũng vì vậy mà ngày càng nhiều, hai bà cháu cùng nhau trải qua những khó khăn, những biến cố của cuộc sống. Trong mỗi kí ức của tôi đều có bà, đó chính là những tiếng tu hú vang vẳng trên những cánh đồng xa, là những câu chuyện thú vị, hấp dẫn mà bà kể khi còn ở Huế. Tiếng tu hú vẫn da diết kêu sao mà tha thiết, sao mà xao xuyến thế, đến bây giờ những tiếng kêu vẫn vang vẳng trong tâm trí của tôi những thanh âm trầm bổng gợi nhớ:

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tú hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”

Cuộc sống của hai bà cháu đơn độc vì bố mẹ tôi đi công tác xa nhà, mái nhà nhỏ đơn sơ chỉ có hai bà cháu nương tựa, che chở lẫn nhau. Nhưng cuộc sống của tôi không hề đơn độc, đó là bởi vì có bà, có tình yêu và hơi ấm của bà. Bà không chỉ nuôi dưỡng tôi trưởng thành mà còn dạy bảo tôi những điều hay lẽ phải của cuộc sống, dạy tôi những bài học thật bổ ích. Cuộc sống của bà khó nhọc, vất vả cả một đời vì con vì cháu, những hi sinh thầm lặng của bà đâu có gì có thể đong đếm. Những tiếng tu hú vẫn dai dẳng trên những cánh đồng, những tiếng tu hú cũng khiến cho cuộc sống của hai bà cháu thêm màu sắc, sinh động hơn:

“Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”

Tuổi thơ của tôi cũng gắn liền với rất nhiều những biến cố, những sự kiện nóng bỏng của xã hội, năm ấy là năm giặc đốt cháy làng khiến cho cuộc sống của chúng tôi, những người dân vốn đau khổ vì đói nghèo nay càng thêm lam lũ, lầm tham. Những ngôi làng bị đốt cháy rụi, cảnh vật hoang tàn, đổ nát, bốn bề hàng xóm trở về lầm lụi. Ngôi nhà của tôi và bà bị giặc đốt cho cháy rụi, tôi đã cùng bà dựng lại ngôi nhà, làm nơi che mưa che nắng.

Vừa dựng nhà bà vừa khuyên tôi nên giữ vững niềm tin, bà nhắc nhở tôi phải vững lòng, tuy chiến tranh ác liệt nhưng bố tôi ở nơi chiến trường xa xôi chắc chắn vẫn bình an. Bà nhắc nhở tôi khi có viết thư cho bố thì không nên kể chuyện giặc đốt nhà, vì sẽ làm cho bố lo lắng, bất an mà không thể yên tâm công tác tốt được:

“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố

Mày có viết tư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”

Bà tôi luôn quan tâm đến những thứ dù là nhỏ nhặt nhất như vậy đấy, cuộc sống của tôi, tuổi thơ của tôi được nuôi dưỡng bằng chính tình yêu của bà. Bà đã đốt lên trong tôi ngọn lửa của yêu thương, ngọn lửa của niềm tin mạnh mẽ, cháy bóng như chính ngọn lửa trên bếp lửa mà tôi và bà từng nhen. Giờ đây, dù đã trưởng thành nhưng cuộc sống bên bà vẫn luôn sống mãi trong tôi, bà vẫn là người mà tôi yêu mến và kính trọng nhất.