Dàn ý Thuyết minh về một tác giả văn học: Nguyễn Du (5 mẫu)

Thuyết minh Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn du  1

Mở bài:

Nguyễn Du là một nhà thơ, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho đời nhiều tác phẩm bất hủ, trong đó nổi bậc nhất là Truyện Kiều – một bộ đại thành kinh điển của nền văn học Việt Nam từ cổ chí kim. Có thể nói tên tuổi và thành tựu văn học của Nguyễn Du rợp bóng cả thế kỉ XVIII.

Thân bài:

Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên, quê tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong gia đình đại quý tộc có truyền thống khoa bảng, nhiều đời làm quan lớn và là dòng tộc có truyền thống sáng tạo nghệ thuật. Hoàn cảnh gia đình tác động sâu sắc đến cuộc đời Nguyễn Du, tài năng văn học của ông vì thế có điều kiện nảy nở và phát triển sớm.

Tuổi thơ Nguyễn Du hạnh phúc trong giàu sang phú quý. Cha ông là tể tướng trong triều, các anh cũng làm quan to cấp thượng công, gia đình tột cùng giàu sang. Lúc nhỏ, Nguyễn Du thường theo cha và anh vào chơi và học tập cùng các công nương quý tử trong triều nên sớm có được học thức cao đẹp.

Thế nhưng, thời hoàng kim ấy tồn tại không được bao lâu. Loạn lạc xảy ra, gia đình ly tán, Nguyễn Du sớm phải gánh chịu nhiều mất mát.

Lên 11 tuổi, Nguyễn Du mất cha. Hai năm sau, mẹ ông cũng qua đời. Từ đó, Nguyễn Du lưu lạc khắp nơi trong nhân gian. Lúc thì theo anh Nguyễn Khản, lúc về quê mẹ, lúc tại về thành Thăng Long. Cuộc đời gian nan, lận đận, phải gánh chịu không biết bao nhiêu cực khổ. Khi phong trào Tây Sơn thất bại, nhà Nguyễn phục hưng, Nguyễn Du có ra làm quan nhưng không mấy ưng ý. Những xung đột trong tư tưởng khiến ông có nhiều mâu thuẫn với thời cuộc.

Nguyễn Du là người có hiểu biết sâu rộng, vốn sống vô cùng phong phú, thông thuộc kinh sách cổ kim, tầm chương trích cú cũng vô cùng xuất sắc. Ông đã từng sống nhiều năm lưu lạc tiếp xúc với nhiều cảnh đời và thân phận con người trong thời đại loạn lạc, dâu bể. Khi làm quan bất đắc dĩ dưới triều Nguyễn, ông đã từng đi sứ sang Trung Quốc, qua nhiều vùng đất rộng lớn, tiếp xúc với nền văn hóa rực rỡ ở Trung Hoa. Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng lớn đến sáng tác của Nguyễn Du. Ông là người có một trái tim giàu tình yêu thương, tấm lòng trắc ẩn, suy tư trước vận mệnh con người trước thời đại.

Sống trong thời đại với nhiều biến động dữ dội, cộng với tấm lòng thương người vô hạn khiến cho cuộc đời Nguyễn Du quay cuồng như một cơn bão tố. Ông vừa muốn tận trung với triều đình theo lí tưởng nho gia, vừa hướng về những số phận đau thương, bất hạnh; vừa muốn bảo vệ quyền lực phong kiến lại vừa muốn thực thi công lí ở đời. Thế nhưng, lí tưởng lúc nào cũng mâu thuẫn với thực tại, nhiều lúc ông rơi vào bế tắc cùng cực. Quan trường đối với ông là một chốn ô nhục, với quá nhiều điều trái tai gai mắt thật đáng khinh bỉ. Việc ra làm quan đối với ông là một việc bất đắc dĩ phải làm. Bởi thế, nhiều lần ông cáo lão về quê, được ân chuẩn rồi lại bị triệu hồi. Tuy được nhà vua trọng dụng, giao cho nhiều trọng trách, song ông không lấy làm vui vẻ. Ông dự định, sau chuyến đi xứ Trung Quốc lần 2, ông sẽ xin từ quan, tránh mọi phiền phức. Thật không may, ông đã mất trước chuyến đi, tại kinh thành Huế, hưởng thọ 55 tuổi.

* Sự nghiệp văn học:

Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm văn chương bất hủ bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Ở lĩnh vực nào, Nguyễn Du cũng đạt nhiều thành tựu xuất sắc.

Sáng tác chữ Hán, bao gồm:

– Thanh Hiên thi tập (gồm 78 bài), viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.

– Nam trung tạp ngâm (gồm 40 bài thơ), làm từ năm 1805 đến cuối năm 1812, ông viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.

 – Bắc hành tạp lục (Ghi chép trong chuyến đi sang phương Bắc, gồm 131 bài thơ), viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.

Sáng tác chữ Nôm, gồm có:

– Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột), tức Truyện Kiều, gồm 3254 câu thơ theo thể lục bát.

– Văn chiêu hồn (nguyên có tên là Văn tế thập loại chúng sinh, nghĩa là Văn tế mười loại người), là một ngâm khúc gồm 184 câu viết theo thể song thất lục bát.

– Thác lời trai phường nón (gồm 48 câu), cũng được viết bằng thể lục bát, nội dung thay lời người con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.

– Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ () gồm 98 câu, viết theo lối văn tế…

* Đánh giá:

Nguyễn Du nổi bậc giữa bầu trời văn chương như một ngôi sao rực rỡ với ánh sáng lạ thường. Có thể nói, ông đã đem đến cho nền văn học thế kỉ 18 và nền văn học dân tộc những tiếng nói thấm đẫm tình người, được bao bọc trong hình thức nghệ thuật tuyệt đẹp chưa từng có.

Xét về nội dung, nét nổi bậc trong sáng tác Nguyễn Du chính là sự đề cao xúc cảm, dạt dào tình người. Nét nổi bậc nhất là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh. Ông tập trung thể hiện sự trân trọng và đề cao con người trong chính cuộc sống của họ. Cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là một nhà nhân đạo xuất sắc của thế kỉ 18, 19 và nền văn học dân tộc.

 Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Du tỏ ra uyên bác và thâm thúy cả những thể loại thơ cổ Trung Quốc lẫn thơ dân tộc. Ở thể loại nào ông cũng tỏ ra xuất sắc, thông thạo tuyệt vời. Thơ Nguyễn Du luôn nhịp nhàng âm thanh, bừng lên sắc màu của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của bức tranh hiện thực đa dạng. Và trong bộn bề âm thanh, sắc màu, đường nét vô cùng phong phú ấy, Nguyễn Du hiện ra vừa dạt dào yêu thương, vừa trầm tư, nghiêm khắc. Đó là do bản lĩnh của một đại Nho, luôn hết lòng vì con người, khiến cho tác phẩm của ông có sức sống diệu kì trong trái tim con người.

Với những đóng góp trên Nguyễn Du xứng đáng là Đại Thi Hào của dân tộc. Sáng tác của Nguyễn Du không thật đồ sộ về khối lượng, nhưng có vị trí đặc biệt quan trọng trong di sản văn học và văn hóa dân tộc. Từ Truyện Kiều đã nảy sinh biết bao những hình thức sáng tạo văn học và văn hóa khác nhau: Thơ ca về Kiều, các phóng tác Truyện Kiều bằng văn học, sân khấu, điện ảnh; rồi rất nhiều những dạng thức của nghệ thuật dân gian: Đố Kiều, giảng Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều… Đặc biệt là số lượng rất lớn những bài bình luận, những công trình phê bình, nghiên cứu.

Truyện Kiều và sự nghiệp văn học đã tốn không ít giấy mực của các nhà nghiên cứu và phê bình xưa và nay. Nguyễn Du Mộng Liên Đường Chủ Nhân khi đọc truyện Kiều đã từng nhận xét: “Ta nhân lúc đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy…”

Học giả Phạm Quỳnh cũng đã đánh giá rất cao Truyện Kiều: “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn”.

 Truyện Kiều được xem là kiệt tác có giá trị và tầm ảnh hường lớn nhất của nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Truyện Kiều đã được dịch ra hơn 20 ngôn ngữ khác nhau với rất nhiều bản dịch, càng khẳng định mạnh mẽ vị trí của Nguyễn Du trong lòng đọc giả trên toàn thế giới.

Để tôn vinh và tưởng niệm Nguyễn Du, ngày 25/10/2013, hội đồng Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc đã chính thức vinh danh Đại thi hào Nguyễn Du cùng với 107 danh nhân văn hóa trên toàn thế giới

Thuyết minh về Nguyễn Du  2

Bài dàn ý

1. Mở bài: Giới thiệu về thi sĩ, danh nhân Nguyễn Du.

·        Nguyễn Du nổi tiếng là nhà thi hào, danh nhân văn hóa cả thế giới biết đến.

·        Ông có sự nghiệp văn học đồ sộ trong đó phải kể đến truyện Kiều cũng nhiều thể loại thơ chữ nôm và chữ Hán.

2. Thân bài

Cuộc đời của Nguyễn Du

·        Ông tên tự Tố Như, hiệu là Thanh Hiên (1765 – 1820) sinh ra tại Thăng Long.

·        Sinh ra và lớn lên trong gia đình giàu có, truyền thống nghệ thuật, yêu văn chương.

·        Thời kì của ông đất nước có nhiều chuyển biến lớn và biến động trong xã hội.

·        Ông có tuổi thơ bất hạnh khi sớm mất cha mẹ, phải lang thang nhiều nơi trong xã hội nên am hiểu văn hóa nhân gian.

·        Nguyễn Du từng có thời gian đỗ đạt và làm quan triều Lê và Nguyễn. Ông liêm khiết, vô tư được nhiều người mến mộ.

Sự nghiệp văn học

·        Ông sáng tác thơ gồm có thơ chữ Hán (Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục). Thơ chữ Nôm có 2 tác phẩm tiêu biểu là “Truyện Kiều” và “Văn tế thập loại chúng sinh”.

Thơ ông luôn phản ánh hiện thực cơ cực của tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đồng thời lý tưởng nhân đạo bênh vực nhân dân, những con người bị chèn ép trong xã hội xưa.

Ngôn ngữ trong tác phẩm của của ông trong sáng, tinh tế. Ông giúp thúc đẩy nền văn chương nước nhà phát triển, đặc biệt là sự đa dạng phong phú của tiếng việt.

Ông được Unesco công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.

3. Kết bài

·        Nguyễn Du là người giúp giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

·        Truyện Kiều của Nguyễn Du thực sự là tác phẩm có giá trị và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.

·        Ông xứng đáng là đại thi hào tài hoa trong nền văn học nước nhà.

Thuyết Minh Về Tác Giả Nguyễn Du Và Truyện Kiều  3

1. Mở bài

Truyện Kiều và tác giả Nguyễn Du giữ một với đặc biệt quan trọng trong văn học của Việt Nam nói riêng và văn học thế giới nói chung.

2. Thân bài

a. Tác giả Nguyễn Du

- Quê quán: làng quê Tiên Điền, Hà Tĩnh

- Năm sinh, năm mất: 1765 - 1820

- Gia đình: quý tộc, có truyền thống văn học, nhiều thế hệ làm quan lớn trong triều

- Cuộc đời: từng làm quan, phiêu bạt nhiều nơi, am hiểu nhiều vốn văn hoá

- Thời đại: Nhiều biến động: chế độ phong kiến suy tàn, Trịnh- Nguyễn phân tranh, đời sống nhân dân khổ cực

- Nhân cách: giàu lòng yêu thương với những kiếp người khốn khổ

- Thành tựu văn học: Có nhiều tác phẩm nổi tiếng viết bằng chữ Hán và chữ Nôm

b. Tác phẩm Truyện Kiều

- Thời điểm sáng tác: đầu thế kỷ XIX, dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều Truyện

- Thể thơ: lục bát, 3254 câu thơ

- Cốt truyện: 3 phần( gặp gỡ, gia biến lưu lạc, đoàn tụ)

- Hệ thống nhân vật: chính diện (Thúy Kiều, Thúy Vân, Từ Hải) và phản diện (Mã Giám Sinh, Tú Bà, Hoạn Thư....)

- Giá trị tư tưởng:

+ Thể hiện được khát vọng tự do, mơ ước về bình đẳng và công lý của con người trong đời sống xã hội.

+ Bộc lộ tiếng nói cảm thông, xót xa trước sự khổ đau mà những người phụ nữ như Kiều phải gánh chịu.

+ Tố cáo một xã hội chuyên quyền, độc đoán, xã hội mà đồng tiền trở thành sức mạnh chi phối cả lương trị, đạo đức của con người, giá trị của con người trở nên coi khinh.

- Tiếng gọi thức tỉnh trái tim mỗi người hãy biết thương yêu, chở che và đùm bọc lấy nhau.

- Giá trị nghệ thuật:

+ Sử dụng kết hợp ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân

+ Diễn tả nội tâm nhân vật qua hành động, qua nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" đầy đặc sắc

+ Thể thơ lục bát được sử dụng tài tình, thuần thục

+ Xây dựng cốt truyện đầy mới mẻ và sáng tạo

+ Giọng điệu thơ biến đổi đầy linh hoạt, đặc biệt là giọng điệu

3. Kết bài

Khái quát vị trí của Nguyễn Du trong nền văn học dân tộc: Trước đây, bây giờ và cho đến mãi sau này thì tên tuổi của đại thi hào Nguyễn Du dân tộc vẫn vang mãi trong trái tim của những thế hệ người đọc.

THUYẾT MINH VỀ NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN KIỀU  4

Mở bài

Giới thiệu tác gia Nguyễn Du: là đại thi hào dân tộc , là danh nhân văn hóa thế giới.

Giới thiệu về “Truyện Kiều”: là kiệt tác của Nguyễn Du, là tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.

Thân bài

a) Giới thiệu về tác gia Nguyễn Du:

·        Cuộc đời:

+ Tên, hiệu, năm sinh năm mất: tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu (1765), mất năm Canh Thìn (1820).

+ Quê hương: quê cha ở Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà TĨnh; quê mẹ ở Bắc Ninh, nhưng ông lại được sinh ra ở Thăng Long. Nhờ đó, Nguyễn Du dễ dàng tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn hóa.

+ Gia đình: đại quý tộc, nhiều đời làm quan to, có truyền thống làm thơ văn và say mê ca kĩ.

+ Thời đại: sinh ra và lớn lên trong thời kì lịch sử đầy biến động dữ dội của xã hội phong kiến.

+ Cuộc đời: đầy bi kịch, Nguyễn Du sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải ở với anh trai là Nguyễn Khản. Gia đình tan tác, bản thân ông cũng đã từng lưu lạc “mười năm gió bụi” ở quê vợ Thái Bình. Nhưng chính những cơ cực, vất vả đó đã hun đúc cho ông vốn sống quý giá, và sự am hiểu sâu sắc vốn văn hóa dân gian.

+ Nguyễn Du làm quan dưới hai triều Lê và Nguyễn. Ông là vị quan thanh liêm, được nhân dân tin yêu, quý trọng.

·        Sự nghiệp văn học đồ sộ với những kiệt tác ở nhiều thể loại:

+ Các tác phẩm văn học của Nguyễn Du: thơ chữ Hán, Nguyễn Du có 3 tập thơ (Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục). Thơ chữ Nôm, Nguyễn Du có hai kiệt tác “Truyện Kiều” và “Văn tế thập loại chúng sinh”.

+ Nội dung:

Thơ văn Nguyễn Du có giá trị hiện thực sâu sắc, phản ánh chân thực cuộc đời cơ cực của ông nói riêng, và xã hội đen tối, bất công nói chung.

Tác phẩm của Nguyễn Du chứa chan tinh thần nhân đạo – một chủ nghĩa nhân đạo thống thiết, luôn hướng tới đồng cảm, bênh vực, ngợi ca và đòi quyền sống cho con người, đặc biệt là người phụ nữ tài hoa mà bạc mệnh.

+ Nghệ thuật:

Về thể loại: Nguyễn Du đã đưa hai thể thơ của truyền thống dân tộc đạt đến trình độ điêu luyện và mẫu mực cổ điển. Nguyễn Du đã tiểu thuyết hóa thể loại truyện Nôm, với điểm nhìn trần thuật từ bên trong nhân vật, và nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế, sâu sắc.

Về ngôn ngữ: Nguyễn Du đã có đóng góp to lớn, làm cho ngôn ngữ Tiếng Việt trở nên trong sáng, tinh tế và giàu có.

Nguyễn Du đã có những đóng góp to lớn, thúc đẩy tiến trình phát triển của văn học Việt Nam.

b) Giới thiệu về “Truyện Kiều”

·        Tên gọi: Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới đứt ruột).

·        Dung lượng: 3254 câu thơ lục bát.

·        Nguồn gốc: “Truyện Kiều” được sáng tác dựa theo cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” – tiểu thuyết chương hồi của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Nguyễn Du đã “hoán cốt đoạt thai” tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, và đem lại cho “Truyện Kiều” những sáng tạo mới mẻ cả về nội dung và nghệ thuật.

·        Thể loại: truyện Nôm bác học.

·        Tóm tắt:

·        Giá trị tư tưởng:

+ Thể hiện khát vọng về tình yêu tự do và ước mơ công lí.

+ Là tiếng kêu thương đến đứt ruột cho thân phận con người, đặc biệt là người phụ nữ tài sắc trong xã hội phong kiến.

+ Là bản cáo trạng đanh thép tội ác của các thế lực đen tối trong xã hội cũ. Nguyễn Du phê phán mạnh mẽ sự “lên ngôi” của thế lực đồng tiền.

+ Là bức chân dung tinh thần tự họa của Nguyễn Du, với “con người mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”, trái tim chan chứa tình yêu thương con người.

·        Giá trị nghệ thuật:

+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật

+ Nghệ thuật tự sự mới mẻ

+ Thể loại

+Ngôn ngữ trong sáng, điêu luyện, giàu sức gợi tả gợi cảm; ẩn dụ, điển cố,…

+ Giọng điệu cảm thương rất phù hợp với chủ nghĩa nhân đạo thống thiết của Nguyễn Du.

Kết bài

Khẳng định tấm lòng tài năng của Nguyễn Du và sức sống bất diệt của “Truyện Kiều”

Thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của thi hào Nguyễn Du  5

Mở bài:

Nguyễn Du (1765- 1820), Tên chữ Tố Như; Hiệu là Thanh Hiên. Cha là Nguyễn Nghiễm (1708- 1775) từng giữ chức tể tướng. Mẹ là Trần Thị Tần (1740-1778), người con gái xứ Kinh Bắc, có tài hát xướng và thuộc nhiều ca dao, làn điệu quan họ.

Dòng họ Nguyễn Tiên Điền có hai truyền thống lớn. Thứ nhất, đây là dòng họ khoa bảng, danh vọng lớn. Thứ hai, đây là dòng họ có truyền thống văn hóa, văn học được duy trì qua nhiều đời. Dòng họ, gia đình Nguyễn Du có nhiều người tài hoa, đỗ đạt cao, tiếng tăm phủ khắp đất nước.  Dân gian tương truyền câu ca dao ngợi ca:

Bao giờ Ngàn Hống hết cây

Sông Rum hết nước họ này hết quan.

Thân bài:

Quê cha Nguyễn Du ở Hà Tĩnh, một vùng đất thuộc khúc ruột miền trung khổ nghèo, nơi có sông Lam, núi Hồng, sơn thủy hữu tình, đất học, đất khoa bảng lâu đời. Quê mẹ ở Bắc Ninh, một xứ sở hào hoa, cái nôi của dân ca quan họ. Nguyễn Du sinh ra và lớn lên ở kinh thành Thăng Long nghìn năm văn hiến. Bởi thế, ông đã sớm tiếp cận với tri thức từ lúc còn nhỏ tuổi. Quê vợ Nguyễn Du ở Thái Bình, nơi ông từng có một thời gian sống gắn bó với người dân ở đây, thấu hiểu tận cùng nỗi khổ của nhân tình thế thái. Tất cả tạo tiền đề thuận lợi cho sự tổng hợp nghệ thuật ở thiên tài Nguyễn Du.

I. Cuộc đời gian truân, chìm nổi của Nguyễn Du:

Nguyễn Du xuất thân trong gia đình quyền quý nên tuổi nhỏ đã được sống trong nhung lụa, giàu sang tột bậc. Nhưng năm lên 10 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cha. Năm 13 tuổi, ông mồ côi mẹ và sống nhờ người anh cả. Lúc còn cha mẹ, nguyễn Du có dịp học tập, dùi mài kinh sử, hiểu biết về cuộc sống phong lưu, xa hoa của giới quý tộc phong kiến

Năm 18 tuổi (1783), Nguyễn Du đỗ Tam trường kì thi hương, giữ chức quan võ ở Thái Nguyên. Làm quan chưa được bao lâu, đến năm 24 tuổi (1789), Phong trào Tây Sơn nổ ra, nhà Nguyễn bị diệt, triều đại Tây Sơn hình thành, Nguyễn Du phải sống lẩn trốn ở quê vợ hơn 10 năm ròng rã, chịu không biết bao nhiêu khổ cực. Trong khoảng thời gian ấy, nhờ sống gần với nhân dân, ông học hỏi ngôn ngữ nghệ thuật dân gian. Tiếp cận với chữ Nôm đã hình thành phong cách ngôn ngữ sáng tác bằng chữ Nôm của Nguyễn Du và dẫn đến sự ra đời của kiệt tác truyện Kiều) sau này.

Năm 37 tuổi (1802), sau khi phong trào Tây Sơn thất bại, nhà Nguyễn Phục hưng, Nguyễn Du bất đắc dĩ ra làm quan cho nhà Nguyễn. Với tài năng lỗi lạc, đường công danh của Nguyễn Du không ngừng thăng tiến, giữ nhiều trọng trách. Đây cũng là thời kỳ sáng tác khá nhiều

Năm 48 tuổi (1813), Nguyễn Du giữ chức Chánh sứ, được triều đình tin tưởng cử đi Trung Quốc. Trong chuyến đi ấy, ông nâng cao tư tưởng xã hội và thân phận con người

Năm 55 tuối (1820), dù đã nhiều lần từ chối nhưng Nguyễn Du lại được triều đình phí thác đi xứ Trung Quốc lần 2. Nhưng chưa kịp lên đường thì ông mất tại kinh thành.

Với tài năng lỗi lạc và tấm lòng thương người vô hạn, Nguyễn Du được tôn vinh là người có học vấn uyên bác và tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông là đại thi hào của dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới (1965).

II. Sự nghiệp văn học vĩ đại của thiên tài Nguyễn Du:

Sáng tác bằng chữ Hán: 3 tập thơ:

+ Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm: Thể hiện tâm trạng đau buồn, day dứt nhưng đã cho thấy rõ khuynh hướng quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về xã hội của tác giả.

+ Bắc hành tạp lục: Đạt giá trị cao nhất trong toàn bộ thơ chữ Hán

Nội dung: Phê phán chế độ phong kiến Trung Hoa chà đạp lên cuộc sống con người. Ca ngơi, đồng cảm với những anh hùng, nghệ sĩ tài hoa, cao thượng Trung Hoa. Cảm thông với những thân phận nghèo khổ, người phụ nữ tài hoa, bạc mệnh. Các tác phẩm thể hiện tư tưởng, tình cảm, nhân cách của Nguyễn Du

Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (truyện Kiều); Văn chiêu hồn

III. Giới thiệu kiệt tác văn học “Đoạn trường tân thanh” (thường gọi là Truyện Kiều)

Truyện Kiều gồm 3254 câu thơ lục bát, bắt nguồn từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).

Nguồn gốc: Từ cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân với tài năng nghệ thuật bậc thầy, nhất là với tấm lòng nhân đạo bao la, Nguyễn Du đã sáng tạo ra một kiệt tác văn chương bất hủ.

1. Sự sáng tạo của Nguyễn Du:

Về nội dung:

+ Bằng tài năng và tâm huyết của mình, Nguyễn Du đã sáng tạo nên một tác phẩm mới, với một cảm hứng mới, một cách nhận thức và lí giải hiện thực mới và gửi gắm vào đó tâm sự của con người thời đại ông. Truyện Kiều được coi là kiệt tác của nền văn học trung đại Việt Nam

+ Từ câu chuyện tình của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã tạo nên một “Khúc ca mới đứt ruột” (Đoạn trường tân thanh), nhấn vào nỗi đau bạc mệnh và gửi gắm những cảm xúc về nhân sinh của nhà thơ trước “những điều trông thấy”.

+ Truyện Kiều là tiếng khóc cho số phận con người: khóc cho tình yêu trong trắng, chân thành bị tan vỡ; khóc cho tình cốt nhục bị lìa tan; khóc cho nhân phẩm bị chà đạp; khóc cho thân xác con người bị đày đọa.-

+ Truyện Kiều là lời tố cáo mãnh mẽ, đanh thép: tố cáo các thế lực đen tối trong xã hội phong kiến, phanh phui sức mạnh làm tha hoá con người của đồng tiền. Bị ràng buộc bởi thế giới quan trung đại, Nguyễn Du tuy cũng lên án tạo hoá và số mệnh, nhưng bằng trực cảm nghệ sĩ, ông đã vạch ra đúng ai là kẻ chà đạp quyền sống của con người trong thực tế.

+ Truyện Kiều là bài ca đắm say về tình yêu tự do và ước mơ công lí.

Về nghệ thuật:

+ Lược bỏ các tình tiết về mưu mẹo, về báo oán.

+ Được viết bằng thể lục bát truyền thống, với một ngôn ngữ chau chuốt, tinh vi, chính xác đến trình độ cổ điển, trong một truyện thơ Nôm, Nguyễn Du thể hiện nội tâm nhân vật một cách tài tình.

+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình.

+ Nghệ thuật kể chuyện, dẫn chuyện độc đáo.

+ Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đạt đến tinh xảo

Đánh giá:

Truyện Kiều là kiệt tác số một của văn học dân tộc Việt nam, di sản văn học của nhân loại, là một “tập đại thành” của truyền thống nghệ thuật văn, hoá Việt nam, tiêu biểu cho cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa, vừa là niềm thương cảm sâu sắc, là tấm lòng “nghĩ tới muôn đời”, vừa là thái độ nâng niu, trân trọng những giá trị nhân bản cao đẹp của con người.

Trong Văn chiêu hồn, Nguyễn Du cất tiếng khóc than cho mười kiếp người nhỏ bé, đáng thương nhất trong xã hội (những tiểu nhi tấm bé, những phụ nữ, kĩ nữ tài hoa bạc mệnh, những học trò nghèo, những người hành khất, những người dân lao động lam lũ “đòn gánh tre chín dạn hai vai”,…)

2. Một vài đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Du

Về nội dung:

Nội dung nổi bật nhất trong những sáng tác của Nguyễn Du là sự đồng cảm sâu sắc với cuộc sống của con người (Đạm Tiên, Thúy Kiều, Tiểu Thanh, người ca nữ Long Thành, những ca nhi, kĩ nữ…)

+ Cảm thông cho số phận của người ăn mày:

Một mẹ cùng ba con

Lê la bên đường nọ

Đứa bé ôm trong lòng

Đứa lớn tay mang giỏ

Trong giỏ đựng những gì

Mớ rau lẫn tấm cám

Nửa ngày bụng vẫn không

(Những điều trông thấy)

+ Xót thương nàng Đạm Tiên:

Nổi danh tài sắc một thì

Xôn xao ngoài ngõ thiếu gì yến anh

Kiếp hồng nhan có mong manh

Nữa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương

Người mà đến thế thì thôi

Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi

+ Nhỏ lệ khóc thương cuộc đời của Thúy Kiều:

Hết nạn nọ đến nạ kia

Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

+ Ngậm ngùi trước ông lão hát rong mù ở đất Long Thành:

Miệng sùi nước bọt, tay mỏi rã rời

Ngồi xuống, xếp đàn, nói rằng hát đã xong

Hết lòng hết sức đàn gần một trống canh

Vậy mà chỉ được năm sáu đồng

+ Cảm thương người kĩ nữ xướng ca:

Cũng có kẻ lỡ làng một tiết

Liều tuổi xanh bán nguyệt buôn hoa

Ngẩn ngơ khi trở về già

Ai chồng con nấy biết là cậy ai.

Sống đã chịu một đời phiền não

Thác lại nhờ hớp cháo lá đa

Đau đớn thay phận đàn bà

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu!

Tất cả những con người đau khổ trong thế gian này đều có chỗ đứng trong sáng tác của Nguyễn Du. Đó là những con người nhỏ bé, bất hạnh. Đặc biệt là đối với người phụ nữ, Nguyễn Du đã dành một sự trân trọng lớn lao đối với họ.  Tác phẩm của nguyễn Du thể hiện tình thương yêu cao cả đối với con người, tố cáo xã hội phong kiến bất công, tàn bạo (Phản chiêu hồn, sở kiến hành, truyện Kiều)

Ông xót thương khi nhìn thấy mẹ con người ăn mày đói khát và bọn quan lại ăn uống no nê, thừa mứa:

Ai vẽ bức tranh này

Dâng lên nhà vua rõ.

Ông cay nghiến những kẻ bất nhân vì đồng tiền bất nhân đã chà đạp lên số phận con người:

Trong tay đã sẵn đồng tiền

Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì.

Ông cảm ghét tận xương tủy bọn quan tham:

Một ngày lại thói sai nha

Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền

Ông ca ngợi vẻ đẹp của con người, ca ngợi tình yêu tự do, đề cao quyền sống và hạnh phúc của con người:

+ Vẻ đẹp của Từ Hải:

Râu hùm hàm én mày ngài

Vai năm tấc rộng thân mười thước cao

Đường đường một đấng anh hào

Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.

Đội trời đạp đất ở đời

Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông.

+ Vẻ đẹp của Kim Trọng, Thúy Kiều, Thúy Vân…

+ Tình yêu tự do

Cửa ngoài vội rủ rèm the

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình

Nàng rằng khoảng vắng đêm trường

Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa

(Truyện Kiều)

Tác phẩm của Nguyễn Du mang giá trị nhân đạo, sâu sắc, mới mẻ. Ông là người đầu tiên trong văn học đặt vấn đề về người phụ nữ tài hoa nhưng bạc mệnh.

Về nghệ thuật:

– Thành công ở nhiều thể loại thơ ca: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành.

– Sử dụng thơ lục bát, thơ song thất lục bát chữ Nôm đạt tới tuyệt đỉnh.

– Kết hợp nhuần nhuyễn, sáng tạo ngôn ngữ bình dân và bác học.

– Sử dụng thơ lục bát, thơ song thất lục bát chữ Nôm đạt tới tuyệt đỉnh. Ví dụ trong truyện Kiều, Nguyễn Du tả tiết trời mùa xuân vô cùng đẹp chỉ bằng câu thơ lục bát:

Cỏ non xanh rợn chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

– Ngôn ngữ bình dân được Nguyễn Du sử dụng rất nhiều, nhất là trong truyện Kiều: sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ, từ trong sinh hoạt hằng ngày.Khi miêu tả Tú Bà:

Thoắt trông lờn lợt màu da

Ăn chi to lớn, đẫy đà làm sao.

– Ngôn ngữ bác học: Những đoạn tả Kiều, Từ Hải, Kim Trọng,..

Ví dụ tả vẻ đẹp Kiều:

Làn thu thủy, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Tả Từ Hải:

Râu hùm hàm én mày ngài

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

 Kết bài:

Nguyễn Du là một thiên tài văn học, đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới. Nguyễn Du và truyện Kiều mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc ta.