Thuyết minh về chiếc nón lá ( 11 mẫu )

Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam hay nhất  1

Ở nơi xứ lạ quê người, đôi khi, chỉ cần thấp thoáng một tà áo dài, nghiêng nghiêng một tàng nón lá là cũng đủ khiến người ta thấy ấm lòng, thân thuộc. Từ lâu, chiếc nón lá đã trở thành một trong những “đại sứ văn hóa” của Việt Nam.

Chiếc lá đã gắn liền với cuộc sống sinh hoạt của con người Việt Nam khiến chúng ta đã coi nó như một phần tất yếu mà đôi khi không thắc mắc về nguồn gốc của chiếc nón lá. Sự xuất hiện chính xác của nón lá, chúng ta không thể biết. Chỉ biết từ thời của những chiếc trống đồng Ngọc Lữ, thạp đồng Đào Thịch vào khoảng 2500 – 3000 năm trước công nguyên đã thấy nón lá được khắc hoa văn lên đó rồi. Và cứ như thế, nón lá tồn tại và đi cùng với cuộc sống sinh hoạt cũng như công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Nón được chia thành nhiều loại: loại phổ biến và thông dụng trong cuộc sống nhất chính là nón hình chóp. Những chiếc nón tôn lên sự dịu dàng của người phụ nữ Huế chính là nón bài thơ, của người con gái xứ Kinh Bắc lại là nón quai thao. Còn có những chiếc nón khác như nón cời, nón gõ, nón lá sen hay nón dấu của những lính thú thời xưa:

•    “Cậu cai nón dấu lông gà

•    Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.”

Một chiếc nón lá có thể coi là một tác phẩm nghệ thuật được tạo bởi sự kì công của tự nhiên và bàn tay con người. Đầu tiên là trong khâu chọn lá. Lá để làm nón phải là lá cọ hoặc lá dừa. Lá không phải vừa lứa, không nên quá non vì quá mềm hay quá già vì lá sẽ dễ bị gãy. Chiếc nón đẹp là khi chọn được những chiếc lá với những đường gân xanh đều nhau, mặt lá còn bóng. Sau đó, lá sẽ được đem đi sấy. Quá trình sấy phải đúng kì thuật và vừa đủ, sau đó sẽ được mang ra phơi. Thời tiết và thời gian phơi lá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến độ bền của lá. Nếu phơi trong trời mưa hay âm u, lá sẽ bị ẩm và dễ mốc còn trời nắng quá, là lại dễ bị gẫy. Sau đó, lá được cắt thành khuôn để tạo chuẩn bị cho công đoạn hai. Chiếc lá có thể định hình được chính là nhờ có khung cố định làm thành vành nón. Với chiếc nón sinh hoạt thông thường: người thợ dùng một hình chóp và những nan tre đã được chuốt tròn đều để vòng quanh, thật đều, từ nhỏ đến lớn. Sau đó, từng lớp lá sẽ được xếp đều lên. Tiếp theo, lá sẽ được chằm bằng những sợi dẻo dai (có thể là nilong dẻo hoặc sợi cước), có màu trắng trong suốt và được bôi một lớp dầu để nón vừa đẹp lại vừa bền. Chiếc nón lại càng thêm đẹp đẽ và ý nghĩa vời những hình ảnh đặc trưng của đồng quê, đất nước Việt: cây cầu, bến nước, địa danh nổi tiếng hay một bài thơ quen thuộc nào đó. Và khoảng nan thứ ba, thứ ta người ta sẽ dùng chỉ để kết đối xứng hai bên buộc quai. Chiếc quai thường được làm bằng vải, hay lụa, the, nhung với nhiều màu sắc khác nhau càng tăng thêm sự duyên dáng cho chiếc nón và cả người đội. Thế mới biết một chiếc nón được tạo ra là bao sự kì công, tỉ mẩn của một nghệ nhân.

Chiếc nón giờ đây đã trở thành thương hiệu và sự khẳng định đối với những làng nghề truyền thống. Mỗi chiếc nón đều mang theo tâm huyết và cả tâm hồn, tinh hoa Việt Nam. Có thể chọn những chiếc nón ở làng nghề: Đồng Di (Phú Vang), Dạ Lê (Hương Thủy) đặc biệt là làng nón Phủ Cam (Huế),…

Chiếc nón đã trở thành người bạn thân thiết với cuộc sống người nông dân Việt Nam. Chiếc nón cùng ông đi đánh trận năm nào, nón cùng cha ra đồng làm nên mùa vụ mới, nón cùng bà tảo tần trong những gánh hàng ra chợ, cùng mẹ duyên dáng trong tà áo dài thướt tha. Nón trở thành dụng cụ che nắng, chắn mưa, rồi trời nóng lại là chiếc quạt mát, là người bạn đồng hành của nữ sinh.

Trong tâm thức người Việt, nón lá trở thành biểu tượng của văn hóa và “sứ giả” của con người và đất nước Việt. Vì những công dụng và ý nghĩa ấy, mỗi chúng ta phải biết sử dụng và trân trọng vật dụng này. Khi dùng nón, tránh để nón va đập hay ném, vứt nón lung tung. Nên treo gọn gàng nón ở nơi quen thuộc. Nón dùng trong những ngày mưa cần để nơi kho ráo, tránh ẩm ướt để không làm nón bị ẩm mốc dẫn đến giảm tuổi thọ của nón.

Những chiếc mũ, ô ra đời càng giúp cho cuộc sống của con người thêm tiện lợi và có nhiều sự lựa chọn. Nhưng, chưa và không bao giờ chiếc nón lá lại nằm ngoài sự lựa chọn của người Việt.

Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam  2

Người phụ nữ Việt Nam, xưa nay đều mang vẻ đẹp dịu dàng và đằm thắm với chiếc áo dài trắng thướt tha trong gió, và không thể thiếu hình ảnh chiếc nón lá gần gũi và thân thuộc. Gắn bó với đời sống đã lâu, chiếc nón lá nay đã thành biểu tượng văn hóa đẹp, đáng tự hào của dân tộc ta.

Nón lá đã xuất hiện từ rất lâu đời, có những nghiên cứu chỉ ra rằng, hình ảnh nón lá đã xuất hiện trên mặt trống đồng từ những năm 2500-3000 TCN. Nón có dạng hình chóp, tròn và vành rộng nên che nắng rất tốt. Đặc biệt, nón lá được làm từ những nguyên liệu tự nhiên, rất thân thiện và gần gũi với môi trường. Khung nón được làm bằng tre, vót tròn và quấn thành những vòng lớn nhỏ, mỗi chiếc nón cần 16 chiếc vòng như vậy tạo thành hình chóp, sâu khỏang 10cm. Dưới bàn tay điệu nghệ của người làm nón, vành nón không khác gì một tác phẩm nghệ thuật kỳ công, mỗi vòng đều được đặt tỉ mỉ và chính xác, không được méo và lệch, đảm bảo làm ra một chiếc nón đẹp và chất lượng nhất. Từ vòng to nhất khoảng 60cm cho đến vòng nhỏ nhất chỉ bằng một đầu ngón tay. Ban đầu, người thợ phải lấy mo nang làm cốt nón, sau đó lợp nón bằng lá cọ. Công đoạn chọn lá cần rất cẩn thận và kỹ lưỡng, lá cọ không được quá non cũng không được quá già. Cọ đem về được rửa sạch rồi phơi khô dưới nắng cho thật mềm và thật bền, sau đó là phẳng, khi đạt đủ tiêu chuẩn mới đem đi lợp nón. Người thợ xếp lá lên vành khuôn ngay ngắn, một chiếc nón sẽ có hai lớp lá và một lớp mo nang ở giữa. Những lá cọ đẹp và trắng sẽ được xếp ra ngoài nhìn sao cho đẹp mắt và tinh tế nhất. Quá trình khâu nón có lẽ tỉ mỉ hơn tất cả, nón được khâu bằng sợi cước, sợi guột nên vô cùng chắc chắn. Những đường kim mũi chỉ của người thợ làm nón đâm lên đâm xuống nhịp nhàng và thoăn thoắt, làm ra những chiếc nón lá thật đẹp và bền. Chưa hết, sau khi khâu xong, chiếc nón còn được quét thêm một lớp dầu bóng để bền đẹp và không bị mốc. Tùy từng địa phương sẽ có cách trang trí nón khác nhau, có nơi thêu lên đó bài thơ, có nơi lại thêu lên những hình ảnh thật đẹp, cô thiếu nữ hiền thục hay một bông hoa đang nở rộ. Quai nón thường được làm bằng vải nhung, rất mềm và êm, được buộc vòng từ bên này sang bên kia nón để giúp nón cố định chắc chắn khi đội.

Chiếc nón lá gần gũi, bình dị đã gắn bó với các bà, các mẹ, các chị mỗi buổi làm đồng, mỗi ngày đến trường. Nón lá không chỉ xua đi cái nắng gay gắt của mùa hè oi bức, che những hạt mưa rào bất chợt, đây còn là biểu tượng đẹp đẽ của văn hóa Việt. Ngắm những chiếc nón nhấp nhô trên cánh đồng lúa chín vàng, trên đường phố nhộn nhịp, chiếc nón lá mà người mẹ chồng vui vẻ đội cho nàng dâu mới trong đám cưới truyền thống, thấy cả một nền văn hóa truyền thống lâu bền đầy giá trị của ông cha ta ở đó. Bây giờ, nón lá còn mang nhiều giá trị ý nghĩa khác, xuất hiện trên các sân khấu nghệ thuật cũng như trong những câu ca, điệu hò, bài hát về quê hương xứ sở, có ai không yêu, không trân trọng chiếc nón lá bình dị này. Nón là cũng là món quà đầy ý nghĩa được các du khách đến Việt Nam lựa chọn, họ đội chiếc nón lá Việt, nở nụ cười tươi, dường như khoảng cách dân tộc đã biến mất tự bao giờ.

Ngày nay, xã hội hiện đại và ngày một phát triển không ngừng, tuy nhiên, chiếc nón lá vẫn là một vật dụng quen thuộc, vẫn là một biểu tượng đẹp vững bền. Nhìn thấy chiếc nón lá ở đâu, ta thấy cả đất nước Việt ta ở đó:

“Ôi nón bài thơ của xứ nhà

Có bàn tay nhỏ nở như hoa

Có thành phố cổ giàu mưa nắng

Bóng nón đi về thêm thiết tha.”

(Nguyễn Khoa Điềm)

Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam  3

Nón này che nắng che mưa

Nón này để đội cho vừa đôi ta.

(Ca dao)

Nón lá không xa lạ với chúng ta. Áo dài và nón lá là nét đặc thù của phụ nữ Việt Nam.

Nón dùng để che nắng mưa, có lịch sử lâu đời đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2.500 - 3.000 năm. Nón lá gần với đời sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre lúc nghỉ ngơi dùng nón quạt cho mát mẻ ráo mồ hôi. Nón lá ở Việt Nam có nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử.

Người Việt từ nông thôn cho tới thành thị đều dùng nón lá, nhưng ít người để ý nón lá có bao nhiêu vành, đường kính rộng bao nhiêu xăng-ti-mét. Nón lá tuy giản dị rẻ tiền nhưng nghệ thuật làm nón cần phải khéo tay. Nghề chằm nón không chỉ dành riêng cho phụ nữ mà cả những người đàn ông trong gia đình cũng có thể giúp chuốt vành, lên khung nón. Với cây mác sắc, họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu; sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy. Người phụ nữ thì chằm nức vành. Để có được lá đẹp, họ thường chọn lá nón non vẫn giữ được màu xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Khi xây và lợp lá, người ta phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp để nón có thể thanh và mỏng. Nghề làm nón lá thường sản xuất từ miền Bắc và miền Trung trong các làng quê sau các vụ mùa, ở các tỉnh miền Nam không thấy người ta chằm nón.

Vật liệu làm nón tuy đơn sơ nhưng khó tìm loại lá làm nón, lá mọc ở những vùng núi, sau này người ta đem giống về trồng ở vườn.

Ngày nay dù đã phát triển nhưng trên những cánh đồng lúa xanh tươi ngoài Bắc, trong những trưa hè nắng gắt, người ta còn dùng lá tơi để che nắng, giống như con công đang xòe cánh.

Người ta chặt lá nón non còn búp, cành lá nón có hình nan quạt nhiều lá đơn chưa xòe ra hẳn phơi khô, cột lại thành từng bó nhỏ gánh bán cho những vùng quê có người chằm nón. Ở Quảng Nam ngày xưa vùng Bà Rén chuyên buôn bán nón lá, từ đó phân phối đến các chợ như chợ Hội An, có khu bán nón lá nhiều loại.

Lá non lúc khô có màu trắng xanh, người mua phải phơi lá vào sương đêm cho lá bớt độ giòn vì khô, mở lá từ đầu tới cuống lá, cắt bỏ phần cuối cùng, dùng lưỡi cày cũ hay một miếng gan, đặt trên nồi than lửa nóng đỏ, dùng cục vải nhỏ độn giống như củ hành tây, người ta đè và kéo lá nón thẳng như một tờ giấy dài màu trắng, có nổi lên những đường gân lá nhỏ, lựa những lá đẹp để làm phần ngoài của nón. Người ta dùng cái khung hình giống như Kim Tự Tháp Ai Cập, có sáu cây sườn chính, khoảng cách giống nhau để gài 16 cái vành nón tròn lớn nhỏ khác nhau lên khung. Cái khung này phải do thợ chuyên môn làm kích thước đúng cỡ khi lợp lá và chăm nón xong, tháo nón ra dễ dàng. Nón thường chỉ 16 vành tròn làm bằng tre cật vót nhỏ đều nhau nối lại. Nón bài thơ nhẹ mỏng chỉ hai lớp lá trong chen hình cảnh và các câu thơ, nón thường có độ bền lâu hơn, dày và có ba lớp, phần trong lót thêm loại lá đót. Chằm xong nón tháo khỏi khung, cắt lá thừa nức miệng nón và làm quai, nón rộng đường kính thường 41 cm, người ta phết phía ngoài lớp mỏng sơn dầu trong suốt nước mưa không thấm qua các lỗ kim vào bên trong. Để có được một chiếc nón, phải trải qua 15 khâu, từ lên rừng hái lá, rồi sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn vành, chăm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ...

Dáng dấp con gái Việt Nam mềm mại, dịu dàng, nếu trên đầu nghiêng nghiêng vành nón trắng. Nụ cười, ánh mắt giấu sau vành nón ấy mới cơ hồ e ấp, rạo rực vì những bâng khuâng...

Mỗi thiếu nữ đều có một cái duyên để làm say đắm người khác phái. Nhưng tựu trung, nhan sắc của các nàng cũng không ngoài những điều đã được ca dao truyền tụng. Có nàng đẹp nhờ mái tóc thề hay cắt ngắn, đôi chân mày cong vòng như vầng trăng non dưới vành nón lá:

Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón

Chiều mùa thu mây che có nắng đâu

Nắng sẽ làm phai mái tóc xanh màu

Sẽ làm khô làn môi em dịu ướt

Còn tia mắt anh...

Có sao đâu mà em phải cúi đầu từ khước

Nếu nghiêng nón có nghĩa là từ khước

Thì mười ngón tay em sao bỗng quấn quít đan nhau

Nửa vầng má em bỗng thắm sắc hồng đào

Đôi chân bước, anh nghe chừng sai nhịp.

(Thu Nhất Phương)

Ở Huế, có nhiều vùng chằm nón nổi tiếng từ xa xưa cho đến bây giờ như: Phú Hồ, Phước Vĩnh, Dạ Lê, Triều Sơn, Nam Phổ, Kim Long, Dương Nỗ, Tân Mỹ, Hương Sơ, Mĩ Lam, làng Chuồn, bên dòng sông Như Ý, thuộc xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế làm nón bài thơ dáng thanh mảnh, độ mỏng, màu nón nhã nhặn người ta còn khắc những bức tranh với chùa Linh Mụ, cầuf Trường Tiền, con đò trên sông Hương... và đặc biệt nhất là vài câu thơ chất chứa tâm hồn xứ Huế.

Những chiểc nón bài thơ thường trở thành vật "trang sức" của biết bao thiếu nữ. Lựa nón, lựa quai, cũng là một thú vui nên không ít người đã kì công đến tận nơi làm nón để đặt cho riêng mình với dòng thơ yêu thích. Buổi tan trường, các con đường bên sông Hương như dịu lại trong nắng hè oi ả bởi những dáng mảnh mai với áo dài trắng, nón trắng và tóc thề.

Nón bài thơ hiện hữu trên khắp nẻo đường và trở nên gần gũi, thân quen trong cuộc sống thường nhật của phụ nữ Huế, dùng nón lá nâng hay đựng xoài, cũng tạo nên nét đẹp mĩ miều.

Đời sông văn minh, phát triển nhưng nón lá Việt Nam vẫn thuần túy nguyên hình của nó. Ở bất cứ nơi đâu, từ rừng sâu hẻo lánh, trên đồng ruộng mênh mông, dọc theo sông dài biển cả, đều thấy chiếc nón lá ngàn đời không đổi thay.

Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam  4

Trong đời sống của con người Việt Nam, chiếc nón lá không thể thiếu được với những người phụ nữ. Chiếc nón là như là một phụ kiện quan trọng làm tăng lên vẻ đẹp của người phụ nữ trong tà áo dài truyền thống. Hay đơn giản hơn, chiếc nón lá còn gắn liền với đời sống hằng ngày của người phụ nữ trong chiếc áo bà ba, ra đồng sớm hôm chịu nắng dầm mưa, làm chiếc quạt mát những lúc trời oi bức, xua đi cái nóng cái mệt mỏi thường ngày.

Hình ảnh chiếc nón lá quen thuộc với người Việt Nam với dạng chóp nón. Nón lá được làm từ nguyên liệu chính là lá cọ hoặc lá buông, lá mật cật, bên cạnh đó là những thành phần không thể thiếu khác như chỉ tơ, sợi gân, khung tre. Thoạt nhìn, nón lá có cấu trúc đơn giản nhưng để làm ra được sản phẩm hoàn chỉnh đòi hỏi người làm nón phải có đôi tay thật khéo léo, tỉ mỉ.

Công đoạn đầu tiên chính là tạo phần khung nón từ cọng tre được vuốt nhẵn nhưng mềm dẻo, có thể uốn cong mà khó bị đứt gãy. Khung nón quan trọng vì nó sẽ tạo thành hình dáng của nón. Vành nón có chức năng nâng đỡ toàn bộ khung nón. Người mua thường ưu tiên chọn những chiếc nón lá có khung vành cứng cáp, vì điều này khiến cho chiếc nón dùng bền hơn. Những khung tròn tiếp theo lên đến đỉnh nón không cần phải cứng cáp, so với vành nón cần mỏng nhẹ hơn, nhằm để cho chiếc nón không quá thô cứng.

Phần tiếp theo là lớp lá đan (chằm) theo khung nón. Lớp lá được người thợ tỉ mỉ đan xen với hai lớp. Trước khi đan lá, người thợ phải lựa chọn lá cọ non, chọn loại lá nguyên vẹn, không bị rách hay sâu, sau đó đem đi phơi nắng cho thật kỹ, để lá khô lại và có màu trắng đẹp. Sau khi đan một lớp lá cọ, người thợ sẽ lót một lớp mo nang. Mo nang từ tre, nứa phải được phơi khô, kỹ càng. Sau đó, đan lớp lá cuối cùng vào nón. Trong quá trình làm khung, đan nón, người thợ cố định các thành phần bằng các sợi gân.

Tiếp đến, người thợ trang trí thêm trên chiếc nón bằng những hình ảnh, chữ thêu bên trong và bên ngoài nón. Phần quai nón hai bên được đan bằng các sợi len màu, để người dùng buộc dây mang nón vào. Thông thường, trong nhà sẽ được dự trữ 2-3 chiếc nón lá, chiếc nào dùng để đi chợ, đi hội hay đi đám, người phụ nữ thường dùng tấm vải lụa đẹp cột vào quai để mang nón. Chiếc nào dùng để đội ở nhà hay đi ra đồng, vườn thì chỉ cần cột dây hay tấm vải thun bình thường.

Hơn nữa, để cho chiếc nón thêm bền hơn, tránh những vết trầy xước, hay để nón không bị thấm nhiều nước mưa, người thợ bọc chiếc nón với lớp áo mủ mỏng bên ngoài nón. Ngoài ra, để cho chiếc nón trong bóng bẩy, bền màu của lá cọ, người thợ còn phủ lên bên ngoài lớp lá (sau khi chằm xong) một lớp dầu bóng. Dầu bóng này có thể là nhựa thông được pha với cồn.

Sự chuẩn những nguyên liệu trong chiếc nón lá rất quan trọng. Nếu các thành phần không được sơ chế, chuẩn bị tốt, lá bị móc, không phơi khô hay dây gân quá to, bị mục thì sẽ ảnh hưởng đến thẩm mỹ của chiếc nón, hơn nữa chất lượng của chiếc nón cũng bị giảm sút.

Mang đặc trưng từ nhiều vùng miền, nón lá ở mỗi vùng cũng mang những nét tiêu biểu riêng từ chính nguyên liệu, cách chằm nón,…. Làng nghề nón lá tiêu biểu được biết đến như Làng Chuông, Huế và Tây Nam Bộ.

Nón lá Làng Chuông được làm từ lá cọ, mây tre, những nguyên liệu này được lựa chọn kỹ càng từ những nơi khác, chứ không dùng tại phương. Nón lá Làng Chuông có 16 vòng, nón bền chắc nhưng đảm bảo về độ mềm dẻo, thanh mỏng, tôn lên nét đẹp của người phụ nữ khi mang nón.

Nhắc đến Huế, hình ảnh dịu dàng của người con gái xứ Huế luôn làm xao xuyến mỗi người khi có dịp đến thăm. Nón lá cũng thế, nó mang cả nét đẹp dịu dàng, mềm mại, trong từng khâu chằm nón đến hoàn thành. Khác hẳn só với nón là ở vùng miền khác, nón lá Huế thanh mảnh, mỏng nhẹ hơn hẳn, nhưng vẫn đảm bảo về độ bền chắc của nón. Nét đặc trưng khác của nón lá Huế chính là những hình ảnh, câu thơ luôn có trên nón, tô lên vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng của người con gái xứ Huế.

Nón lá ở vùng Tây Nam Bộ được làm từ lá cây mật cật và trúc để làm khung nón. Trước đây, nón được làm 15 vòng, nhưng vì thị yếu của người dùng, nón được làm thành 16 vòng. Nón được chằm chắc nịch hơn so với nón Huế, nhưng vẫn tôn lên vẻ đẹp dịu dàng của người phụ nữ.

Nhưng nhịp sống hiện đại, nón lá không còn được sử dụng rộng rãi trong đời sống. Đa phần được dùng chủ yếu ở các vùng nông thôn hay trong các dịp lễ hội. Nhưng không vì thế mà chiếc nón lá mất đi, mà nó lại trở thành một điểm thú vị, thu hút nhiều khách du lịch, một nét văn hoá truyền thống của Việt Nam, không bao giờ thay đổi được.

Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam  5

Trên đất nước Việt Nam có khoảng trên năm mươi dân tộc được chia ra nhiều vùng miền khác nhau. Nhưng có ba khu vực chính: Bắc – Trung – Nam. Ở mỗi miền có phong tục tập quán riêng. Nếu nói về trang phục thì chiếc áo tứ thân là vật dụng đi kèm là nón quai thao sẽ là đại diện cho người Bắc. Còn ở miền Trung và miền Nam thì có áo dài nói chung áo bà ba nói riêng và người bạn đồng hành với chúng không ai khác chình là chiếc nón lá thân quen. Nó làm chiếc áo dài hay áo bà ba thêm phần duyên dáng và dịu dàng, tôn thêm nét đẹp cho người phụ nữ Việt.

Chiếc nón lá là một nhân tố của lịch sử lâu đời. Tiền nhân của nón lá được chạm khắc trên chiếc trống đồng Ngọc Lữ, thạp đồng Đào Thịch từ khoảng 2500 – 3000 trống đồng năm trước công nguyên. Trải qua biết bao thời kì chống giặc ngoại xâm, nghề chằm nón vẫn được duy trì và tồn tại cho đến nay. Và hiện nay các làng làm nghề chằm nón như làng Đồng Di (Phú Vang), Dạ Lê (Hương Thủy) và ở Phủ Cam (Huế) là làng nón đặc biệt nhất,... những làng nghề này đã tạo ra các sản phẩm công phu và nó cũng là một trong những điểm thu hút khách du lịch.

Một chiếc nón lá đẹp phải trãi qua rất nhiều công đoạn. Trước tiên là khâu chọn lá, phơi lá, chọn chỉ đến mức tinh xảo trong từng mũi kim. Lá làm nón có thể dùng lá dừa hay lá cọ.

Lá dừa: để có được lá dừa thì phải mua từ trong Nam. Lá được vận chuyển và được làm trước khi chuyển đến nơi. Sau đó, chọn lọc lá để xử lí với lưu huỳnh nhằm đảm bảo được độ bền về thời gian và màu sắc của lá. Dẫu việc chọn lá có công phu nhưng chiếc nón làm ra cũng không sánh bằng nón được làm từ lá cọ.

Lá cọ: để khoác lên cho nón một chiếc áo với chật liệu tốt, người may phải công phu hơn từ việc chọn lá cho đến việc may và khâu. Những chiếc lá cọ phải có những yếu tố sau: lá non vừa độ, gân lá phải xanh, màu lá cũng trắng xanh. Nếu gân và thân lá đều trắng thì chiếc nón làm ra sẽ không được đẹp.

Một chiếc nón đạt đầy đủ tiêu chuẩn là phải có màu trắng xanh với những gân lá màu xanh nhẹ, mặt phải bóng, khi đan lên nón thì màu của gân nổi lên bề mặt thì mới đẹp mặt. Để đạt được điều dó, phải làm đúng theo các qui trình một cách tuân thủ.

Sấy khô phải đúng kĩ thuật, sấy trên bếp than (đối với lá cọ thì không phơi nắng). Sau đó thì phơi sương từ 2 đến 4 giờ cho lá mềm ra. Rồi dùng một búi vải và một miếng gang đặt trên bếp than có độ nóng vừa phải để ủi sao cho từng chiếc lá được phẳng. Mỗi chiếc lá phải được chọn lựa kĩ càng và cắt với cùng độ dài là 50cm (lá cọ).

Với cây mắc sắt, những người thợ làm nón (thường là đàn ông) chuốt từng nan tre sao cho tròn đều và có đường kính rất nhỏ, thường chỉ lớn hơn que tăm một chút. Sau đó uốn nan tre này thành những vòng tròn từ lớn đến bé và đều được bóng bẩy. Mỗi cái nón sẽ có 16 nan tre đã được uốn vòng như thế này. Những vòng ấy sẽ được đặt vào một khung bằng gỗ hình chóp theo vị trí từ dưới lên từ lớn đến bé. Sau đó người thợ sẽ xếp lá lên khung, người xếp lá phải khéo và đều tay để những chiếc lá không bị chồng lên nhau hoặc xô lệch.

Kể về quá trình làm nón mà không nhắc đế nghệ thuật làm nón bài thơ ở Huế thì thật thiếu sót. Đặt biệt nón bài thơ của xứ Huế rất mỏng vì chỉ có hai lớp lá với lớp lá thứ nhất chỉ gồm hai mươi lá, còn lớp ngoài chỉ có ba mươi lá và lớp bài thơ thì được chèn ở giữa. Khi xây lá lợp lá, người làm phải thật sự khéo léo sao cho khi chêm lá sẽ không làm cho lá bị chồng lên nhau hay bị xô lệch, như vậy thì chiếc nón lá của chúng ta sẽ có được độ thanh và mỏng.

Khi soi nón dưới ánh nắng, người ta sẽ thấy được bài thơ, hay nhìn rõ được chiếc cầu Tràng Tiền hoặc chùa Thiên Mụ. Chính những chi tiết đó đã tạo được nét đặc sắc riêng của nón bài thơ ở xứ Huế. Khi đội nón bài thơ người đội nó chắc hẳn hãnh diện lắm vì đã mang trên mình những danh lam thắng cảnh hay một bài thơ mang đậm sắc Việt.

Sau khi xếp lá cho đều và ngay ngắn lên vành, người ta bắt đầu chằm nón. Nón được chằm bằng những sợi nilông dẻo, dai và săn chắc có màu trắng trong suốt. Các nón lá không được xộc xệch, đường kim chỉ phải đều. Khi nón lá được chằm hoàn tất người ta đính thêm cho chớp nón một cái "xoài" được làm bằng chỉ bóng láng để làm duyên cho nón. Sau khi cho nón một điểm nhấn, thì người thợ sẽ phủ lên nón lớp dầu nhiều lần, phơi đủ nắng để nón vừa đẹp vừa bền. Ở hai vòng tròn lớn bằng nan tre phần dưới của hình chóp, khoảng nan thứ ba và thứ tư, người thợ sẽ dùng chỉ đôi kết đối xứng hai bên để buộc quai.

Quai nón thường được làm bằng lục, the, nhung,.. với màu sắc tươi tắn như tím, hồng đào, xanh thiên lí,..càng làm cho nón thêm phần xinh xắn và càng làm tăng độ duyên dáng cho người đội nón. Chiếc nón lá cũng giống như người phụ nữ Việt Nam, không chỉ đẹp ở từng chi tiết mà còn đẹp ở cách thể hiện ở phần dáng nón. Những người thợ đã gởi gắm vào từng "đứa con' những hình ảnh mang nét truyền thống văn hóa dân tộc.

Từ Bắc vào Nam, từ làng Chuông ở Tây Hồ đến Ba Đồn, những chiếc nón lá trải đi khắp các nẻo đường và trở nên thân quen trong đời sống thường nhật của người phụ nữ. Chiếc nón không chỉ là vật dụng thân thiết, mà còn là người bạn thủy chung với người lao động đội nắng dầm mưa, đội nón ra đồng, đội nón đi chợ,... nón còn là những chiếc quạt xua đi những mệt mỏi, mồ hôi dưới nắng hè gây gắt mà còn làm tăng nét duyên và tăng thêm nét nữ tính của người phụ nữ.

Vào mỗi buổi tan trường, hình ảnh những cô nữ sinh với tà áo dài trắng tinh khôi, nghiêng nghiêng dưới vành nón lá là lúm đồng tiền làm duyên đã làm say lòng, là cảm hứng nghệ thuật của bao văn nhân, nghệ sĩ,... Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái dưới bộ áo dài duyên dàng thể hiện nét dịu dàng, mềm mại kín đáo của người phụ nữ Việt Nam đã nhiều lần xuất hiện và đều nhận được những tràng pháo tay tán thưởng của khán giả.

Muốn nón lá được bền chỉ nên đội dưới nắng, không nên đi trong mưa. Sau khi dùng nên cất vào chỗ bóng râm, không phơi ngoài nắng sẽ làm cong vành, lá nón giòn và ố vàng làm mất tính thẩm mĩ và giảm tuổi thọ của nón. Nón lá là một những bề mặt của đất nước Việt Nam ta, vì thế hãy giữ gìn nó thật kĩ tránh làm hỏng nón. Hãy yêu quý cái nét truyền thống lâu đời đó, nón lá sẽ là một người bạn luôn sát cánh cùng chúng ta dẫu có nắng mưa gian khổ.

Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam  6

Cùng với chiếc áo bà ba, chiếc "nón lá" đã theo chân người phụ nữ miệt vườn, cùng với chiếc xuồng ba lá bồng bềnh theo con nước lớn, nước ròng, dầm mưa dãi nắng sớm chiều... Từ lâu chiếc nón lá đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong trang phục của người phụ nữ miền Nam nói riêng và phụ nữ Việt Nam nữ chung.

Ngày nay chiếc nón lá là hình ảnh quen thuộc và gần gũi với mọi người, nhưng có ai biết đâu để có chiếc nón lá đội đầu che mưa, che nắng và để làm duyên, ngày xưa tổ tiên chúng ta đã đổ bao tâm sức đề nghĩ ra và làm nên chiếc nón lá này. Nón lá có dạng hình chóp. Nón lá có nhiều loại khác nhau. Nón Gò Găng (sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa, thường dùng khi đội đầu cưỡi ngựa), nón quai thao (người miền Bắc Việt Nam thường dùng khi lễ hội), nón bài thơ (ở Huế là thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hoặc một vài bài thơ), nón dấu (nón có chóp nhọn của chú lính thời xưa)...

Nón làm bằng nhiều vật liệu khác nhau như lá cọ, lá dừa, lá buông,... nhưng chủ yếu làm bằng lá nón. Lá nón nguyên liệu được sử dụng là lá không quá non cũng không quá già - lá thường đang còn búp vừa đủ một tháng tuổi và phát triển hết chiều dài, chiều ngang, chưa chuyển sang màu xanh đậm, các bẹ lá ôm khít với nhau, chưa bung ra, có độ mềm với chiều dài khoảng 40 - 50 cm.

Để làm ra được một chiếc nón lá vừa đẹp, vừa bền là cả một nghệ thuật và công phu của những nghệ nhân, đòi hỏi sự tỉ mỉ trong từng công đoạn của quy trình sản xuất. Trong khâu kỹ thuật, thợ làm nón lá có kinh nghiệm chọn lá dù cô cũng còn giữ được màu xanh nhẹ, 16 vành nức thường mảnh được vuốt tròn trĩnh, tỉ mỉ và công phu. Lá được ủi nhiều lần, cẩn thận cho thật phẳng và láng.

Hình dáng của chiếc nón lá phụ thuộc rất nhiều vào khung chằm. Khung chằm ( còn được gọi là khuôn nón ) phải được đặt riêng với yêu cầu cụ thể để dáng của chiếc nón lá sau này cân đối, đẹp mắt, vừa ý. Người thợ làm khung nón giữ kỹ thuật tạo dáng, khoảng cách giữa các vành và độ tròn của vành... như một thứ gia bảo cha truyền con nối, theo một thẩm mỹ dân gian "hay mắt" mà thật ra là cả một tỷ lệ thích hợp đã được nhiều đời và nhiều vùng kiểm nghiệm "thuận mắt ta ra mắt người".

Khi xây và lợp lá phải thật khéo, nhất là khâu sử dụng lá chêm, tránh việc chồng nhau nhiều lớp để sao cho nón thanh và mỏng, mũi chỉ chằm phải để kẽ lá ôm khích lấy nhau. Khi nói chằm hoàn tất người thợ đính cái xoài bằng chỉ màu rất đẹp vào chóp nón sau đó mới phủ dầu nhiều lần, phơi đủ nắng để thành nón bóng láng và giữ được bền.

Từ khi có mặt với chức năng là "cái nón", thì chiếc nón đã theo chân người nông dân ra đồng, theo người phụ nữ đi sớm về trưa, được và dùng để quạt cho cháu vào giấc ngủ, được các bà mẹ vỗ về đội vào đầu và nắm tay dìu con đến trường. Nón cũng được các bà mẹ sụt sùi nước mắt đặt nhẹ lên đầu người con gái thương yêu trước khi lên xe hoa về nhà chồng. Chiếc nón lá còn có mặt trong sách vở, thi ca, qua câu hò tiếng hát của người bình dân để ca ngợi tình yêu trai gái... và chiếc nón thực sự trở thành một phần trong cuộc sống vô cùng đẹp và lãng mạn của đời mình.

Từ lâu chúng ta đã biết đến chiếc nón lá như một đồ vật rất quen thuộc bởi nó đã gắn bó và trở thành một phần trong cuộc sống của người dân Việt Nam. Nón lá gần với đời sống tạo nhiều nét bình dị, duyên dáng và thực tiễn trong đời sống nông dân "một nắng hai sương" trên cánh đồng, bờ tre làng. Cùng với chiếc áo dài thì chiếc nón lá đã trở thành một biểu tượng, một hình ảnh truyền thống của văn hóa Việt Nam.

Chiếc nón lá đã tự nhiên đi vào huyền thoại là một nét đẹp văn hóa, mang cái tâm hồn dân tộc gợi cảm ứng cho thơ ca. Chiếc nón lá chỉ từ 45 - 50 nghìn đồng mà nó tô lên nét đẹp, vẻ duyên dáng của người Việt Nam.

Do hiện đại có rất nhiều công ty sản xuất ra biết bao nhiêu là ô, mũ,... xinh xắn và lộng lẫy, nhưng trên khắp các nẻo đường nông thôn đến thành thị, hình ảnh chiếc nón lá vẫn xuất hiện chứng tỏ sự tồn tại của nó cùng thời gian cả về giá trị sử dụng lẫn nét đẹp văn hóa thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam.

Những đồ dùng muốn bền và đẹp thì cần bảo quản tốt, chiếc nón lá cũng vậy, sau khi đã sử dụng, người phụ nữ Việt Nam đều mắc lên và bao lại cẩn thận. Cũng vì thế mà sử dụng sẽ lâu hơn. Dẫu chiếc nón lá làm ra không dành riêng cho phái nữ, nhưng nói đến cái nón lá xưa nay người mình có thói quen liên tưởng đến người phụ nữ "nón nghiêng che" đầy ấn tượng!

So với chiếc nón lá các vùng miền khác thì nón Huế đi vào thơ ca, nhạc họa nhiều nhất. Hình ảnh cô gái Huế với chiếc nón lá bài thơ, khi che trên đầu, khi cầm trên tay, khi nghiêng nghiêng e thẹn đã tạo nên một vẻ đẹp rất Huế. Đã từ lâu rồi, khi nhắc đến nón bài thơ, người ta đều nghĩ ngay đến Huế.

Chiếc nón lá Việt Nam là một vật dụng không thể thiếu và là người bạn thân thiết đối với con người. Tuy nó mang giá trị vật chất không cao nhưng về giá trị tinh thần thì không chiếc nón nào so sánh được.

Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam  7

"Nón nầy che nắng che mưa

Nón nầy để đội cho vừa đôi ta" (Ca dao)

Tôi là chiếc nón lá Việt Nam không xa lạ với con người, ngày nay ở hải ngoại chỉ thấy nón lá xuất hiện trên sân khấu, trình diễn nghệ thuật múa nón và áo dài duyên dáng mền mại kín đáo của thiếu nữ Việt Nam nổi bật bản sắc văn hoá dân tộc, áo dài và nón lá là nét đặc thù của phụ nữ Việt Nam, chắc chắn không ai chối cãi. Nếu mặc áo đầm, hay quần tây mà đội nón không tạo được nét đẹp riêng.

Tôi dùng để che nắng mưa, có lịch sử lâu đời đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500-3000 năm. Nón lá gần với đời sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre lúc nghỉ ngơi dùng nón quạt cho mát mẻ ráo mồ hôi. Họ hàng nhà nón được chia thành nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử:

Nón dấu: Nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa

Nón gò găng hay nón ngựa: Sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi cỡi ngựa

Nón rơm: Nón làm bằng cộng rơm ép cứng

Nón quai thao: Người miền Bắc thường dùng trong lễ hội

Nón cời: Nón rách

Nón Gõ: Nón gõ làm bằng tre ghép cho lính hồi xưa

Nón lá Sen: Cũng gọi là nón liên diệp

Nón thúng: Thứ nón lá tròn bầu giống cái thúng.

Nón khua: Viên đẩu nón của người hầu các quan xưa

Nón chảo: Thứ nón mo tròn lên như cái chảo úp nay ở Thái Lan còn dùng

Nón cạp: Nón xuân lôi đại dành cho người có tang

Nón bài thơ: Ở Huế thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hay một vài câu thơ v.v

Người Việt từ nông thôn cho tới thành thị đều dùng tới tôi, nhưng ít người để ý đến tôi có bao nhiêu vành, đường kính rộng bao nhiêu cm. Tôi tuy giản dị rẻ tiền nhưng để tạo nên tôi cần người thợ phải khéo tay. Nghề chằm nón không chỉ dành riêng cho phụ nữ mà cả những người đàn ông trong gia đình cũng có thể giúp chuốt vành, lên khung nón. Với cây mác sắc, họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu; sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy.

Người phụ nữ thì chằm nức vành. Để có được lá đẹp, họ thường chọn lá nón non vẫn giữ được màu xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Khi xây và lợp lá, người ta phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp để nón có thể thanh và mỏng. Nghề làm nón lá thường sản xuất từ miền Bắc và miền Trung trong các làng quê sau vụ mùa. Vì sao ở các tỉnh miền Nam không thấy người ta chằm nón? Tuy vật liệu làm nên tôi rất đơn giản nhưng chúng không xuất hiện ở miền Nam nên không có nghề chàm nón.

Ngày nay dù đã phát triển nhưng trên những cánh đồng lúa xanh tươi ngoài Bắc, trong những trưa hè nắng gắt, người ta còn dùng lá tơi để che nắng, giống như con công đang xòe cánh. Người ta chặt những bé lá còn búp, cành bé lá có hình nan quạt nhiều lá đơn chưa xoè ra hẳn phơi khô, cột lại thành từng bó nhỏ gánh bán cho những vùng quê có người chằm nón. Ở Quảng Nam ngày xưa vùng Bà Rén chuyên buôn bán nón lá, từ đó phân phối đến các chợ như chợ Hội An, có khu bán nón lá nhiều loại.

Bé lá non lúc khô có màu trắng xanh, người mua phải phơi lá vào sương đêm cho lá bớt độ giòn vì khô, mở lá từ đầu tới cuồng lá, cắt bỏ phần cuối cùng, dùng lưỡi cày cũ hay một miếng gan, đặt trên nồi than lửa nóng đỏ, dùng cục vải nhỏ độn giống như củ hành tây, người ta đè và kéo lá nón thẳng như một tờ giấy dài màu trắng, có nổi lên những đường gân lá nhỏ, lựa những lá đẹp để làm phần ngoài của nón.

Người ta dùng cái khung hình giống như Kim Tự Tháp Ai Cập, có 6 cây sườn chính, khoảng cách giống nhau để gài 16 cái vành nón tròn lớn nhỏ khác nhau lên khung. Cái khung này phải do thợ chuyên môn làm kích thước đúng cỡ khi lợp lá và chằm nón xong, tháo nón ra dễ dàng.

Tôi thường chỉ 16 vành tròn làm bằng tre cật vót nhỏ đều nhau nối lại, tôi còn được thêu trên mình những bài thơ nhẹ mỏng chỉ 2 lớp lá trong chen hình cảnh và các câu thơ, nón thường độ bền lâu hơn dày có 3 lớp phần trong lót thêm loại lá đót, (loại cây này giống cây sậy, khi trổ bông người ta lấy bông làm chổi) Chằm xong nón tháo khỏi khung, cắt lá thừa nức miệng nón và làm quai, nón rộng đường kính thường 41cm, người ta phết phía ngoài lớp mỏng sơn dầu trong suốt nước mưa không thấm qua các lỗ kim vào bên trong. Để có được một chiếc nón, phải trải qua 15 khâu, từ lên rừng hái lá, rồi sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn vành, chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ...

Thời gian chưa có chỉ cước người ta dùng bẹ lá cây thuộc loại thơm (hùm) tước lấy phần tơ ngâm nước vài ba ngày cho nát phần thịt của lá, dùng bàn chải, chải lấy phần tơ dùng làm chỉ để chằm nón, hay dùng chỉ đoác. Nhưng sau này phát triển người ta dùng cước nhỏ bằng nylon, chằm nón có đường nét thanh nhã hơn. Họ hàng nón lá đã đi vào thi ca bình dân Việt Nam.

Nón em chẳng đáng mấy đồng,

Chàng mà giật lấy ra lòng chàng tham

Nón em nón bạc quai vàng

Thì em mới dám trao chàng cầm tay

Tiếc rằng vì nón quai mây

Nên em chẳng dám trao tay chàng cầm

Nón quai thao, hay nón thúng các cô gái Bắc thời xưa chưa chồng thường dùng, ngày nay đến Hà Nội không còn thấy ai đội nón quai thao, trên đường phố cổ trầm mặc dưới bóng cây cổ thụ, thiếu nữ Hà Nội che dù màu, đội mũ lát, đội mũ tân thời, nhưng vào thăm Văn Miếu sẽ thấy trình diễn văn hóa, hát quan họ, các cô đều trang sức giống như thời xưa với chiếc nón quai thao (hình trên trong Văn Miếu)

Thủa xưa con gái sau khi lập gia đình, bổn phận làm vợ, làm mẹ, họ chỉ chú trọng đến niềm vui tận tụy làm tròn bổn phận trong gia đình, xao lãng những vẻ đẹp bề ngoài...

Chưa chồng nón thúng, quai thao

Chồng rồi, nón rách, quai nào thì quai

Chửa chồng, yếm thắm, đeo hoa

Chồng rồi, hai vú bỏ ra tầy giành.

Tua ống tơ ngà tha thướt gió

Vàng vàng lá lụa nắng tươi xinh

Khuôn hoa e lệ trong khuôn nón

Say mắt chàng trai tiếc gửi tình

Nhưng dép cong nghiêm bước thẳng đường

Đâu ngờ tơ nón gió vương vương

Chàng về, mắt đắm sầu xa vắng

Cả một trời xuân nhạt nắng hường (Chiếc nón quai thao - Anh Thơ)

Thân phận của những bóng hồng khi về chiều nhan sắc tàn phai:

Còn duyên nón cụ quai tơ

Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong

Dáng dấp con gái Việt Nam mềm mại, dịu dàng, nếu trên đầu nghiêng nghiêng vành nón trắng. Nụ cười, ánh mắt giấu sau vành nón ấy mới cơ hồ e ấp, rạo rực vì những bâng khuâng... Mỗi thiếu nữ đều có một cái duyên để làm say đắm người khác phái. Nhưng tựu trung, nhan sắc của các nàng cũng không ngoài những điều đã được ca dao truyền tụng, Có nàng đẹp nhờ mái tóc thề hay cắt ngắn, đôi chân mày cong vòng như vầng trăng non dưới vành nón lá:

Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón

Chiều mùa thu mây che có nắng đâu

Nắng sẽ làm phai mái tóc xanh màu

Sẽ làm khô làn môi en dịu ướt

Còn tia mắt anh..

Có sao đâu mà em phải cúi đầu từ khước

Nếu nghiêng nón có nghĩa là từ khước

Thì mười ngón tay em sao bỗng quấn quít đan nhau

Nửa vầng má em bỗng thắm sắc hồng đào

Đôi chân bước..anh nghe chừng sai nhịp. (Thu Nhất Phương)

Ở Huế, có nhiều vùng chằm nón nổi tiếng từ xa xưa cho đến bây giờ như: Phú Hồ, Phước Vĩnh, Dạ Lê, Triều Sơn, Nam Phổ, Kim Long, Dương Nỗ, Tân Mỹ, Hương Sơ, Mỹ Lam, làng Chuồn, bên dòng sông Như Ý, thuộc xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế làm nón bài thơ dáng thanh mảnh, độ mỏng, màu nón nhã nhặn người ta còn cắt những bức tranh với chùa Linh Mụ, cầu Trường Tiền, con đò trên sông Hương... và đặc biệt nhất là vài câu thơ chất chứa tâm hồn xứ Huế.

Sông Hương lắm chuyến đò ngang

Chờ anh em nhé, đừng sang một mình (Ca dao)

Sao anh không về thăm quê em

Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên

Bàn tay xây lá, tay xuyên nón

Mười sáu vành, mười sáu trăng lên (Nguyễn Khoa Điềm)

Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay

Nón bài thơ e lệ nép trong tay

Những chiếc nón bài thơ thường trở thành vật "trang sức" của biết bao thiếu nữ lựa nón, lựa quai, cũng là một thú vui nên không ít người đã kỳ công đến tận nơi làm nón để đặt cho riêng mình với dòng thơ yêu thích. Buổi tan trường, các con đường bên sông Hương như dịu lại trong nắng hè oi ả bởi những dáng mảnh mai với áo dài trắng, nón trắng và tóc thề.

Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ

Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ

Gió cầu vương áo nàng tôn nữ

Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ

Nón bài thơ hiện hữu trên khắp nẻo đường và trở nên gần gũi, thân quen trong cuộc sống thường nhật của phụ nữ Huế, dùng nón lá nâng hay đựng xoài, cũng tạo nên nét đẹp mỹ miều.

Anh về Bình Định ba ngày

Dặn mua chiếc nón lá dày không mua

Nón bài thơ đặc sản Huế nón Gò Găng ở Bình Định còn gọi là nón ngựa làm bằng vành tre cật, chuốt nhỏ như tăm, đan thành ba lớp mê sườn; bên ngoài phủ lớp lá kè non, chằm bằng những đường chỉ tàu trắng muốt và đều đặn. Trên đỉnh chóp được gắn chụp bạc hoặc đồi mồi có chạm trổ long - lân - quy - phụng.

Quai nón được làm bằng lụa xanh hoặc đỏ, bản rộng và đều người ta chằm một chiếc nón ngựa phải mất cả tháng trời dày công nhọc sức. Vì vậy giá thành rất đắt, nó chỉ dành cho những người cao sang quyền quí, những chức sắc quan lại của triều đình. Dần dần theo nhu cầu của giới bình dân, nón ngựa được cải biên thành ngựa đơn rồi nón buôn, nón chũm, rẻ hơn nhiều.

Các loại này đều không có chụp bạc, nó được thay bằng những tua ngũ sắc ở chóp nón cho đẹp. Ở các vùng làm nón, ngày cưới, nhà giàu rước dâu bằng kiệu, chàng rể thì đội nón đi ngựa; còn những nhà nghèo cũng ráng sắm đôi nón ngựa cho cô dâu chú rể đội đi trong ngày cưới. Vậy nên có câu ca dao:

Cưới nàng đôi nón Gò Găng

Xấp lãnh An Thái, một khăn trầu nguồn

Ngày nay các cô gái làm nón hầu như không còn giữ được phương pháp làm nón ngựa nữa. Họ quen với công đoạn nhanh, giản tiện và dễ tiêu thụ của chiếc nón trắng mảnh mai - một sản phẩm của quá trình cải cách lâu dài. Để làm loại nón này phải qua nhiều công đoạn. Vấn sườn, lợp lá, chèn lá, chằm và nức. Việc làm lá đòi hỏi nhiều tính tỉ mỉ và kinh nghiệm lâu năm.

Nghề nón là thuộc thị trấn Gò Găng, Nhơn Thành - An Nhơn. Nơi đây có một chợ nón lớn họp thường ngày từ 3 - 4 giờ sáng. Cứ hết một đợt làm được 25 -30 chiếc thì bà con các vùng phụ cận lại mang nón đến bán và mua sắm vật liệu cho đợt sau. Mỗi tháng Gò Găng có thể cung cấp cho cả nước 50.000 chiếc nón. Gần đây nón Gò Găng còn được xuất khẩu sang các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia dưới dạng cải biên cho hợp với xứ người. Như vậy, từ vùng núi cao nguyên mưa nguồn gió dữ cho đến các miệt vườn miền Nam.

Nhớ nón Gò Găng

Vầng trăng đập đá

Sông dài sóng cả

Người quân tử,

Khăn điều vắt vai..

Đời sống văn minh, phát triển nhưng dòng họ nhà nón lá vẫn thuần túy nguyên hình của nó. Ở bất cứ nơi đâu, từ rừng sâu hẻo lánh, trên đồng ruộng mênh mông, dọc theo sông dài biển cả, đều thấy chiếc nón lá ngàn đời không đổi thay.

Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam  8

Đại diện cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam là tà áo dài duyên dáng và chiếc nón lá nghiêng nghiêng. Hình ảnh chiếc nón lá quen thuộc và gần gũi với đời sống người phụ nữ, không chỉ giúp che mưa, che nắng mà đó còn là một nét đẹp giản dị.

Hình ảnh chiếc nón lá đơn sơ, bình dị đã có từ rất lâu đời, và cho đến tận ngày nay nó vẫn là một món đồ không thể thiếu đối với người dân lao động, đặc biệt là những người phụ nữ chất phác, cần cù, quanh năm với công việc ruộng đồng.

Nhìn bên ngoài, chiếc nón chỉ là một hình chóp, có cấu tạo hết sức đơn giản, chỉ vài tấm lá cọ, vài mảnh tre, cộng thêm những sợi chỉ màu là đã có ngay một chiếc nón lá mát rượi, duyên dáng.

Nhưng để có được một chiếc nón hoàn chỉnh, đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo tay của những người đan nón, phải trải qua rất nhiều công đoạn, từ khâu chuẩn bị nguyên liệu, đan nón, cho đến trang trí,… Đó là cả một lòng tâm huyết, sự yêu nghề và những kinh nghiệm quý báu được truyền từ đời này sang đời khác.

Để làm ra một chiếc nón đẹp và tinh xảo, đòi hỏi người làm phải chọn tỉ mỉ nguyên liệu từ ban đầu. Lá làm nón phải là những tàu lá cọ đã già, dày và có màu đậm, đặc biệt chiếc lá phải lành lặn, tròn đều. Công đoạn tiếp theo là phơi lá cho khô, thường thì phơi từ 2-3 nắng, nếu lá không được phơi kĩ thường sẽ có những đốm đen, những vệt xám và không có màu trắng đẹp.

Tre dùng để đan nón thường được chẻ nhỏ, sau đó gọt sạch cho thật mềm mịn không bị xước, rồi được uốn thành những vòng tròn theo thứ tự từ nhỏ đến to dần. Những chiếc sợi tre tuy nhỏ, nhưng được coi như là khung xương của chiếc nón lá, là yếu tố tạo nên hình hài cho chiếc nón và giữ cho chiếc nón luôn được thật chắc chắn.

Cuối cùng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lá cọ và nan tre, lá được đan vào nón một cách khéo léo thông qua những đôi tay cần mẫn của những người nghệ nhân làm nón. Và hơn hết để tạo nên vẻ đẹp cho chiếc nón, làm cho chiếc nón lá có hồn hơn, khâu trang trí là không thể thiếu.

Những chiếc nón sau khi được đan xong, thường được trang trí những họa tiết bắt mắt như những mảnh hình xinh xắn về non nước Việt Nam, hay những loài hoa sặc sỡ sắc màu, thêm vài sợi chỉ màu buộc quanh để tô thêm vẻ đẹp quyến rũ cho chiếc nón lá. Và người ta không quên buộc thêm những chiếc quai bằng vải hoặc lụa. Cuối cùng những chiếc nón được đem ra phơi ngoài nắng một lần nữa để được chắc chắn hơn.

Chiếc nón lá là một vật dụng hết sức quen thuộc với người dân lao động Việt Nam, nó có thể che nắng che mưa rất hiệu quả, với tính năng gọn nhẹ, không thấm nước nó càng trở nên hữu dụng với mọi người. Ngoài ra, sau những giờ làm việc mệt nhọc, những trưa hè nóng bức chiếc nón lá cũng như một chiếc quạt, nhẹ nhàng mang từng cơn gió mát rượi về, những bác nông dân làm ruộng đồng, những người phụ nữ vất vả như cũng bớt đi nắng mưa, vơi đi chút mệt nhọc nào đó. Chiếc nón lá như một một người bạn giúp san sẻ bớt những gánh nặng của cuộc đời lam lũ.

Không chỉ có thế, ngày nay, chiếc nón lá còn là một phần của thời trang hiện đại. Chiếc nón lá luôn gắn liền với hình ảnh người phụ nữ Việt Nam bên tà áo dài thướt tha, chiếc nón lá như tô điểm thêm nét đẹp của người phụ nữ duyên dáng, hiền lành, chăm chỉ.

Chiếc nón lá gần gũi và hữu dụng luôn gắn liền với cuộc sống sinh hoạt của chúng ta. Hình ảnh chiếc nón lá đã đi vào từng câu thơ, khúc hát, nó không chỉ là nét văn hóa mà là dáng hình thân thương đầy duyên dáng của người phụ nữ Việt Nam.

Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam  9

“ Quê hương là cầu tre nhỏ

Mẹ về nón lá nghiêng che”.

Nón lá là một vật dụng quen thuộc đã đi vào thơ ca Việt Nam tự bao giờ. Nón lá đã góp phần tạo nên vẻ đẹp, duyên dáng cho người phụ nữ Việt Nam.

Nón lá Việt Nam có lịch sử lâu đời, hình ảnh tiền thân của nón lá được tìm thấy trên trống đồng Ngọc Lữ và tháp đồng Đào Thịnh. Từ xa xưa do chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa nắng lắm mưa nhiều, tổ tiên ta đã biết lấy lá kết vào nhau để là vật dụng đội lên đầu che nắng che mưa. Dần dần chiếc nón lá đã hiện diện như một vật dụng cần thiết trong đời sống sinh hoạt hằng ngày.

Để làm được một chiếc nón lá đẹp thì việc chuẩn bị nguyên liệu cũng rất quan trọng là lá nón( hoặc có nơi dùng lá cọ), lá buông- một loại lá họ hàng với lá cọ( thường mọc ở vùng đồi núi trung du). Ngoài ra còn cần đến tre, nứa, cước. Để làm nón đẹp khâu chọn lá rất quan trọng. Lá nón màu trắng sữa, gân lá màu xanh nhẹ, lá bóng mướt là đẹp nhất. Người ta thường khai thác lá nón ở vùng đồi núi Phú Thọ, Vĩnh Phúc hay vùng đồi núi Việt Bắc, Trường Sơn, Tây Bắc. Sau khi cắt lá về phải xử lí đúng quy trình kĩ thuật.

Đầu tiên phải sấy khô lá bằng than củi sau đó phơi sương cho lá mềm. Khi lá đạt độ mềm đúng yêu cầu, dùng gang nóng bọc trong túi vải, là cho phẳng phiu. Sau đó người làm nón lại cẩn thận chọn lọc lá một lần nữa cho đồng màu, cắt bớt đầu đuôi để dài khoảng 50 cm. Để làm nón người thợ phải vô cùng khéo léo và tỉ mỉ. Người ta dùng 16 vành tre chuốt nhỏ, mỏng, dễ uốn, cuốn lần lượt từ thấp đến cao và nan lớn rồi nan nhỏ để dựng thành khung nón có hình chóp nhọn.

Khung nón được làm như vậy sẽ tạo dáng nón thanh thoát, hài hòa làm tôn lên vẻ đẹp của người đội nón. Dân gian có câu “ Đẹp nón nhờ người thắt, đẹp mặt nhờ người khuôn”.Sau khung làm khuôn là khâu lợp lá nón. Công đoạn này đòi hỏi người thợ phải thật khéo tay làm sao để nón lá phân bố đều trên khung, hình dáng cân đối và khi khâu lá nón không bị chồng lên nhau.

Cuối cùng là công đoạn khâu nón, chỉ khâu bằng loại cước nhỏ trắng muốt. Người khâu phải căn cho mũi chỉ đều tăm tắp, uốn theo vành nón. Người thợ còn kì công thêu hình ảnh những cô thiếu nữ, đóa hoa hay cảnh đẹp quê hương có khi là cả một bài thơ. Một chiếc nón đẹp là cả sự chăm chút của người làm nón.

Ở nước ta có rất nhiều địa phương làm nón lá nổi tiếng. Ở miền Bắc có làng Chuông, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Miền Trung có làng nón Ba Đồn Quảng Nam và đặc biệt là nón bài thơ của Thừa Thiên Huế. Với người Việt Nam đặc biệt là những người nông dân, nón lá là vật dụng cần thiết. Nón lá dùng để che nắng, che mưa khi làm đồng, dùng thay chiếc quạt khi nghỉ giải lao trên đồng ruộng.

Với các cô gái, chiếc nón lá cùng với tà áo dài làm tôn lên vẻ kín đáo, dịu dàng. Nón lá là món đồ trang sức không cầu kì đắt tiền mà đẹp một vẻ đẹp giản dị, mộc mạc như chính tâm hồn con người Việt Nam. Đâu đâu ta cũng thấy thấp thoáng những chiếc nón lá dù là đi chợ hay đi hội ta đều gặp các bà, các mẹ dưới nón lá nghiêng tre.

Nón lá cũng là vật dụng mà mẹ chồng trao cho con dâu trước khi về nhà chồng để cầu chúc cho cuộc sống vợ chồng trăm năm bền chặt. Đó cũng là món quà lưu niệm mà du khách nước ngoài mang về để tặng cho người thân. Nón được làm bằng lá nên khi sử dụng cần nhẹ nhàng, khi không dùng thì treo lên cao, tránh để rơi, dễ bị méo, thủng. Khi trời mưa có thể bọc ngoài nón một lớp túi bóng trắng mỏng, nếu bị ướt thì phơi khô tránh bị ố vàng.

Ngày nay có rất nhiều vật dụng như mũ, ô…ra đời dần dần có thể thay thế nón nhưng hình ảnh chiếc nón vẫn chiếm một vị rí quan trọng trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam để rồi mỗi chúng ta cần có thái độ tôn trọng nét đẹp truyền thống này.

Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam  10

Bên cạnh tà áo dài thân thương – một nét đẹp văn hoá truyền thống của người Việt, hình tượng chiếc nón lá cũng là một biểu trưng khiến chúng ta tự hào nhớ đến hai tiếng gọi thiêng liêng “Việt Nam” mỗi khi nhìn thấy ở bất kỳ nơi đâu. Chúng ta chắc hẳn không ai có thể quên được hình ảnh người con gái  Việt với “tà áo dài trắng nhẹ nhàng bay/nón bài thơ e lệ trong tay/thầm bước lặng, những khi trời dịu nắng".Thật vậy, khởi nguồn từ cuộc sống dung dị đời thường, bước vào thơ ca nhạc hoạ, hình ảnh chiếc nón lá qua bao thế kỷ thăng trầm vẫn vẹn nguyên một nét đẹp truyền thống hiếm có.

Nón lá vốn bắt nguồn từ lâu đời trong chiều dài lịch sử nước ta. Từ thời sơ khai, hình ảnh chiếc nón đã được sử dụng như một biểu tượng chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lữ và thạp đồng Đào Thịnh, những công cụ xuất hiện trong khoảng ba nghìn năm trước công nguyên so với thời đại ngày nay.

Trải qua những biến động của từng thời kỳ lịch sử, hình ảnh chiếc nón lá xuất hiện rất nhiều trong ca dao, tục ngữ, thơ ca văn hoá, khẳng định sự hiện diện của vật dụng này trong đời sống của người Việt từ lâu đời.

“Còn duyên nón vải quai tơ

Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong”

Hay:

“Ơ này cô mặc áo nâu

Đầu đội nón lá, đi đâu vội vàng?”

Lịch sử chứng kiến quá trình dựng nước, giữ nước của dân tộc với bao gian nan không chỉ giữ vững nền độc lập mà còn giữ vững nền văn hoá tránh mai một, lai căn, tạp dị với những âm mưu đồng hoá. Chiến tranh vẫn không khiến đất nước ta đánh mất đi những hình tượng truyền thống đẹp đẽ vốn có, trong đó có chiếc nón lá với bao làng nghề làm nón nổi tiếng vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Mấy ai quên được câu hát: “Muốn ăn cơm trắng cá trê/Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông”. Đặc biệt, vùng đất còn lưu giữ nhiều làng nghề làm nón truyền thống của nước ta hiện nay chính là xứ Huế mộng mơ, với những địa điểm cụ thể như làng Dạ Lê, làng Đồng Di, làng Phủ Cam,…Không chỉ là nơi gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc, những địa điểm này ngày nay đã trở thành địa danh du lịch, tham quan khi du khách nước ngoài có dịp ghé thăm và tìm hiểu văn hoá Việt Nam.

Để có thể tạo nên một chiếc nón lá hoàn chỉnh, quá trình làm nón thực chất cũng phải trải qua nhiều công đoạn công phu, tỉ mỉ. Người làm nón có thể được ví như một nghệ nhân thực thụ. Từ những nguyên liệu thô sơ, giản dị phổ biến ở vùng quê Việt Nam, những nghệ nhân ấy đã có thể phù phép trở thành chiếc nón lá kỳ công, tinh xảo, không chỉ đáp ứng nhu cầu sử dụng mà còn đáp ứng tính thưởng lãm nghệ thuật.

Bắt đầu quá trình làm nón là công đoạn chọn lá. Lá sử dụng để làm nón là loại lá dừa thô hoặc lá cọ còn nguyên vẹn. Thông thường, lá cọ sẽ cho ra đời những chiếc nón tinh xảo, đẹp mắt hơn. Lá cọ dùng làm nón phải là loại lá đựa lựa chọn tỉ mỉ, màu trắng xanh, đường gân xanh rõ ràng, còn non vừa đúng chuẩn mà không phải quá già. Sau khi chọn được lá ưng ý, người làm nón tiến hành sấy khô lá bằng bếp than, sau đó mang ra phơi dưới trời sương khoảng độ từ hai đến bốn giờ để lá đạt được độ mềm, dai nhất định. Kết thúc công đoạn phơi lá, người làm nón phải trải và ủi phẳng lá bằng một miếng gang hơ qua lửa nóng. Lá dùng làm nón được cắt với độ dài đều nhau khoảng 50 cm.

Kế tiếp, đến công đoạn chuốt vành nón. Thông thường, công đoạn này cần đến sức khoẻ và sự nhanh nhẹn của những người thợ nam. Người này sử dụng một cây mác sắt, thực hiện chuốt lần lượt từng nan tre có đường kính rất nhỏ (nhỉnh hơn một chút so với que tăm tre) để các nan tre được tròn đều. Sau đó, uốn những nan tre đã chuốt thành các vòng tròn từ nhỏ đến lớn, tròn vành vạnh và đều nhau theo tỷ lệ kích thước (thường có 16 nan tre cho một chiếc nón). Những công việc này đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình làm nón, có thể quyết định sự thành công ban đầu khi định dạng khung nón. Vì vậy, nếu nan tre không đều nhau thì phải thực hiện chuốt và uốn lại nhiều lần sao cho đạt đến một mức độ tiêu chuẩn nhất định. Những vòng nan tre sau đó được đặt lên khung hình chóp để tiến hành xếp lá lên khung. Công đoạn xếp lá đòi hỏi sự tỉ mỉ cao độ của người thợ làm nón. Các phiến lá xếp chồng lên nhau phải theo một chiều, trình tự nhất định và canh chỉnh sao cho không bị thiếu sót, dư thừa hay xô lệch.

Đặc biệt, nhắc đến chiếc nón lá không thể không nhắc đến một loại nón nổi tiếng đặc trưng: nón bài thơ của xứ Huế. Nón bài thơ được làm kỳ công và tỉ mỉ hơn hẳn các loại nón lá thông thường. Loại nón này rất mỏng, thanh thoát, nhẹ nhàng, được xếp chồng hai lớp lá với nhau và có một bài thơ được khéo léo xếp chồng giữa hai lớp lá. Khi soi lá lên ánh nắng, hình ảnh bài thơ hay các hình ảnh địa danh đặc trưng của Huế như chùa Thiên Mụ, tháp Bút, cầu Tràng Tiền,…hiện lên một cách kỳ diệu. Đây quả thực là sự kỳ công sáng tạo của người nghệ nhân.

Trở lại với quá trình làm nón lá, sau khi đã xếp các lớp lá đều khít chồng lên nhau, người thực hiện bắt đầu công đoạn chằm nón. Công đoạn này chính là việc sử dụng sợi nylon dẻo, dai, màu trắng trong suốt để chằm lên nhằm cố định lá và khung nón. Đường kim mũi chỉ khi chằm nón phải đều tăm tắp và không được đứt đoạn hay xô lệch nhau gây mất thẩm mỹ. Tại vòng nan thứ hai hoặc thứ ba từ dưới lên của chiếc nón, người thợ khâu thêm hai vòng chỉ đối xứng với nhau để buộc quai nón. Khi hoàn tất các đường chỉ, tại chóp nón, thợ làm nón đính thêm một mũi thêu chỉ bóng để chiếc nón đẹp mắt hơn.

Quai nón được làm bằng chất liệu mềm mại như vải lụa, nhung,…với các màu sắc rực rỡ hay đằm thắm đều có, tạo nét duyên dáng cho người đội nón. Chiếc nón có thể được tạo các đường thêu, hình thù đặc sắc như như hoa sen, hình ảnh các thiếu nữ,..trên mặt nón để góp phần tăng tính bắt mắt. Ngày nay, nón lá không chỉ được thiết kế đơn sơ nhằm đảm bảo nhu cầu sử dụng mà còn được chú trọng rất nhiều về tính thẩm mỹ, tăng thêm độ tinh xảo và ấn tượng trong quá trình làm nón. Khi hoàn tất các công đoạn trên, người làm nón dùng dầu bóng để phủ lên toàn bộ mặt ngoài nón, sau đó mang phơi dưới ánh nắng vừa phải để nón bền đẹp trong quá trình sử dụng.

Quá trình tạo ra chiếc nón lá có vẻ kỳ công và đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo cao của người làm nghề. Song, người làm nón lành nghề là những người có đôi tay thoăn thoắt, nhanh nhạy, khiến chúng ta hết sức ngưỡng mộ khi có thể tạo ra một chiếc nón với khoảng thời gian ngắn. Khách du lịch thập phương khi dừng chân tại những địa điểm làng nghề làm nón cũng tỏ vẻ rất thích thú khi tận mắt chứng kiến toàn bộ quá trình này. Nghề làm nón bên cạnh những ngành nghề thủ công khác vẫn còn được lưu truyền và thật may mắn vì vẫn chưa hề có dấu hiệu mai một theo thời gian.

Khắp chốn làng quê non nước Việt Nam, có thể nói nơi nào cũng có thể bắt gặp hình ảnh của quen thuộc chiếc nón lá. Chiếc nón vốn là vật dụng phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân quê trong lao động sản xuất cũng như đời sống hằng ngày. Khắp các nẻo đường làng, hình ảnh những người phụ nữ tảo tần vai quẩy đôi quang gánh, đầu đội chiếc nón lá cất lên tiếng rao hàng đã trở thành một hình ảnh đẹp. Nón lá trở thành người bạn đồng hành của người dân lao động. Nón lá giúp che mưa, che nắng. Nón lá tựa một chiếc quạt mang làn gió mát lành mỗi buổi trưa oi ả ngoài đồng. Những nữ sinh duyên dáng khi xưa với tà áo dài tinh khôi bước đi, tay che nghiêng chiếc nón lá bài thơ bên dòng sông Hương thơ mộng là hình thượng khơi nguồn cảm xúc cho biết bao văn nhân, thi sĩ. Nón lá là biểu trưng thể hiện nét đẹp duyên dáng, dịu dàng, e lệ của người con gái Việt; nét tảo tần của bao người phụ nữ Việt dãi nắng dầm sương. Chiếc nón lá xuất hiện nhiều hơn trong các tác phẩm văn nghệ, các bài múa ca ngợi nét đẹp truyền thống non nước, con người Việt Nam.

Để có thể phát huy hết vẻ đẹp của nón lá và giữ công dụng nón trong thời gian lâu nhất có thể, người sử dụng phải có những cách thức bảo quản nón lá đúng cách. Nón lá không nên được dùng để đi vào trời mưa, thay vào đó nên sử dụng ô để thay thế, bởi chất liệu lá khi tiếp xúc với nước sẽ ảnh hưởng đến độ bền đẹp của nón. Người sử dụng cần hạn chế dùng nón để quạt vè dễ gây móp méo, cong vành nón gây mất thẩm mỹ. Sau khi sử dụng, nên cất giữ, treo nón ở nơi bóng râm, tránh để nơi ánh nắng trực tiếp sẽ gây nóng giòn, hư hỏng chiếc nón.

Nón lá trải qua bao thăng trầm vẫn đồng hành cùng người Việt, cùng với chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng cho nét đẹp dịu dàng người con gái Việt Nam. Chiếc nón lá không chỉ là vật dụng mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho người dân quê Việt Nam mà ngày này đã trở thành một món quà lưu niệm độc đáo cho khách du lịch nhằm lưu giữ kỉ niệm khi đặt chân đến mảnh đất hiếu khách, nồng ấm tình người và dồi dào bản sắc dân tộc này. Những người con xa quê khi nhìn thấy hình ảnh chiếc nón lá bỗng dưng lại có thể nhớ đến Việt Nam thân thương, nhớ về nơi quê nhà quen thuộc cất giữ bao tình cảm chân thành nồng hậu. Trong tương lai, hy vọng rằng hình ảnh chiếc nón lá vẫn giữ nguyên nét đẹp truyền thống vốn có mà không hề bị pha tạp hay mai một để ngày càng vươn xa hơn, quảng bá cho thế giới về nét đẹp dân tộc Việt, trở thành một nét văn hoá đặc trưng mà bất kỳ người dân Việt Nam nào khi nhớ đến đều có thể hãnh diện tự hào.

Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam  11

“Quê hương là cầu tre nhỏ

Mẹ về nón lá nghiêng che”

Chiếc nón lá cứ như vậy mà trở thành hình ảnh quen thuộc nhất, gắn với người bà, người mẹ, gắn với quê hương yêu dấu trong tiềm thức của mỗi người. Cùng với hình ảnh tà áo dài, chiếc nón lá là nguồn cảm hứng cho rất nhiều các tác phẩm thơ ca, là niềm tự hào của mỗi người con đất Việt mỗi khi xa quê nhớ về.

Về nguồn gốc chiếc nón lá Việt Nam, không ai biết nón lá có từ bao giờ, chỉ biết nó đã được hình thành từ rất lâu. Vào khoảng 2500-3000 năm trước công nguyên, hình ảnh chiếc nón đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lữ, thạp đồng Đào Thịnh, điều này chứng tỏ nón lá đã được sử dụng và có trở thành hình ảnh quen thuộc trước đó rất lâu rồi.

Một số làng nghề làm nón nổi tiếng đã có từ rất lâu đời như làng Đồng Di (Phú vang), làng Dạ Lê (Hương Thủy) đặc biệt là làng nón Phủ Cam (Huế), đến nay còn có thêm làng Chuông vẫn còn giữ được những nét đặc sắc trong nghề làm nón. Trải qua nhiều những biến động, thăng trầm của lịch sử, nghề chằm nón vẫn còn tồn tại và duy trì tới ngày nay.

Nón lá có hình chóp nhọn, bao gồm một số bộ phận như vành nón, nan nón, thân nón, dây nón. Vành nón làm từ thanh tre mảnh, uốn cong, có đường kính khoảng 40-50 cm, nan nón là những thanh tre nhỏ hơn, đường kính cũng nhỏ dần từ vành lên tới chóp. Thân nón được phủ bằng những lớp lá khô, được xếp lớp và chằm cẩn thận để giúp người dùng tránh mưa tránh nắng. Dây nón thường được làm bằng vải mềm hoặc lụa để đeo vào cổ không gây cảm giác đau rát.

Về nguyên liệu làm nón, nón thường được làm từ nhiều loại lá khác nhau như lá dừa, lá cọ, lá nón. Lá phải được chọn lọc kĩ càng, là những chiếc lá to khỏe, không quá non, cũng không quá già, gân lá và màu lá phải đạt chuẩn, sau đó được đem đi sấy khô, mặt lá phải bóng.

Quy trình làm nón diễn ra vô cùng phức tạp, đòi hỏi sự cẩn trọng và khéo léo của người thợ thủ công từ khâu chọn lá, sấy lá, ủi lá đến khâu chuốc vành, lên khung lá, xếp nón rồi chằm nón. Lá sau khi được chọn lọc cẩn thận sẽ được đem đi sấy khô, không được phơi nắng vì ánh nắng mặt trời sẽ làm cho lá giòn, dễ gãy. Lá sau khi được sấy sẽ được phơi sương từ 2 đến 4 giờ cho mềm, sau đó được ủi cho phẳng trên bếp than có độ nắng vừa phải. Mỗi chiếc lá cần được cắt gọn gàng sao cho có cùng độ dài khoảng 50cm.

Đến công đoạn chuốc vành, lên khung lá, xếp nón, người thợ thủ công với cây mác sẽ chuốt từng nan tre sao cho tròn đều và nhỏ gọn, sau đó uốn những nan tre này thành những vòng tròn thật đều từ lớn đến nhỏ. Mỗi chiếc nón cần có đủ 16 nan tre, xếp lên khung với khoảng cách đều nhau.

Khi đã xong phần tạo khung và chuẩn bị lá, tiếp theo là đến giai đoạn chằm lá. Những chiếc lá được xếp cẩn thận lên khung, người thợ thủ công dùng sợi nilon dẻo, chắc để khâu nón, các lá nón phải được xếp ngay ngắn không xô lệch, đường kim mũi chỉ phải đều tăm tắp mới có thể tạo thành một chiếc nón đẹp.

Ở vòng tròn lớn bằng nan tre dưới đáy chóp, người thợ thường dùng chỉ kết đối xứng hai bên để buộc dây nón. Quai nón bằng những dải lụa nhiều màu sắc, mềm mại càng làm tăng thêm nét duyên cho người đội nón, đặc biệt là người phụ nữ Việt với nét đẹp dịu dàng, thướt tha. Sau khi đã làm xong từng ấy công đoạn, chiếc nón sẽ được quét một lớp sơn phủ bóng lên bên trên để tăng độ bền chắc cho chiếc nón.

Chiếc nón thường được dùng cho mục đích che mưa, che nắng. Người nông dân Việt Nam vẫn thường dùng nón để đội đầu mỗi khi ra đồng bởi chiếc nón rộng vành, chắc chắn, nhẹ, sẽ tránh được cái nắng to soi chiếu lên phần đầu và mặt. Ca dao xưa cũng từng viết về công dụng của chiếc nón:

“Nón này che nắng che mưa

Nón này để đội cho vừa lòng ta”

 Chiếc nón còn được dùng trong biểu diễn nghệ thuật. Những tiết mục múa dân gian thường sử dụng đạo cụ là chiếc nón là, vừa là hình ảnh biểu tượng quen thuộc, vừa làm tôn lên vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại, kín đáo của người phụ nữ Việt, gây ấn tượng độc đáo cho khán giả.

Nhắc đến nón lá, có lẽ ta sẽ không thể nào bỏ quên hình ảnh chiếc nón bài thơ xứ Huế. Chiếc nón đẹp mắt, tinh xảo như chắt chiu từng sự tỉ mẩn của người thợ làm nón và tình yêu nghề trong đó. Kể từ khi du lịch phát triển mạnh ở Huế, chiếc nón lá trở thành mặt hàng lưu niệm đối với du khách, mang vẻ đẹp của người con gái xứ Huế mộng mơ đi khắp năm châu bốn biển.

Những cô gái xứ Huế với chiếc nón bài thơ, tà áo dài duyên dáng, thong dong tản bộ bên bờ sông Hương đã trở thành hình ảnh đẹp trong thơ ca:

“Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ

Ngàn thông núi Ngụ đứng như mơ

Gió cầu vương áo nàng tôn nữ

Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ”

Chiếc nón lá từ lâu đã trở thành hình ảnh quen thuộc vẫn thường được bắt gặp trong những câu ca dao quen thuộc như:

“Nón em chẳng đáng mấy đồng

Chàng mà giật lấy ra lòng chàng tham

Nón em nón bạc nón vàng

Thì em mới dám trao chàng cầm tay

Tiếc rằng vì nón quai mây

Nên em chẳng dám trao tay chàng cầm.”

Hay hình ảnh chiếc nón trong bài ca dao thể hiện sự chăm chút cho vẻ bề ngoài:

“Chưa  chồng nón thúng quai thao

Chồng rồi, nón rách, quai nào thì quai”

hay:

“Còn duyên nón cụ quai tơ

Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong”

Trong nhiều bài thơ nổi tiếng, các tác giả cũng miêu tả hình ảnh người con gái Việt với chiếc nón lá, như trong “Việt Bắc”, Tố Hữu từng viết “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”, hay trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm:

“Sao anh không về thăm quê em

Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên

Bàn tay xây lá, tay xuyên nón

Mười sáu vành mười sáu trăng lên”

Để nón lá được bền lâu thì người sử dụng cũng cần phải cẩn trọng trong quá trình bảo quản nón. Trong quá trình sử dụng nón không nên ngồi hay dẫm chân lên nón, không sử dụng nón làm vật đựng những đồ nặng vì sẽ làm nón méo mó, mất đi hình dạng ban đầu. Khi không sử dụng, nón cần được treo ở nơi cao ráo để tránh ẩm mốc.

Chiếc nón lá đã trở thành niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam mỗi khi nhắc nhớ về. Vẫn còn đó những câu thơ trong bài “Nón lá” của Nguyễn Lãm Thắng về chiếc nón lá Việt Nam để khẳng định giá trị của nó trong đời sống tâm hồn Việt:

“Mỏng manh chiếc nón, ấy mà

Che mưa che nắng đường xa mẹ về

Từ phố thị đến làng quê

Ở đâu nón cũng nguyện che mái đầu

Nón che cái nắng qua cầu

Chị đi đến lớp mặc dầu nắng oi

Nón che từng giọt mưa rơi

Chiều đông cha vẫn ra nơi ruộng đồng

Giúp người nón mãi ước mong

Dẫu bao mưa nắng nón không ngại ngần.”