Xương sống và công cụ chủ yếu của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh là?
Xương sống và công cụ chủ yếu của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh là chính sách bình định và quân đội Sài Gòn.
Thắng lợi chính trị mở đầu giai đoạn chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của quân và dân Miền Nam Việt Nam là:
Ngày 6-6-1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập. Đó là chính phủ hợp pháp của nhân dân miền Nam. Vừa ra đời, Chính phủ Cách mạng lâm thời đã được 23 nước công nhân, trong đó 21 nước đặt quan hệ ngoại giao. Đây là thắng lợi chính trị quan trọng, mở đầu cho giai đoạn chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mĩ đã leo lên nấc thang cao nhất vào giai đoạn nào?
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mĩ đã leo lên nấc thang cao nhất vào giai đoạn đánh phá miền Bắc lần thứ 2 vào năm 1972 khi mang máy bay B52 một trong những máy bay hiện đại nhất của Mĩ.
Mục tiêu chung cơ bản nhất của Mĩ khi tiến hành các chiến lược ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 là
Mục tiêu chung cơ bản nhất của Mĩ khi tiến hành các chiến lược ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 là biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mĩ.
Mỗi tấc đất, mỗi ngọn cỏ mang tên một Anh hùng!”
Câu nói trên nhắc đến địa danh lịch sử nào?
Cuộc chiến tại Thành Cổ Quảng Trị đi vào lịch sử như những trang bi tráng nhất, 81 ngày đêm thấm đẫm "máu và hoa" với những ký ức không thể nào quên.
Sự dữ dội, quyết liệt của trận "quyết chiến chiến lược" này đã trở thành kinh điển khắc khoải, đau nhói: “Mỗi tấc đất Thành Cổ đều thẫm đẫm máu hồng, sự hy sinh của các anh đã trở thành bất tử. Trong 81 ngày đêm, từ 28/6 - 16/9/1972, địch đã ném xuống Thành Cổ Quảng Trị 328.000 tấn bom đạn. Trung bình mỗi chiến sĩ phải hứng lấy 100 quả bom, 200 quả đạn pháo”.
Trong giai đoạn ác liệt nhất, mỗi ngày có 1 đại đội vượt dòng Thạch Hãn để tiếp viện quân số, mỗi đại đội có từ 90 đến 120 chiến sỹ, 81 ngày đêm ta phải bổ sung 81 đại đội như vậy. Nhưng cứ đêm nay một đại đội tiến vào thì ngày mai chỉ còn lại vài người sống sót.
Chiến thắng của ở Thành Cổ đã góp một phần quan trọng vào thắng lợi trên bàn hội nghị Pari tạo đà cho công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Những câu thơ của cựu chiến binh Phạm Đình Lân - là người trực tiếp cầm súng trong chiến trường Thành Cổ viết cho đồng đội khi thăm lại chiến trường xưa.
Thành cổ Quảng Trị: Mỗi tấc đất, mỗi ngọn cỏ mang tên một Anh hùng:
“Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi
Cho đồng đội tôi nằm yên dưới cỏ
Trời Quảng Trị trong xanh và lộng gió
Dẫu ồn ào đừng lay động hàng cây.
Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi
Thành Cổ rộng sao đồng đội tôi nằm chật
Mỗi tấc đất là một cuộc đời có thật
Cho tôi hôm nay đến nghẹn ngào.”
Trước khi đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại bản di chúc với dự liệu thiên tài, động viên tinh thần chiến đấu của quân và dân ta là
Khát vọng, niềm tin tất thắng và ý chí giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc Người dặn lại trong bản Di chúc lịch sử: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà” trở thành nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cổ vũ đồng bào và chiến sĩ cả nước trong hành trình chiến đấu và chiến thắng.
Điểm khác nhau giữa chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" và chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" là
Điểm khác nhau giữa "Chiến tranh đặc biệt" và "Việt Nam hoá chiến tranh" là có sự phối hợp về hỏa lực, không quân và hậu cần của Mĩ.
Các đáp án A, C, D đều là điểm giống giữa hai chiến lược.
Điểm giống nhau giữa chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" với "Việt Nam hoá chiến tranh" là
Điểm giống nhau giữa chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" với "Việt Nam hoá chiến tranh" là quân đội ngụy là lực lượng chủ lực.
Âm mưu cơ bản của Mĩ trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969-1973) là
Sau thất bại của chiến lược “chiến tranh cục bộ”, Mĩ rút dần lực lượng quân Mĩ và đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam. Đồng thời triển khai chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969-1973), nhằm tiếp tục thực hiện âm mưu “Dùng người Việt đánh người Việt”
Trong chiến lược “Đông Dương hóa chiến tranh”, Mĩ đã thực hiện biện pháp gì để chia rẽ khối đoàn kết 3 nước Đông Dương?
Trong chiến lược “Đông Dương hóa chiến tranh”, quân đội Sài Gòn được Mĩ sử dụng như lực lượng xung kích ở Đông Dương trong các cuộc hành quân mở rộng xâm lược Campuchia và tăng cường chiến tranh ở Lào, thực hiện âm mưu “Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”. Đây là biện pháp của Mĩ thực hiện nhằm chia rẽ khối đoàn kết của ba nước Đông Dương.
Lực lượng quân đội nào đã phối hợp với quân đội Việt Nam đập tan cuộc hành quân “Lam Sơn- 719” (1971) của quân đội Mĩ và Việt Nam Cộng hòa?
Từ ngày 12-2 đến 23-3-1971 quân đội Việt Nam có sự phối hợp với quân dân Lào đạp tan cuộc hành quân “Lam Sơn 719” của quân đội Mĩ và quân đội Việt Nam Cộng hòa, buộc quân Mĩ và quân đội Sài Gòn phải rút khỏi Đường 9 - Nam Lào, giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương
Cuộc tiến công nào của quân dân miền Nam đã buộc Mĩ phải tuyên bố “Mĩ hóa” trở lại chiến tranh xâm lược?
Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã giáng đòn nặng nề vào chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, buộc Mĩ phải tuyên bố “Mĩ hóa” trở lại chiến tranh xâm lược- tức thừa nhận sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”
Hướng tiến công chủ yếu của quân Giải phóng miền Nam trong năm 1972 là
Ngày 30-3-1972, quân ta mở cuộc Tiến công chiến lược đánh vào Quảng Trị , lấy Quảng Trị làm hướng tiến công chủ yếu, rồi phát triển rộng khắp chiến trường miền Nam
Nguyên nhân khách quan nào khiến Mĩ phải chuyển sang thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh”?
Làn sóng phản đối chiến tranh Việt Nam của người dân Mĩ dâng cao đã khiến cho nước Mĩ bị khủng hoảng, chia rẽ sâu sắc. Đây là nguyên nhân khách quan khiến Mĩ buộc phải chuyển sang thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh”, rút dần quân Mĩ và Đồng minh ra khỏi chiến tranh để giảm xương của người Mĩ, tận dụng xương máu người Việt Nam trên chiến trường
Lực lượng chính trị trực tiếp lãnh đạo cách mạng miền Nam từ năm 1969 là
Ngày 6-6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập. Đó là đại diện hợp pháp của nhân dân miền Nam, là Lực lượng chính trị trực tiếp lãnh đạo cách mạng miền Nam từ năm 1969 thay cho mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
Trong chiến lược “Đông Dương hóa chiến tranh” (1969-1973) đối tượng chiến tranh của Mĩ đã có sự biến đối như thế nào?
Năm 1970, Mĩ đã giật dây tay sai lật đổ chính phủ trung lập Xihanúc, lôi kéo Campuchia vào quỹ đạo cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ trên bán đảo Đông Dương. Như vậy, chiến tranh đã được mở rộng và tăng cường ra toàn bán đảo Đông Dương.
Sự kiện chính trị nào đã biểu thị quyết tâm của nhân dân ba nước Đông Dương đoàn kết chiến đấu chống Mĩ?
Trong hai ngày 24 và 25- 4- 1970, Hội nghị cấp cao ba nước Việt Nam- Lào- Campuchia họp nhằm đối phó với việc Mĩ chỉ đảo tay sai làm đảo chính lật đổ chính phủ trung lập Xihanúc. Hội nghị đã biểu thị quyết tâm của nhân dân ba nước Đông Dương đoàn kết chiến đấu chống Mĩ
Tại sao có thể khẳng định, so với chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968), “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969-1973) là một bước lùi của Mĩ trong chiến tranh Việt Nam?
Thất bại trong chiến lược chiến tranh cục bộ (1965-1968), Mĩ không tiếp tục leo lên một nấc thang chiến tranh là chiến tranh tổng lực, mà Mĩ lại rút dần lực lượng quân Mĩ và đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam, quay trở lại với hình thức tăng cường của “chiến tranh đặc biệt”, tiếp tục thực hiện âm mưu “Dùng người Việt đánh người Việt” và mở rộng quy mô ra toàn Việt Nam
Đâu không phải là điểm tương đồng về thủ đoạn mà Mĩ thực hiện trong các chiến lược chiến tranh ở Việt Nam (1961-1973)
Điểm tương đồng về thủ đoạn mà Mĩ thực hiện trong các chiến lược chiến tranh ở Việt Nam (1961-1973) là
- Về kinh tế: tiến hành viện trợ kinh tế cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa
- Về chính trị- quân sự: tăng cường viện trợ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa, quân đội Sài Gòn được sử dụng như lực lượng quan trọng trong các cuộc hành quân càn quét và bình định để chiếm đất, nắm dân
- Về ngoại giao: Sử dụng chiêu bài giúp đỡ đồng minh để che đậy bản chất cuộc chiến tranh
- Về văn hóa: reo rắc nọc độc văn hóa thực dân, nô dịch để ru ngủ tinh thần đấu tranh của nhân dân miền Nam
Đâu không phải là điểm giống nhau giữa chiến lược chiến tranh cục bộ (1965-1968) với chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh (1969-1973)
Cả chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” đều thuộc hình thức chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của Mĩ, diễn ra trên quy mô toàn Việt Nam và đều bị phá sản. Điểm khác biệt cơ bản nhất giữa giữa hai chiến lược này là lực lượng quân đội nòng cốt. Nếu như quân đội Mĩ là lực lượng chủ chốt trong cuộc “chiến tranh cục bộ”, thì quân đội Việt Nam Cộng hòa lại là lực lượng chủ chốt trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.