Phân tích truyện Sống chết mặc bay 1
Phạm Duy Tốn nhà văn, nhà báo nổi tiếng đầu thế kỉ XX. Ông để lại số lượng tác phẩm không nhiều – chỉ có bốn truyện ngắn nhưng ông luôn được đánh giá là nhà văn có vị trí mở đầu cho xu hướng viết truyện hiện đại. Sống chết mặc bay là truyện ngắn đầu tay đồng thời cũng là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Tác phẩm đã dựng lên bức tranh về cuộc sống người dân, cũng như bộ mặt của giai cấp cầm quyền trong xã hội cũ.
Văn bản vào đề bằng một tình huống hết sức căng thẳng, gay cấn: mọi người đang cùng nhau gắng sức hộ đê. Khi ấy là gần một giờ đêm, nước sông Nhị Hà mỗi lúc một cao, trời mưa tầm tã không ngớt. “Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt như chuột lột”. Với hình thức liệt kê kết hợp với các câu hội thoại, tiếng gọi, tiếng hô,… thể hiện tình thế nguy ngập, căng thẳng, nghìn cân treo sợi tóc. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng các lời bình luận như: “Tình cảnh trông thật thảm hại”; “Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê nay hỏng mất” hàng loạt các câu cảm thán được đưa ra càng thể hiện rõ hơn nỗi lo lắng của tác giả trước tình thế nguy ngập, gấp rút này.
Trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc chắc hẳn ai cũng sẽ đặt ra câu hỏi vậy người lãnh đạo, người đứng đầu lúc này đang ở đâu. Rời xa khung cảnh của những người dân phu, ống kính máy quay của tác giả lia đến địa điểm trên đình, cao mà vững chãi cho người đọc thấy được chân dung của viên quan phụ mẫu. Thì ra vị quan phụ mẫu đang hộ đê trong đình, với một khung cảnh hoàn toàn trái ngược: “Đình ấy ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì” “trong đình, đèn thắp sáng trưng, nha lệ lính tráng, kẻ hầu, người hạ, đi lại rộn ràng”. Không khí trong đình ấm cúng, nghiêm trang khác hẳn với không khí đầy lo âu, sợ hãi ở ngoài kia. Sự bình thản của mỗi người được thể hiện trên từng quân bài. Quan phụ mẫu đang hộ đê trong tư tế ung dung, nhàn hạ, tay cầm bát yến, ngồi khểnh vuốt râu và đánh tam cúc cùng lũ người dưới quyền. Bằng ngôn ngữ tự sự, miêu tả, biểu cảm tác giả đã tái hiện khung cảnh trớ trêu, lay động lòng người, đánh thức niềm xót xa nơi người đọc cho số phận của những người dân nghèo nàn, cực khổ. Vào thời điểm gay cấn nhất có người vào báo tin: “Bẩm dễ có khi đê vỡ” thì ngài cau mặt mà gắt: “Mặc kệ”; sự việc còn được đẩy lên một mức độ cao hơn nữa khi đê vỡ ai nấy đều tái mặt, sợ hãi thì quan phụ mẫu quát tháo: “Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy”. Rồi quan tiếp tục ván bài sắp ù to của mình. Thật là một kẻ lòng lang dạ thú, độc ác bất nhân. Hắn chỉ ngồi lo đánh bài, chứ không quan tâm đến tính mạng của người dân, đê vỡ mặc đê cũng không thể bằng nước bài cao thấp của hắn. Nghệ thuật tương phản, tăng cấp đã phát huy tác dụng: vạch trần bộ mặt bất nhân của kẻ cầm quyền, cho thấy số phận đau thương, bất hạnh của người dân. Tác phẩm đã dựng lên hai bức tranh tương phản rõ nét, phản ánh toàn cảnh xã hội phong kiến thời xưa. Hai hình ảnh đối lập này càng làm tăng thêm ý nghĩa tố cáo những kẻ cầm quyền độc ác, vô nhân tính, không biết quan tâm, chăm lo đến đời sống nhân dân.
Có thể nói bằng nghệ thuật tương phản, tăng cấp độc đáo cùng với việc sử dụng ngôn từ khéo léo, Phạm Duy Tốn đã dựng lên hai bức tranh, hai nghịch cảnh: quan thì nhàn hạ, sung sướng, dân thì khổ cực trong bão lũ. Ngôn ngữ tác phẩm đã thoát khỏi tính ước lệ, khuôn sáo và điển tích của văn học trung đại, ngôn từ tiến gần đến lời ăn tiếng nói hàng ngày - ngôn ngữ văn học hiện đại.
Đây là truyện ngắn có giá trị hiện thực sâu sắc. Tác phẩm là bản cáo trạng tố cáo mạnh mẽ, đanh thép những kẻ cầm quyền vô trách nhiệm, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc. Và sự đồng cảm, cảm thương sâu sắc với nhân dân, phải chịu muôn ngàn khó khăn không chỉ bởi thiên tai, lũ lụt mà còn bởi những tên quan phụ mẫu thờ ơ, vô trách nhiệm.
Phân tích truyện Sống chết mặc bay 2
Phạm Duy Tốn là một trong những nhà văn đầu tiên sáng tác văn học theo chủ nghĩa hiện thực. Ông tập trung vào những tác phẩm văn học mang tính chất hiện thực và viết về những con người trong thời kì này. Nổi bật trong số những tác phẩm của ông chính là tác phẩm “ Sống chết mặc bay”. Qua tác phẩm, chúng ta thấy được xã hội thối nát của thời kì lúc bấy giờ cùng những khó khăn của những người nông dân luôn phải đối mặt với bão lũ nhưng lại không nhận được sự chăm lo của quan phụ mẫu- những người đáng lẽ phải chăm lo cho cuộc sống của người dân nhiều nhất.
Câu chuyện bắt đầu với hình ảnh của những người nông dân đang cùng nhau chống lũ trên con sông Nhị Hà. Nước sông cuồn cuộn dâng ngày một cao. Thậm chí, dù lúc đó đang là nửa đêm nhưng mọi người vẫn cố gắng thay phiên nhau canh cho nước không bị vỡ. Khí thể lúc đó được mọi người miêu tả là vô cùng khí thể. Đủ mọi dụng cụ được mọi người mang hết ra để cùng nhau chống lũ: nào cuốc, nào thuổng, gậy gộc,… Thế nhưng, dù cho tất cả mọi người đang cố gắng thì sức người có hạn, những thứ mà mọi người sử dụng chỉ là những phương tiện thô sơ mà thôi. Thế cho nên, dù đã rất cố gắng, nhưng nước sông Nhị Hà vẫn đang dâng lên không ngừng, đe dọa tới cuộc sống của nhân dân quanh vùng nếu như đê bị vỡ. Mọi người ai nấy đều đang trông chờ vào sự giúp đỡ của quan. Nếu như có quan ở đây thì mọi thứ có lẽ sẽ khác. Thế nhưng, tất cả những mong chờ của người dân đều là vô vọng.
Ngay lúc này, trái ngược với khí thế khẩn trương và căng thẳng của người dân ở trên đê. Lúc này, quan đang ở trong đình ngồi chơi tổ tôm. Những ván bài đen đỏ đang lôi kéo sự chú ý của quan. Bên cạnh quan là biết bao nhiêu người hầu quan chơi đánh bài: nào thầy đề, thầy thông, phán quan,… Mọi người đều hầu quan chơi. Tác giả đã sử dụng biện pháp miêu tả trái ngược giữa cuộc sống của quan và của những người dân thấp hèn lúc bấy giờ. Khi những người dân đang cố gắng chống lại lũ lụt thì quan đang hưởng thụ sự sung sướng ở trong đình đầy sơn son thếp vàng. Khi những người dân đang khẩn trương, lo sợ nước sông Nhị Hà bị võ thì quan đang sung sướng vì đã ù được mấy ván bài liên tiếp.
Hình ảnh của viên quan hiện lên làm cho tất cả chúng ta cùng cảm thấy phẫn nộ. Đáng lẽ, quan phải là cha, là mẹ của những người nông dân chân yếu tay mềm thì quan lại không hề để ý tới cuộc sống của con dân mình. Hắn là một kẻ vô tâm, ích kỉ, chỉ biết nghĩ tới bản thân mình. Trong những lúc nước sôi lửa bỏng như vậy mà hắn lại không hề nghĩ tới những con người ngoài kia, hắn đang chờ cho ván bài tới của hắn. Khi có người báo đê sắp vỡ, hắn cũng bỏ ngoài tai tất cả, không hề quan tâm chút nào, chỉ mải giục những người đang chơi cùng ra ván bài nhanh lên. Ngay cả những kẻ vốn cũng là những người có học như thầy đồ, thầy phán cũng không hề can gián quan mà chỉ hùa nhau nịnh bợ quan, giúp cho quan vui vẻ. Thế mới thấy đắng cay làm sao cho số phận của những người dân.
Tới lần thứ hai, tên nô tài bẩm báo, quan vẫn không hề lay chuyển, thậm chí còn mắng tên nô tài. Đoạn trích này, tác giả Phạm Duy Tốn đã thể hiện một cách tinh tế biện pháp tăng tiến giữa tình trạng cấp bách của những người nông dân và mức độ bài đỏ của quan. Nước sông Nhị Hà càng dâng cao, cuộc sống của người dân càng khó khăn thì những ván bài của quan lại càng trở nên đỏ hơn bao giờ hết. Và để rồi cuối cùng, khi đê không thể chịu được nữa, bị vỡ hoàn toàn khiến cho nước sông tràn vào phía trong làm cho tất cả hoa màu, thú nuôi của người dân bị cuốn đi hết, tiếng than khóc vang lên khắp nơi thì cũng là khi quan ù những ván bài to nhất. Tên nô tài run rẩy báo cho quan thì bị quan nạt nộ:” ông bỏ tù chúng mày”. Mọi thứ bị đẩy lên dần dần và rồi cuối cùng, tức nước vỡ bờ, không còn gì có thể giữ lại được nữa.
Tóm lại, tác phẩm đã phản ánh hiện thực lúc bấy giờ với những điều mà văn học thời kì đó chưa phản ánh hết được. Đó chính là một xã hội thối nát, mục ruỗng, quan không chăm lo cho cuộc sống của nhân dân khiến cho nhân dân phải rơi vào cảnh lầm than mà không biết nương tựa vào đâu. Qua đây tác giả cũng nhẹ nhàng phê phán xã hội, cách cai trị của những người bậc trên đối với quan lại.
Phân tích truyện Sống chết mặc bay 3
Phạm Duy Tốn (1883 – 1924), nguyên quán làng Phượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây; sinh quán thôn Đông Thọ (nay là phố Hàng Dầu, Hà Nội),ông là một trong số ít người có thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại. Và một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là Sống chết mặc bay.
Với hai bức tranh đời tương phản, tác giả đã phản ánh rõ nét toàn cảnh xã hội phong kiến thời xưa. Hai hình ảnh trái lập nhau đã làm càng tăng thêm ý nghĩa, lên án, tố cáo những kẻ cầm đầu độc ác, không biết quan tâm đến đời sống nhân dân hay nói đúng hơn là tên quan phủ – một viên quan vô trách nhiệm lòng lang dạ sói trong tác phẩm. Văn bản này vào đề bằng một hình ảnh hết sức căng thẳng, gay cấn, khó khăn. Đó là vào một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông dâng cao đe doạ vỡ đê. Với công cụ thô sơ, những người dân chân lấm tay bùn với hàng nghìn tư thế khác nhau: người vác cuốc, người vác tre, kẻ bì bõm ướt như chuột lột cùng nhau gắng sức chống lại thiên tai, bão lụt. Hình ảnh muôn sầu nghìn thảm ấy làm bất cứ ai được đọc, được nghe đều không khỏi xót thương. Sự vất vả của người dân kéo dài tới mãi đêm khuya vẫn chưa chấm dứt. Tiếng hò, tiếng gọi, í ới, gấp gấp, sự căng thẳng ấy được bộc lộ qua nét mặt của từng người. Trước tình cảnh như vậy thì bất kì ai cũng đặt ra câu hỏi: Vậy trước thế cùng sức kiệt như vậy thì quan phụ mẫu, những người có chức quyền ở đâu. Thì ra những vị quan phụ mẫu đang hộ đê trong đình, một khung cảnh hoàn toàn trái ngược. Bầu không khí ấm áp không chút lo âu. Sự bình thản của mỗi người trên từng quân bài. Quan phụ mẫu đang hộ đê trong tư thế ung dung, nhàn hạ, tay cầm bát yến, ngồi khểnh vuốt râu. Sự oai phong của quan được thể hiện ở lời nói. Những tên xu nịnh vây quanh nịnh hót, quan thắng bài đó là niềm hạnh phúc. Từng khung cảnh cũng được đề cập đến trong văn bản càng bộc lộ rõ nét hơn.
Than ôi! Xã hội phong kiến bất công biết bao. Bằng những ngôn từ, biện pháp tự sự, kết hợp với miêu tả, bình luận cùng với những cảm xúc chân thực, tác giả đã đưa người đọc vào trong cuộc sống bấy giờ, tái hiện lại những nghịch cảnh trớ trêu, lay động lòng người, đánh thức lên một nỗi niềm xót cảm. Không mảy may một chút vương lòng, những hình ảnh nhàn hạ, nào quan phủ, nào thầy lí, thầy đề, những tên cường hào, ác bá được lột tả dưới ngòi bút của tác giả. Với những ngôn từ bình dị, cổ xưa, tác giả đã gợi lên một khung cảnh chân thực. Hơn thế nữa, một loạt những nghệ thuật độc đáo được được sử dụng. Khi thời điểm tưởng chừng ngàn cân treo sợi tóc, văng vẳng từ xa tiếng người vào bẩm báo: “Dễ có khi đê vỡ”. Cảnh bình chân như vại của viên quan bằng lời nói: “Mặc kệ” khi đợi bài ù. Không chỉ vậy sự thách thức của hắn còn được bộc lộ bởi câu nói: “Đê có vỡ, nước có dâng lên cao thì cũng không lo đình sập, đình vỡ” Thật là nghịch chướng. Đó là phép tăng cấp rất độc đáo. Hay nghệ thuật tương phản cũng khá ấn tượng. Hai khung cảnh một trời một vực, một bên ung dung nhàn nhã, một bên gấp gáp lo âu. Sự tương phản này là mâu thuẫn quan điểm của hai lớp người trong xã hội xưa.
Có thể nói với sự khéo léo trong việc vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn hai biện pháp nghệ thuật cùng với ngôn từ chặt chẽ điêu luyện, phù hợp tương tác với nhau, bài văn đã rất thành công trong việc lột tả hai hình tượng đối lập. Đồng thời cũng lên án những tên quan phụ mẫu đại diện chính quyền lại vô trách nhiệm hay nói đúng hơn là lòng lang dạ sói cứ ung dung, thoải mái trong nhung lụa, hạnh phúc, bỏ mặc người dân trong cảnh lầm than, cơ cực. Hai bức tranh đời này mang đậm đà chất hiện thực và thắm đượm những cảm xúc nhân văn và gợi lên lòng đồng cảm nơi người đọc.
Phân tích truyện Sống chết mặc bay 4
Xung quanh một không gian hẹp nhưng Sống chết mặc bay lại đề cập đến những vấn đề xã hội to lớn: Là sự khốn khổ của người dân quê trong cơn lụt lội; thói vô trách nhiệm của bọn quan lại.
Phạm Duy Tốn là một trong những cây bút mở đầu cho thể loại truyện ngắn hiện đại, trong đó có tác phẩm “Sống chết mặc bay”. Tác phẩm đã thể hiện rõ nét nỗi khổ của người dân trong thời kỳ xã hội thối nát, bọn quan lại cường hào thì ăn chơi phè phỡn, không quan tâm tới vận mệnh của người dân.
Tác phẩm đã đem lại sự tò mò của người đọc ở ngay tiêu đề. Nhan đề bắt nguồn từ một câu tục ngữ nổi tiếng và rất quen thuộc của dân gian ta “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Câu tục ngữ phê phán, lên án trước thái độ của những kẻ chỉ biết vun vén, lo cho lợi riêng mình trong khi đó lại thản nhiên, lãnh đạm, thờ ơ thậm chí vô lương tâm trước tính mạng của những người con người mà mình phải có trách nhiệm. Tác giả chỉ chọn phần đầu của câu tục ngữ mà không chọn cả câu bởi ông muốn tạo ra sự tò mò, hấp dẫn người đọc. Bởi trong câu chuyện này thì chỉ có phần đầu mới phù hợp với nội dung, cốt truyện. Và như ý kiến nhận xét trên đây đã đề cập, “Sống chết mặc bay” không phải để “tiền thầy bỏ túi” mà để các quan thoái thác trách nhiệm, “tự do” với cuộc ăn chơi của mình.
Xuyên suốt tác phẩm, tác giả đã lấy bối cảnh là một cuộc hộ đê của dân làng XX… giữa mùa nước dâng cao. Không gian tác phẩm chỉ gồm hai địa điểm: Đê và đình. Ngoài đê, dân tình hối hả, cực nhọc hộ đê. Trong đình, quan phụ mẫu và nha lại chơi đánh bài tổ tôm. Không gian truyện quả thực rất hẹp nhưng hai đối tượng xã hội mà tác phẩm dựng lên lại là hai giai cấp tiêu biểu, vốn có những mâu thuẫn gay gắt trong lòng xã hội đương thời: Nông dân và quan lại phong kiến. Và qua công việc hộ đê trong phạm vi một làng nhỏ, tác phẩm đã đề cập đến những vấn đề xã hội to lớn: Đó là sự khốn khổ của người dân quê trong cơn lụt lội; thói vô trách nhiệm của bọn quan lại…”.
Trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt, trời tối đen như mực, nước sông Nhị Hà đang dâng lên, thế mà hàng trăm con người đang phải đội đất, vác tre, bì bõm dưới bùn lầy, trong mưa gió để cố giữ lấy đê. Ngược lại hoàn toàn với cảnh đó cách đó vài trăm thước, trong đình đèn điện sáng trưng nhộn nhịp người đi lại, “quan phụ mẫu” uy nghi chễm chệ có lính gãi chân, có lính quạt hầu, thản nhiên đánh bài: “Một người quan phụ mẫu uy nghi, chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên cầm quạt lông chốc chốc sẽ phẩy. Tên đứng khoanh tay trực hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, tráp đồi mồi, hai bên nào ống thuộc bạc, nào đồng hồ vàng và cơ man những vật dụng quý phái sang trọng khác”. Nhà văn đã dùng thủ pháp tương phản để đan xen hai hoàn cảnh: Sự khốn khổ, điêu đứng của người dân và sự ung dung, an nhàn vô trách nhiệm của tên quan “phụ mẫu”.
Sự tài tình khéo léo trong ngòi bút của tác giả thể hiện ở chỗ, hai hình ảnh hoàn toàn đối ngược với nhau tạo nên hai nghịch cảnh. Chính điều này càng gây ra nỗi căm phẫn trong lòng người đọc. Trời càng lúc càng mưa to, đê càng lúc càng sụt lở nhiều, dân càng lúc càng đuối sức. Thì ở trong đình, ván bài của quan càng lúc càng hồi hộp, càng gần đến hồi “gay cấn”. Kết hợp với nghệ thuật tương phản là thủ pháp tăng cấp, Phạm Duy Tốn ép không gian truyện đến nghẹt thở. Cao trào của tác phẩm dâng lên khi có người nhà quê chạy vào run rẩy báo: “Đê vỡ mất rồi”, quan phụ mẫu không những không lo lắng mà còn lớn tiếng quát: “Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày” rồi tiếp tục thản nhiên đánh bài!
Với ngòi bút sắc sảo khi nhà văn miêu tả cảnh dân – quan, ta thấy cuộc sống nhân dân khổ đến cùng cực, sự sống mong manh, bè lũ quan lại tiêu biểu là tên quan phụ mẫu thì vô trách nhiệm và lòng lang dạ thú đến tận cùng. Hiện thực ấy được thu nhỏ qua bức tranh hộ đê vô cùng gian khổ. Nhà văn cảm thông chia sẻ với cuộc sống thê thảm của người dân trong cảnh hộ đê và cảnh điêu linh của dân sau khi đê vỡ. Đó là sự tố cáo phê phán thái độ thờ ơ vô trách nhiệm của bè lũ quan lại. Thái độ vô trách nhiệm ấy đã trở thành một tội ác đối với dân. Trong xã hội lúc bấy giờ, không phải chỉ có một mình tên quan phụ mẫu sống vô trách nhiệm với dân mà còn rất nhiều tên quan cũng thờ ơ với số phận của nhân dân giống tên quan phụ mẫu này. Xây dựng hình ảnh một tên quan phụ mẫu nhưng tác giả đã thay lời nhân dân tố cáo những tên quan lại vô lại làm hại dân hại nước đang tồn tại trong xã hội mà tác giả đang sống.
“Xung quanh một không gian hẹp nhưng “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn lại đề cập đến những vấn đề xã hội to lớn: Đó là sự khốn khổ của người dân quê trong cơn lụt lội; thói vô trách nhiệm của bọn quan lại…”. Ý kiến nhận xét đó đã khái quát được thành công về mặt nội dung tư tưởng của truyện ngắn hiện đại đầu tiên trong nền văn học nước nhà.
Trong cuộc sống xã hội phong kiến xưa có rất nhiều những kẻ vô lương tâm, lòng lang dạ thú như tên quan phụ mẫu. Trong xã hội này thì khác, nhà nước đã rất chú trọng đến đời sống nhân dân nhưng vẫn không ít kẻ vì lợi riêng mà mặc cho số phận, sinh mang của nhân dân. Và bởi vậy, có thể khẳng định rằng, giá trị hiện thực của truyện ngắn này vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa tới ngày nay.
Có thể nói tác phẩm Sống chết mặc bay là lời tố cáo của nhân dân với xã hội phong kiến thối nát, tạo điều kiện cho những kẻ mất nhân tính tồn tại và gieo rắc nỗi khổ cho nhân dân. Tác giả đã thương cảm cho số phận của nhân dân phải chịu nhiều áp bức bóc lột.