Sự tích Hồ Gươm
I. Đôi nét về tác phẩm: Sự tích Hồ Gươm
1. Thể loại: truyền thuyết
- Truyền thuyết là 1 trong 12 thể loại văn học dân gian của nước ta. Gồm có các đặc điểm nổi bật sau:
· Đây là loại truyện dân gian kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ, thường có yếu tố tưởng tượng kì ảo.
· Thể hiện thái độ và cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử được kể.
· Truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm thuộc nhóm những truyền thuyết về thời Hậu Lê - so với những truyền thuyết về thời kì đầu dựng nước (Con Rồng cháu Tiên, Bánh chưng bánh giầy, Thánh Gióng...) thì những truyền thuyết ra đời sau như Sự tích Hồ Gươm có ít yếu tố hoang đường, kì ảo hơn, đồng thời theo sát lịch sử hơn
2. Phương thức biểu đạt
- PTBĐ chính là tự sự
3. Tóm tắt
Bài tóm tắt số 1
Thời giặc Minh đô hộ, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa tại Lam Sơn, được Đức Long Quân cho mượn thanh gươm thần giết giặc. Người đánh cá Lê Thận ba lần kéo lưới đều được một lưỡi gươm. Ít lâu sau, Lê Lợi bị giặc đuổi, chạy vào rừng thấy vỏ gươm nạm ngọc, tra vào lưỡi gươm nhà Lê Thận thì vừa như in, mới biết đó là gươm thần. Nhờ có gươm thần, nghĩa quân đánh thắng quân xâm lược. Một năm sau, Lê Lợi đi thuyền chơi hồ Tả Vọng, Long Quân sai Rùa Vàng lên đòi gươm thần. Từ đó hồ Tả Vọng đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm.
Bài tóm tắt số 2
Nước ta vào thời giặc Minh bị đô hộ, tình cảnh đất nước lầm than. Thấy vậy Đức Long Quân vị thần cai quản biển cả quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần để đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Vùng Thanh Hóa có người đánh cá tên là Lê Thận thả lưới 3 lần đều kéo lên thanh gươm. Về sau Lê Thận tham gia nghĩa quân và trong lần tình cờ Lê Lợi thấy thanh gươm phát sáng lên 2 chữ Thuận Thiên.
Trong một lần bị giặc đuổi Lê Lợi thấy trên cây đa phát sáng mới biết đó là chuôi gươm. Về tra vào thanh gươm thì thấy vừa khít mới phát hiện đó là gươm thần. Thanh gươm thần trong tay Lê Lợi đánh đâu thắng đó, đánh tan quân Minh ra khỏi bờ cõi.
Sau khi lên ngôi vua Lê Lợi cưỡi thuyền rồng đi dạo hồ Tả Vọng gặp Rùa Vàng hiện lên đòi lại gươm thân. Lê Lợi trả gươm, Rùa Vàng nhanh chóng lấy gươm và lặn xuống nước. Bắt đầu từ đây hồ Tả Vọng được mang tên Hồ Gươm.
Bài tóm tắt số 3
Lúc giặc Minh xâm chiếm nước ta, nhân dân sống trong cơ cực, xem mạng người như cỏ rác. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổi dậy nhưng không thành công. Thấy vậy Đức Long Quân cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần.
Lê Thận trong 3 lần thả lưới đều kéo lên thanh sát về sau mới biết đó là thanh gươm. Khi Lê Lợi đến nhà Lê Thận thanh gươm phát sáng và thấy rõ 2 chữ “Thuận Thiên”. Trong một lần tình cờ Lê Lợi tìm được chuôi gươm nạm ngọc, mang tra vào thanh gươm rất vừa.Nhờ có gươm thần mà nghĩa quân nhiều lần đánh bại giặc ngoại xâm và giành được độc lập.
Sau đó Lê Lợi lên ngôi, trong một lần đi thuyền hồ Tả Vọng, rùa thần nổi lên đòi gươm. Vua trả lại gươm, rùa nhanh chóng lặn xuống nước. Bắt đầu từ đây hồ Tả Vọng đổi tên thành Hồ Gươm.
Bài tóm tắt số 4.
Giặc Minh đô hộ nước ta, chúng làm nhiều điều bạo ngược. Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa tại Lam Sơn nhưng ban đầu thế yếu, lực mỏng nên thường bị thua. Đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần để giết giặc.
Một người đánh cá tên là Lê Thận ba lần kéo lưới đều gặp một thanh sắt, nhìn kĩ hoá ra một lưỡi gươm. Sau đó ít lâu, Lê Lợi bị giặc đuổi, chạy vào rừng bắt được chuôi gươm nạm ngọc trên cây đa, đem tra vào lưỡi gươm ở nhà Lê Thận thì vừa như in, mới biết đó là gươm thần.
Từ khi có gươm thần, nghĩa quân đánh đâu thắng đấy, cuối cùng đánh tan quân xâm lược.
Một năm sau khi thắng giặc, Lê Lợi đi thuyền chơi hồ Tả Vọng; Long Quân sai Rùa Vàng lên đòi lại gươm thần. Từ đó, hồ Tả Vọng được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm.
4. Bố cục(3 phần)
- Phần 1 (từ đầu đến “một tên giặc nào trên đất nước”): Lạc Long Quân cho Lê Lợi và nghĩa quân mượn gươm thần để đánh giặc
- Phần 2 (còn lại): Lê Lợi trả gươm
5. Giá trị nội dung
Truyện “Sự tích Hồ Gươm” ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân và chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh xâm lược do Lê Lợi lãnh đạo ở đầu thế kỉ XV. Truyện cũng nhằm giải thích tên gọi hồ Hoàn Kiếm, đồng thời thể hiện khát vọng hòa bình dân tộc
6. Giá trị nghệ thuật
- Sử các chi tiết tưởng tượng, kì ảo giàu ý nghĩa (như Rùa Vàng, gươm thần...)
- Sử dụng nhiều chi tiết nghệ thuật tiêu biểu cho truyện dân gian:
· Lối kể chuyện theo trình tự thời gian (cái gì xảy ra trước thì kể trước, cái gì xảy ra sau thì kể sau)
· Cốt truyện kể về nhân vật chính là Lê Lợi - một người có tài, có đức, có chí lớn, được nhân dân kính yêu, thần linh ủng hộ, cuối cùng làm nên nghiệp lớn, thống nhất giang sơn.
· Kết thúc các câu chuyện dân gian luôn là kết thúc có hậu, người tốt sẽ thành chính quả, được như mong ước (Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn dành được chiến thắng, thống nhất đất nước), kẻ xấu phải gánh hậu quả nặng nề (quân Minh bị quét sạch)
II. Phân tích văn bản Sự tích hồ gươm
a) Dàn ý
Dàn ý phân tích mẫu số 1
1. Mở bài
- Giới thiệu về thể loại truyền thuyết (khái niệm truyền thuyết, khái quát đặc trưng thể loại truyền thuyết…)
- Giới thiệu về truyền thuyết “Sự tích Hồ Gươm” (tóm tắt văn bản, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)
2. Thân bài
a. Long Quân trao gửi gươm báu cho Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn để đánh đuổi quân xâm lược
- Hoàn cảnh:
· Giặc Minh đô hộ nước ta, làm nhiều điều bạo ngược, coi dân ta như cỏ rác
· Nghĩa quân Lam Sơn thế lực còn yếu nên nhiều lần bị thua
→ Đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần
- Đức Long Quân cho nghĩa quân mượn gươm:
· Lê Lợi: chủ tướng, nhặt được chuôi gươm ở trên ngọn cây đa trong một khu rừng
· Lê Thận: người dân đánh cá, nhặt được lưỡi gươm
→ Trên lưỡi gươm có hai chữ “Thuận Thiên” nghĩa là theo ý Trời, qua đó khẳng định tính chất chính nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn.
→ Đồng thời, việc Lê Lợi nhặt được chuôi gươm và Lê Thận nhặt được lưỡi gươm cho chúng ta thấy đây là cuộc khởi nghĩa mang tính chất đoàn kết toàn dân. Chỉ khi quân và dân đoàn kết một lòng thì kẻ thù nào cũng không phải sợ hãi.
b. Nhờ gươm thần mà nghĩa quân Lam Sơn đánh thắng quân Minh, dành lại độc lập
- Sau khi nhận được gươm thần, tình thế của nghĩa quân hoàn toàn thay đổi:
· Nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng
· Nghĩa quân xông xáo đi tìm giặc chứ không phải trốn tránh như trước, họ tung hoành khắp các trận địa, khiến cho quân Minh phải kinh hồn bạt vía
· Gươm thần mở đường cho họ đánh tràn ra mãi, đến lúc không còn bóng giặc nào trên đất nước nữa
→ Như vậy, nhờ sức mạnh của gươm thần và sự đoàn kết của nhân dân cùng nghĩa quân, giặc Minh đã bị quét sạch khỏi bờ cõi nước Nam, đất nước ta trở về với độc lập, thái bình.
c. Lê Lợi trả lại gươm cho Long Quân, lý giải tên gọi của hồ Hoàn Kiếm
- Bối cảnh diễn ra màn trao trả gươm thần:
· Thời gian: một năm sau khi đuổi giặc Minh
· Hoàn cảnh đất nước: nước ta đã hoàn toàn độc lập, an hưởng thái bình
· Địa điểm: hồ Tả Vọng
· Nhân vật đòi gươm: Rùa Vàng – sứ giả của Đức Long Quân
· Nhân vật trả gươm: Lê Lợi nay đã trở thành vua - đang cưỡi thuyền rồng du ngoạn
→ Hành động trao trả gươm thần một cách dứt khoát thể hiện sự trung thực, nghĩa khí, không tham lam, gian dối của vị anh hùng Lê Lợi.
- Sự kiện Lê Lợi trao trả gươm thần cho Đức Long Quân đã giải thích cho việc hồ Tả Vọng được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm - đây là cách lý giải của nhân dân ta.
3. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của văn bản:
+ Nội dung:
· Ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân và chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh xâm lược do Lê Lợi lãnh đạo ở đầu thế kỉ XV
· Giải thích tên gọi hồ Hoàn Kiếm, đồng thời thể hiện khát vọng hòa bình dân tộc.
+ Nghệ thuật:
· Sử dụng các chi tiết tưởng tượng, kì ảo có ý nghĩa
· Có lối kể chuyện đậm chất dân gian...
Dàn ý phân tích mẫu số 2
I. Mở bài
- Giới thiệu về thể loại truyền thuyết (khái niệm truyền thuyết, khái quát đặc trưng thể loại truyền thuyết…)
- Giới thiệu về truyền thuyết “Sự tích Hồ Gươm” (tóm tắt văn bản, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)
II. Thân bài
1. Lạc Long Quân cho Lê Lợi và nghĩa quân mượn gươm thần để đánh giặc
- Hoàn cảnh:
+ Giặc Minh đô hộ nước ta, làm nhiều điều bạo ngược, coi dân ta như cỏ rác
+ Nghĩa quân Lam Sơn thế lực còn yếu nên nhiều lần bị thua
→ Đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần
- Đức Long Quân cho nghĩa quân mượn gươm:
+ Lê Lợi: chủ tướng, nhặt được chuôi gươm ở trên ngọn cây đa trong một khu rừng
+ Lê Thận: người dân đánh cá, nhặt được lưỡi gươm
→ Trên lưỡi gươm có hai chữ “Thuận Thiên” nghĩa là theo ý Trời, qua đó khẳng đinh tính chất chính nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn. Đồng thời, việc Lê Lợi nhặt được chuôi gươm và Lê Thận nhặt được lưỡi gươm cho chúng ta thấy đây là cuộc khởi nghĩa mang tính chất toàn dân
- Kết quả:
+ Nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng
+ Họ xông xáo đi tìm giặc chứ không phải trốn tránh như trước
+ Gươm thần mở đường cho họ đánh tràn ra mãi, đến lúc không còn bóng giặc nào trên đất nước nữa
2. Lê Lợi trả gươm
- Thời gian: một năm sau khi đuổi giặc Minh
- Địa điểm: hồ Tả Vọng
- Nhân vật đòi gươm: Rùa Vàng – sứ giả của Đức Long Quân
- Hoàn cảnh đất nước:
+ Đất nước ta đã đánh tan giặc Minh xâm lược
+ Chủ tướng Lê Lợi lên ngôi vua
→ Ca ngợi tính chất toàn dân, chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa. Đồng thời, lí giải tên gọi hồ Hoàn Kiếm hay Hồ Gươm hiện nay
III. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của văn bản
+ Nội dung: ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân và chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh xâm lược do Lê Lợi lãnh đạo ở đầu thế kỉ XV và giải thích tên gọi hồ Hoàn Kiếm, đồng thời thể hiện khát vọng hòa bình dân tộc
+ Nghệ thuật: sử dụng chi tiết tưởng tượng kì ảo…
Dàn ý mẫu số 3
1. Vì sao Đức Long Quân cho nghĩa quân Lam Sơn mượn gươm thần?
- Giặc Minh đô hộ nước ta, chúng hết sức bạo ngược, nhân dân ta hết sức căm giận, ở vùng Lam Sơn nghĩa quân nổi dậy chống lại chúng, nhưng trong buổi đầu thế lực còn yếu, nhiều lần bị thua.
- Vì không muốn con cháu phải sống mãi dưới ách đô hộ của kẻ thù tàn bạo, Đức Long Quân đã quyết định cho nghĩa quân Lam Sơn mượn gươm thần để họ đánh đuổi chúng.
2. Lê Lợi đã được Đức Long Quân cho mượn gươm thần theo một cách đặc biệt:
Long Quân làm cho gươm mắc vào lưới của Lê Thận tới ba lần. Hai lần đầu Thận chỉ coi đó là thanh sắt gỉ, đã cầm lên ném xuống sông, mãi tới lần thứ ba, Lê Thận mới nhìn kĩ và nhận ra đó là một lưỡi gươm. Đến khi lưỡi gươm phát sáng ở trong căn lều tối, Lê Lợi mới phát hiện hai chữ "Thuận Thiên" nhưng vẫn chưa biết đó là kiếm báu. Mãi tới khi qua khu rừng Lê Lợi thấy có ánh sáng lạ trên ngọn đa mới biết đó là cái chuôi gươm nạm ngọc và sau đó mới đem lưỡi tra vào chuôi thì thấy vừa như in.
- Cách cho mượn gươm khác thường này mang nhiều ý nghĩa:
Đây là thanh gươm thần, do thần Long Quân cho mượn nên không thể trao tay theo cách thức thông thường.
Cách cho mượn này làm tăng sự chú ý tới thanh gươm để cuối cùng mới nhận được giá trị to lớn và linh thiêng, quý giá của gươm thần.
Hình ảnh lưỡi gươm thì nằm ở dưới nước, chuôi gươm lại treo ở trên rừng nhưng vẫn gặp nhau và làm thành một thanh gươm hoàn chỉnh như muốn nói lên sự hợp nhất, sự đoàn kết của nhân dân miền đồng bằng sông nước và miền rừng thẳm non cao trong sự nghiệp chống ngoại xâm, đánh giặc cứu nước.
Hình ảnh Lê Thận bắt được lưỡi gươm, Lê Lợi tìm thấy chuôi gươm ý nói người cầm gươm chỉ đạo cuộc kháng chiến là Lê Lợi, nhưng sức mạnh đánh giặc là sự đóng góp của nhiều người, nhiều tướng tài trong đó có Lê Thận, một người đánh cá bình thường.
3. Gươm thần đã tỏ ra sức mạnh của mình trong cuộc chiến đấu của nghĩa quân Lam Sơn:
- Làm cho tinh thần đoàn kết xung quanh Lê Lợi và ý chí chiến đấu đánh quân xâm lược của quân tướng thêm dâng cao.
- Làm cho mọi người thêm tin tưởng ở Lê Lợi vì Lê Lợi đúng là một minh công được Trời phó thác cho việc lớn.
- Làm nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng. Lưỡi gươm thần trong tay Lê Lợi, tung hoành khắp các trận địa làm quân Minh kinh hồn, bạt vía.
- Làm cho uy thanh của nghĩa quân vang dội khắp nơi. Gươm thần như một biểu tượng của lòng tin, của sức mạnh mở đường cho quân ta giành chiến thắng rực rỡ, hào hùng, oanh liệt.
4. Một năm, sau chiến thắng quân Minh, đất nước ta đã thật sự yên vui thanh bình, Long Quân mới cho đòi lại gươm.
Cảnh đòi gươm và trao gươm thiêng đã diễn ra rất khác lạ. Khi vua Lê cưỡi thuyền rồng dạo trên hồ Tả Vọng thì tự nhiên có con rùa lớn nhô đầu lên rồi bơi nổi hẳn lên mặt nước và nói với nhà vua: "Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân". Vua nâng gươm hướng về phía Rùa Vàng. Rùa há miệng, đớp lấy thanh gươm và lặn xuống nước. Gươm và Rùa chìm đáy nước mà người ta vẫn còn thấy vật gì le lói dưới mặt hồ xanh.
Đó là một cảnh tượng kỳ lạ, đẹp đẽ mang tính chất thiêng liêng, thần bí.
5. Các em thảo luận để tìm ra ý nghĩa của truyện Sự tích Hồ Gươm xung quanh các ý cơ bản sau đây:
Truyện ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Truyện cũng giải thích tên hồ Hoàn Kiếm, một hồ nước đẹp nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội mà ngày nay giữa hồ còn có tháp Rùa. Tên hồ Hoàn Kiếm có ý nghĩa đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược thể hiện ước vọng hòa bình của dân tộc.
6. Trong kho tàng truyện cổ Việt Nam, ngoài truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm còn có truyền thuyết An Dương Vương xây Loa Thành (hay là truyền thuyết Mị Châu - Trọng Thủy) cũng có hình ảnh Rùa Vàng:
Thần Kim Quy tức Rùa Vàng đã hiện lên giúp An Dương Vương trấn áp ma quỷ, xây dựng xong Loa Thành, lại còn cho nhà vua móng vuốt của mình làm lẫy nỏ thần dùng để chống giặc rất hiệu nghiệm. Khi lẫy nỏ bị Trọng Thủy đánh cắp, nhà vua thất trận cùng con gái chạy trốn ra bờ biển. Thần Kim Quy lại hiện lên báo cho nhà vua biết kẻ làm mất nước chính là người đang ngồi sau ngựa của nhà vua (chí là Mị Châu do ngây thơ và thiếu cảnh giác đã tạo điều kiện cho Trọng Thủy đánh cắp được lấy nỏ thần đến cảnh nước mất nhà tan).
Trong truyền thuyết Việt Nam, hình tượng Rùa Vàng tượng trưng cho sức mạnh lớn lao, cho tính chất chính nghĩa, cho lẽ phải, sự công bằng và ý chí quyết chiến, quyết thắng của nhân dân ta.
b) Bài văn phân tích
Phân tích truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm – Bài phân tích mẫu số 1
Đọc truyền thuyết "Sự tích Hồ Gươm", ta không chỉ được sống lại những năm tháng gian lao và anh dũng của ông cha ta thưở "Bình Ngô" mà còn được bồi đắp, nâng cao thêm niềm tự hào dân tộc, được chiêm ngưỡng những di tích lịch sử, văn hóa trên cố đô Thăng Long.
Chàng trai làm nghề đánh cá tên là Lê Thận đã vinh dự được Long Quân trao cho lưỡi gươm báu. Hai lần đầu, Lê Thận chỉ cho đó là "thanh sắt", một vật tầm thường mắc vào lưới. Mãi đến lẫn thứ ba anh đưa thanh sắt lại cạnh mồi lửa nhìn xem, rồi ngạc nhiên sung sướng reo lên: "Ha ha! Một lưỡi gươm!". Thanh sắt ấy, lưỡi gươm ấy như biết "bơi" trên sông, vì thế Lê Thận dù đã thay đổi nơi thả lưới ở ba khúc sông khác nhau mà "báu vật" vẫn tìm đến với anh. Chi tiết ấy gợi lên màu sắc li kì, linh nghiệm.
Lê Lợi và mấy người tuỳ tùng đến nhà Thận đã bất ngờ thấy thanh sắt "sáng rực lên" trong túp lều tối om. Khi Lê Lợi cầm lên xem và thấy hai chữ "Thuận Thiên" khắc sâu vào lưỡi gươm, nhưng mọi người vẫn không biết đó là báu vật. Hình như Long Quân vẫn còn thử lòng người!
Chỉ đến khi bọn giặc Minh truy đuổi vô cùng nguy nan, Lê Lợi bỗng thấy ánh sáng lạ trên ngọn đa, trèo lên lấy xuống mới biết đó là một cái chuôi gươm nạm ngọc. Ba ngày sau đem tra gươm vào chuôi thì "vừa như in".
Được gươm thần, các nghĩa sĩ Lam Sơn có thêm niềm tin và sức mạnh chiến đấu. Câu nói của Lê Thận khi dâng gươm báu cho chủ tướng Lê Lợi vang lên như một lời thề:
"Đây là Trời có ý phó thác cho mình công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng với thanh gươm thần này để báo đền Tổ quốc!".
Long Quân trao gươm báu cho nghĩa quân Lam Sơn và Lê Lợi đã làm nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng. Trong tay chủ tướng, lưỡi gươm thần tung hoành khắp các trận địa, quân Minh bị đánh tan tác, bạt vía kinh hồn. Nghĩa quân càng đánh càng mạnh, càng thắng to. Lưỡi gươm thần như đã đem đến cho họ một sức mạnh vô cùng to lớn, xốc tới, đánh tràn ra mãi cho đến lúc không còn bóng một tên giặc nào trên đất nước ta.
Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn sau mười năm gian lao và anh dũng chiến đấu, với lưỡi gươm thần Long Quân trao cho đã hoàn thành sự nghiệp cao cả mà Trời đã phó thác.
Phân tích truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm – Bài phân tích mẫu số 3
Trong hệ thống truyền thuyết của nước ta, có lẽ Sự tích Hồ Gươm là truyền thuyết ít mang tính chất tưởng tượng, kì ảo nhất. Đọc tác phẩm ta như được sống lại những năm tháng chiến đấu hào hùng, oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Và càng thêm kính yêu hơn nữa vị anh hùng Lê Lợi đã đem lại độc lập, tự do cho dân tộc.
Giặc Minh lấy cớ phù Trần diệt Hồ mà thực chất là sang xâm chiếm, đô hộ nước ta. Cuộc sống của nhân dân vô cùng khổ cực, bị quân Minh chèn ép, bức hại. Trước tình cảnh lầm than của nhân dân, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa. Nhưng buổi ban đầu nghĩa quân còn yếu, nhiều lần bị đánh lui. Thấy vậy, Long Quân bèn cho Lê Lợi mượn gươm thần. Nhưng cách Long Quân cho mượn gươm cũng hết sức đặc biệt, ngài không đưa tận tay cho Lê Lợi mà phải trải qua một quá trình gian nan.
Long Quân cho gươm mắc vào lưới đánh cá của Lê Thận ba lần, Lê Thận lần nào cũng gỡ lấy gươm rồi vứt trở lại sông, qua khúc sông khác thả lưới lại vẫn vớt được lưỡi gươm ấy. Thấy sự lạ, Lê Thận bèn mang gươm trở về. Còn chuôi gươm lại là do vị chủ tướng Lê Lợi lấy được trên cây đa. Cách cho mượn gươm của Long Vương cho thấy rằng đây là thanh gươm thần, bởi vậy không thể trao theo một cách thức dễ dàng mà phải vượt qua thử thách mới có được nó. Không chỉ vậy, hình ảnh lưỡi gươm và chuôi gươm được tìm thấy ở hai địa điểm khác nhau (dưới nước, trên rừng) cũng cho thấy muốn đánh lại kẻ thù thì toàn dân ta phải đoàn kết, hợp nhất, chỉ có như vậy mới tạo nên sức mạnh to lớn đánh đuổi kẻ thù. Chi tiết này giúp chúng ta nhớ lại truyền thuyết Con rồng cháu Tiên khi Lạc Long Quân và Âu Cơ chia năm mươi con lên rừng, năm mươi con xuống biển cai quản các phương, khi có việc thì đoàn kết giúp đỡ nhau. Như vậy, điều tất yếu ở đây lưỡi gươm phải tìm được ở dưới nước, chuôi gươm phải tìm thấy trên rừng, khi khớp vào nhau thì “vừa như in” thể hiện sự đồng lòng, nhất trí của toàn bộ nhân dân miền ngược và miền xuôi. Ngoài ra chi tiết Lê Lợi nhìn thấy lưỡi gươm và bắt được chuôi gươm còn cho thấy để cuộc đấu tranh đi đến thành công còn cần đến sự anh minh, sáng suốt của người lãnh đạo và người đó chính là vị anh hùng Lê Lợi.
Có được gươm thần, sức mạnh của nghĩa quân ngày càng lớn mạnh, chẳng mấy chốc đã đánh lui được quân địch, khiến chúng phải rút lui về nước. Sức mạnh của thanh kiếm cũng là minh chứng cho ta thấy sức mạnh của tinh thần đoàn kết. Dưới sự lãnh đạo anh minh, sáng suốt của Lê Lợi, sự đồng lòng nhất chí của toàn dân thử thách nào cũng có thể vượt qua, kẻ thù nào cũng có thể đánh thắng.
Quân Minh thảm bại, trở về nước, nhân dân ta được hưởng cuộc sống ấm no, yên bình. Một năm sau, Long Quân sai rùa vàng lên đòi lại gươm thần. Không phải lấy lại ngay lúc quân ta giành chiến thắng mà phải một năm sau, bởi lúc này nước nhà mới ổn định, kinh tế quân sự đã được phục hồi và ngày càng vững mạnh. Hình ảnh rùa vàng hiện lên giữa hồ đớp lấy thanh kiếm rồi lặn xuống hồ sâu, mặt hồ vẫn le lói những ánh sáng. Đây là một chi tiết kì ảo mang tính thiêng liêng, huyền bí. Đồng thời chi tiết này cũng để giải thích tên gọi hồ Hoàn Kiếm (hồ trả gươm). Hồ Hoàn Kiếm gắn liền với chi tiết mang tính huyền bí đã góp phần thiêng liêng hóa một địa danh lịch sử.
Sự tích Hồ Gươm không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn rất phong phú về nghệ thuật. Trong truyền thuyết này có hai câu chuyện vừa lồng ghép vừa tách bạch với nhau: câu chuyện mượn gươm và câu chuyện trả gươm. Chúng có nội dung riêng nhưng đồng thời bổ sung ý nghĩa cho nhau. Không chỉ vậy văn bản là sự kết hợp giữa yếu tố thực và yếu tố tưởng tượng, kì ảo một cách hài hòa, hợp lí.
Với sự kết hợp hài hòa các yếu tố li kì, huyền bí với các yếu tố lịch sử, Sự tích Hồ Gươm không chỉ giải thích nguồn gốc ra đời của tên gọi Hồ Gươm. Mà qua câu chuyện này còn nhằm ca ngợi, tôn vinh tính chất chính nghĩa, tính chất nhân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tên hồ Hoàn Kiếm đồng thời cũng dùng để đánh dấu chiến thắng của dân tộc, thể hiện ước mơ, khát vọng hòa bình của nhân dân.
Phân tích truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm – Bài phân tích mẫu số 4
Truyền thuyết dân gian vốn là món ăn tinh thần vô cùng phong phú của dân tộc ta, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Thuở ấu thơ ta lớn lên nhờ những câu chuyện kể của bà, của mẹ, lúc trưởng thành ta lại ru con ngủ bằng chính những câu chuyện hấp dẫn ấy. Có rất nhiều câu chuyện đã trở nên quen thuộc trong lòng mỗi người ví như Tấm Cám, Sọ Dừa, Sơn Tinh Thủy Tinh hay Thánh Gióng,... Tựu chung lại những truyền thuyết, những câu chuyện cổ ấy đều phản ánh chân thực khát khao của nhân dân ta về một cuộc sống tốt đẹp, lương thiện, về việc chế ngự thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm với một niềm tin tích cực. Sự tích Hồ Gươm cũng chính là một truyền thuyết như vậy. Bối cảnh của truyền thuyết diễn ra trong lúc giặc Minh đô hộ nước ta, tuy đã có nghĩa quân Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa chống giặc, nhưng buổi đầu thế lự còn non yếu, nên vẫn thường thua trận. Long Quân thấy nghĩa quân anh dũng, xả thân vì nước nên quyết định cho mượn gươm thần. Tuy nhiên, việc cho mượn gươm Long Quân cũng thiết kế một cách rất tinh tế, như là một thử thách cho Lê Lợi, bởi cái gì dễ có được người ta thường không trân trọng. Hơn thế nữa việc cho mượn gươm có phần thử thách ấy còn giúp Lê Lợi thu nạp được thêm một vị tướng tài là Lê Thận.
Lê Thận ban đầu vốn làm nghề đánh cá, có lẽ Long Quân đã thấy được khí chất anh hùng và tiềm năng của chàng trai miền biển này nên đã cố tình gửi gắm lưỡi gươm cho Lê Thận. Sau ba lần thả lưới ở ba khúc sông khác nhau mà vẫn vớt được cùng một lưỡi gươm kỳ lạ, đen thui, giống một thanh sắt không hơn không kém, Lê Thận đã quyết định đem về dựng ở xó nhà, vì linh cảm của một người thông minh thì gươm này ắt có điều bí ẩn, sau này có thể dùng được. Theo dòng chảy định mệnh, Lê Thận tham gia nghĩa quân Lam Sơn, trở thành phụ tá đắc lực, lập nhiều công lớn, chiến đấu anh dũng, thế nên có lần Lê Lợi đã ghé nhà Lê Thận chơi. Dương như đã nhận ra chủ tướng Lê Lợi, nên lưỡi gươm đen sì, vốn vẫn gác xó nhà lại sáng rực lên bất thường. Lê Lợi cầm lên xem thì thấy hai chữ "Thuận Thiên", như báo trước cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi lãnh đạo là hợp ý trời, được trời cao ủng hộ. Tuy nhiên đến đây những con người trần mắt thịt vẫn chưa thể nào liên hệ đến sự thần kỳ của lưỡi gươm kỳ lạ ấy.
Chỉ đến một lần, nghĩa quân thất thế, Lê Lợi phải chạy một mình vào rừng tránh sự truy lùng của giặc, lúc này đây vô tình phát hiện ra ánh sáng kỳ lạ ở một ngọn cây trong rừng, Lê Lợi tò mò trèo lên xem thì phát hiện một chuôi gươm nạm ngọc cực đẹp. Là người nhanh nhạy Lê Lợi lập tức liên tưởng đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, ông liền đem chuôi gươm ấy về. Qủa đúng như vậy, khi lắp lưỡi gươm vào chuôi gươm thì vừa in, sau nhiều lần thử thách cuối cùng chuôi và lưỡi gươm cũng tìm được nhau, ý trời đã phó thác cho Lê Lợi làm việc lớn. Ngoài ra sự tương hợp của chuôi và lưỡi gươm còn thể hiện một lời nhắc nhở rất hay của Long Quân, rằng muốn làm việc lớn trước hết cần sự đoàn kết, nếu chỉ có chuôi gươm đẹp đẽ thì cũng chẳng thể chém đầu tên địch nào, còn nếu chỉ có lưỡi gươm thì cũng chẳng thể dùng bởi thiếu mất chuôi. Hình ảnh chuôi gươm cũng đại diện cho vị chủ tướng là Lê Lợi người lãnh đạo nghĩa quân, lúc nào cũng phải sáng suốt và mạnh mẽ. Hình ảnh lưỡi gươm là đại diện cho quân đội của ta, tiêu biểu là những vị tướng dưới trướng như Lê Thận, người sẽ giúp Lê Lợi chém đầu từng tên giặc cướp nước. Như vậy sự vừa vặn của chuôi và lưỡi gươm chính là biểu hiện của sự phối hợp ăn ý giữa chủ tướng Lê Lợi và nghĩa quân dưới trướng, đó là sức mạnh tổng hòa làm nên chiến thắng của nhân dân ta.
Từ khi có sự trợ giúp của thanh gươm thần, nghĩa quân ta liên tục thắng trận, quân giặc bị đánh đuổi không còn một mảnh giáp, phải đầu hàng và rút quân về nước trong sự nhục nhã. Có được chiến thắng ấy, một phần là nhờ sự thần kỳ của gươm thần mà Long Quân cho mượn, đồng thời gươm ấy đã mang lại niềm tin và nhuệ khí cho nghĩa quân ta, giúp sức mạnh nghĩa quân tăng gấp bội.
Chuyện sau khi Lê lợi đã lên làm vua, trong một lần du thuyền trên hồ Tả Vọng (hồ Gươm bây giờ), thì có rùa Thần lên đòi gươm về cho Long Quân có nhiều ý nghĩa. Đầu tiên là lý lẽ có mượn có trả, Lê Lợi đã chiến thắng quân Minh, đất nước ta đã yên bình, thanh gươm cũng không còn phận sự gì nữa thì nên được trả về cho chủ cũ. Thứ hai là Long Quân muốn gửi gắm một điều rằng, sự trợ giúp của thần linh âu cũng chỉ là một phần nhỏ, còn nếu muốn vận nước hưng thịnh lâu dài thì phải dựa vào tài trị quốc của Lê Lợi, đừng nên ỷ vào việc có gươm thần mà lơ là cảnh giác, bài học của An Dương Vương vẫn còn sáng mãi cho đến tận bây giờ. Dù bất kỳ lý do nào, Long Quân đòi lại gươm cũng thật xác đáng. Câu chuyện trả Gươm cũng giải thích lý do hồ Tả Vọng còn có tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.
Truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm là một truyền thuyết có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện lòng tin và khát vọng mạnh mẽ của nhân dân ta về sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Bởi cuộc chiến của nhân dân ta là cuộc chiến vì chính nghĩa, có sự trợ giúp của thần linh, là thuận theo ý trời, những kẻ hung tàn bạo ngược ắt phải thất bại. Sự tích ấy còn là lời lý giải lý thú về những cái tên khác của hồ Gươm.
Phân tích truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm – Bài phân tích mẫu số 5
“Sự tích Hồ Gươm” là một trong những câu chuyện nằm trong hệ thống truyền thuyết về khởi nghĩa Lam Sơn ca ngợi đề cao người anh hùng Lê Lợi. Đồng thời, truyện còn đề cao tinh thần toàn dân đoàn kết một lòng chống lại giặc ngoại xâm và tư tưởng chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đồng thời là lời giải thích về tên gọi của hồ Hoàn Kiếm nhuốm màu sắc thần kì.
Truyện được mở đầu vào thời điểm nguy nan của đất nước: giặc Minh đang đô hộ nước ta với những chính sách tàn bạo, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra những liên tiếp gặp thất bại vì nhiều khó khăn. Truyện kể về việc Lê Lợi được Đức Long Quân cho mượn gươm thần là một hạt nhân trong chuỗi truyện kể về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đề cao người anh hùng Lê Lợi và tính chất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Thông qua hình tượng thanh gươm thần, truyền thuyết “Sự tích Hồ Gươm” đã ca ngợi tinh thần đoàn kết chiến đấu, chủ nghĩa anh hùng tập thể, sự gắn bó đoàn kết cộng đồng. Sức mạnh toàn dân đánh giặc đã được khúc xạ qua nhãn quan thần kì hóa của người xưa với sự xuất hiện của thanh gươm thần. Thanh gươm chính là đại diện cho sức mạnh thần kì của dân tộc ta. Long Quân đã cho nghĩa quân mượn gươm với sự phân tách: lưỡi gươm được Lê Thận bắt được dưới biển và chuôi gươm được Lê Lợi phát hiện trên ngọn cây đa (núi rừng), khi hợp lại thì vừa như in, tạo thành thanh gươm sáng rỡ hai chữ “Thuận Thiên” và đem đến những chiến công lừng lẫy, vang dội của nghĩa quân Lam Sơn. Thanh gươm thần đã làm sức mạnh của nghĩa quân tăng lên gấp bội, thể hiện sức mạnh thần kì về truyền thống anh hùng của dân tộc và sự nhất trí, đồng lòng của nhân dân ta trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, từ miền ngược đến miền xuôi, từ vùng núi đến miền biển. Gươm ngời sáng hai chữ Thuận Thiên đã đề cao vai trò của người anh hùng- chủ tướng Lê Lợi, đồng thời cho thấy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là hoàn toàn chính nghĩa và thuận với ý trời.
Trong tác phẩm việc Đức Long Quân cho Rùa vàng đòi lại gươm và vua Lê trả gươm là chi tiết mang yếu tố thần kì, rất đặc trưng cho truyền thuyết. Sự xuất hiện của Rùa Vàng đã thể hiện ý nghĩa của thần Kim Quy trong tâm thức dân gian. Rùa là hình tượng gắn liền với đời sống vật chất và tâm linh của người Việt cổ. Hình tượng thần Kim Quy cũng đã xuất hiện trong truyền thuyết “ An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”, ban cho vua móng vuốt làm lẫy nỏ thần. Còn trong truyền thuyết “Sự tích Hồ Gươm”, hình aarnh Rùa Vàng hiện lên đòi gươm giữa hồ Tả Vọng như sự tiếp nối truyền thống trong mạch nguồn tư tưởng, tinh thần dân tộc. Rùa Vàng cùng với Long Quân là hiện thân, là ý niệm ẩn dụ của người xưa về sức mạnh tinh thần của tổ tiên bảo trợ cho hòa bình, độc lập dân tộc. Việc Long Quân cho Rùa Vàng đòi lại gươm và vua Lê trả gươm là chi tiết mang nhiều ý nghĩa biểu trưng đất nước đã thanh bình, việc hoàn lại gươm báu là ẩn dụ cho việc cất bỏ binh đao, thể hiện ý niệm ẩn dụ về khát vọng hòa bình.
Câu chuyện “Sự tích Hồ Gươm” còn là lời giải thích của nhân dân ta về tên gọi của hồ, xuất hiện sau tên gọi Tả Vọng và gắn liền với những sự tích, chiến công của người anh hùng Lê Lợi. Từ đó, Hồ Gươm trở thành biểu tượng cho các phương diện tiêu biểu trong truyền thống, văn hóa, lịch sử của thủ đô Hà Nội.
Như vậy, thông qua nhãn quan thần kì hóa cùng trí tưởng tượng phong phú của nhân dân ta, tác phẩm “Sự tích Hồ Gươm” ra đời đã thể hiện tinh thần đoàn kết chống giặc ngoại xâm, tinh thần yêu nước và làm nổi bật hình tượng của người anh hùng Lê Lợi. Câu chuyện này còn thể hiện sự khúc xạ, cách giải thích của nhân dân đối với tên gọi của hồ Hoàn Kiếm.