Tác giả, Tác phẩm văn 6 – Cây tre Việt Nam

Cây tre Việt Nam

I. Đôi nét về tác giả: tác giả Thép Mới

- Thép Mới (1925-1991), tên khai sinh là Hà Văn Lộc, quê ở quận Tây Hồ, Hà Nội, sinh ra ở thành phố Nam Định

- Ngoài báo chí, Thép Mới còn viết nhiều bút kí, thuyết minh phim

 II. Đôi nét về tác phẩm: Cây tre Việt Nam

1. Thể loại: Bút kí

2. Xuất xứ văn bản Cây tre Việt Nam

Bài “Cây tre Việt Nam” sáng tác năm 1955, là lời bình cho bộ phim cùng tên của nhà điện ảnh Ba Lan. Bộ phim thông qua hình ảnh cây tre, bộ phim thể hiện vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam, ca ngợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta

3. Phương thức biểu đạt

Thuyết minh + Biểu cảm + Miêu tả + Nghị luận

4. Tóm tắt

Bài tóm tắt số 1

Cây tre Việt Nam nói lên sự gắn bó thân thiết và lâu đời của cây tre và con người Việt Nam trong đời sống, sản xuất, chiến đấu. Cây tre có những đức tính quý báu như con người Việt Nam: nhũn nhặn, ngay thẳng, thủy chung, can đảm. Cây tre sẽ đồng hành với người Việt Nam đi tới tương lai.

Bài tóm tắt số 2

Văn bản miêu tả vẻ của tre trong đời sống lao động, trong chiến đấu và trong tương lai trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

Bài tóm tắt số 3

Cây tre là bạn thân của nhân dân Việt Nam. Tre là loài cây có mặt ở khắp mọi nơi trên đất nước ta. Tre có vẻ đẹp giản dị và nhiều phẩm chất đáng quý. Tre gắn bó lâu đời với con người trong cuộc sống hàng ngày, trong lao động sản xuất và trong chiến đấu bảo vệ qê hương. Tre là bạn đồng hành cùa dân tộc trên con đường đi tới ngày mai.

Bài tóm tắt số 4.

Cây tre Việt Nam nói lên sự gắn bó thân thiết và lâu đời của cây tre và con người Việt Nam trong đời sống, sản xuất và chiến đấu. Cây tre có vẻ đẹp bình dị và nhiều phẩm chất quý báu. Cây tre đã trở thành một biểu tượng của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam.

Bài tóm tắt số 5

Bài văn miêu tả vẻ đẹp của cây tre, một loài cây giàu sức sống, thanh cao mà giản dị. Cây tre gắn bó với con người từ rất lâu, trong sinh hoạt, sản xuất cũng như trong chiến đấu. Hình ảnh cây tre cũng giống như những con người Việt Nam, sống ngay thẳng, chung thủy và can đảm. Cây tre mang phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam, là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam.

5. Bố cục(3 phần)

- Phần 1 (từ đầu đến “chí khí con người”): Giới thiệu chung về cây tre

- Phần 2 (tiếp đó đến “tiếng hát giữ trời của trúc, của tre”): Sự gắn bó của cây tre với con người trong lao động sản xuất và chiến đấu.

- Phần 3 (còn lại): Tre vẫn còn mãi với đất nước trong tương lai

 6. Giá trị nội dung

Cây tre là người bạn thân thiết, lâu đời của người nông dân và nhân dân Việt Nam. Cây tre có vẻ đẹp bình dị và nhiều phẩm chất quý báu. Cây tre đã trở thành một biểu tượng của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam

7. Giá trị nghệ thuật

- Sử dụng chi tiết, hình ảnh chọn lọc mang ý nghĩa biểu tượng

- Sử dụng rộng rãi và thành công phép nhân hóa

- Lời văn giàu cảm xúc và nhịp điệu

 II. Phân tích văn bản

a) Dàn ý

Dàn ý phân tích mẫu số 1

I. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Thép Mới (những nét chính về cuộc đời, các sáng tác của ông,…)

- Giới thiệu về văn bản “Cây tre Việt Nam” (xuất xứ, khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật,…)

II. Thân bài

1. Giới thiệu khái quát về cây tre

- Là người bạn thân của nông dân, nhân dân Việt Nam

- Đặc điểm của cây tre:

   + Vào đâu tre cũng sống, cũng xanh tốt

   + Dáng tr vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn

   + Tre lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc

→ Nghệ thuật nhân hóa

→ Tre thanh cao, giản dị, chí khí như con người

2. Sự gắn bó của cây tre với con người trong lao động sản xuất và trong chiến đấu

- Trong lao động, sản xuất:

   + Tre trùm lên âu yếm bản làng, xóm, thôn

   + Dưới bóng tre, giữ gìn một nền văn hóa lâu đời, con người dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang

   + Tre là cánh tay của người nông dân

   + Tre vất vả mãi với người: cối xay tre nặng nề quay

   + Tre là người nhà, khăng khít với đời sống hằng ngày

   + Tre buộc chặt những tình cảm chân quê

   + Tre là niềm vui của tuổi thơ, của người già

   + Tre chung thủy

- Trong chiến đấu: tre là tất cả, tre là vũ khí – tre xung phong vào xe tăng, đại bác, tre giữ làng, giữ nước, tre hi sinh để bảo về con người

→ Tre gần gũi, gắn bó với đời sống con người

3. Vị trí của tre đối với đất nước trong tương lai

- Tre vẫn cong nguyên vị trí trong tương lai khi đất nước đi vào công nghiệp hóa: tre vẫn là bóng mát, tre mang khúc nhạc tâm tình,…

- Tre mang những đức tính của người hiền, là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam

III. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản:

   + Nội dung: Cây tre là người bạn thân thiết, lâu đời của người nông dân và nhân dân Việt Nam. Cây tre có vẻ đẹp bình dị và nhiều phẩm chất quý báu. Cây tre đã trở thành một biểu tượng của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam

   + Nghệ thuật: sử dụng chi tiết, hình ảnh giàu ý nghãi biểu tượng, nhân hóa, giọng điệu,…

- Cảm nhận của bản thân về cây tre: yêu, trân trọng, gắn với kỉ niệm tuổi thơ,…

 Dàn ý phân tích mẫu số 2

1. Mở bài

Giới thiệu về tác phẩm Cây tre Việt Nam.


2. Thân bài

- Tre là người bạn thân thuộc, gắn bó với con người
- Tre cũng là loài cây chẳng kén đất sống hay ngại thời tiết nắng gió nhọc nhằn, dù ở bất kì nơi đâu, trẻ vẫn vươn thẳng mình phía trước, sống xanh tốt, dẫu cho đó là chốn đất cằn đá sỏi hay nơi màu mỡ tốt tươi.
- Khắp mọi miền đất nước, đâu đâu cũng thấy bóng dáng tre xanh
- Tre mang những phẩm chất cao quý: Ngay thẳng, dẻo dai, kiên cường, thích nghi tốt với mọi hoàn cảnh.
- Tre cũng mang khí chất thanh cao, giản dị
- Tre trong đời sống nhân dân Việt:
+ Làm bóng mát, âu yếm, vỗ về làng xóm
+ Tre giúp người trăm công nghìn việc
+ Trong chiến tranh tre là vũ khí chiến đấu ngang tàng, oanh liệt- người hùng chiến đấu
+ Trong thời bình tre cũng người vỡ ruộng, khai hoang, góp sức mình đưa đất nước đi lên.
+ Tre ru khúc hát ngọt ngào làng quê yêu dấu
- Sức sống trường tồn, vĩnh cửu của tre trong đời sống dân tộc Việt Nam.


3. Kết bài

Cảm nghĩ của em về tác phẩm

 b) Bài văn phân tích

Phân tích truyện Cây tre Việt Nam– Bài phân tích mẫu số 1

Cây tre là biểu tượng cho con người, dân tộc Việt Nam. Viết về vẻ đẹp mộc mạc, giản dị của cây tre chúng ta có thể kể đến bài Tre Việt Nam của nhà thơ Nguyễn Duy và không thể không nhắc đến tác phẩm Cây tre Việt Nam của nhà văn Thép Mới. Tác phẩm được viết làm lời bình cho một bộ phim điện ảnh Ba Lan. Thông qua hình ảnh cây tre, tác phẩm đã cho thấy vẻ đẹp của con người, đất nước Việt Nam, đồng thời ca ngợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta.

Ngay từ những câu văn mở đầu tác giả đã khẳng định tre là người “bạn thân của nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt Nam” . Câu văn như một lời khẳng định chắc nịch về mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, lâu bền của tre với con người. Để làm nổi bật vai trò, ý nghĩa của tre, tác giả đã đặt nó trong muôn ngàn cây cối khác nhau, nhưng tre luôn giữa một vị trí đặc biệt quan trọng:“Nước Việt Nam xanh muôn ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa” . Cũng bởi vậy mà tre có mặt ở khắp mọi nơi: “Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật làng tôi,… đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn” . Câu văn nhịp nhàng kết hợp với biện pháp liệt kê đã cho thấy sự thân thuộc, gần gũi của tre với đời sống con người.

Tiếp ngay sau đó, Thép Mới khẳng định những vẻ đẹp phẩm chất của tre: mọc thẳng, ở đâu tre cũng xanh tốt, dáng tre mộc mạc, màu tre nhũn nhặn, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc, … được diễn đạt bằng lời văn nhịp nhàng, cân đối tựa như một lời hát. Và vẻ đẹp, khí chất của tre được tác giả so sánh: “Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người” . Câu văn như một lời ngầm khẳng định cây tre chính là biểu tượng cho con người Việt Nam, những vẻ đẹp, khí chất của tre cũng chính là phẩm chất cao quý của dân tộc ta.

Ngay từ phần mở đầu của bài viết, Thép Mới đã khẳng định sự gắn bó khăng khít và bền chặt của tre với người. Để minh chứng cho nhận định, ông đã sử dụng hàng loạt các dẫn chứng khác nhau để làm sáng tỏ vấn đề đó.

Không chỉ mang những phẩm chất đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam, tre còn gắn liền với đời sống dân tộc Việt. Tác giả bắt đầu sự gắn bó đó bằng việc trích dẫn câu thơ của Tố Hữu: “Bóng tre trùm mát rượi” , đây là cầu nối, khơi gợi sự gắn bó khăng khít giữa người và tre. Tre bao bọc, che chở con người, dưới bóng tre xanh dân ta vỡ ruộng, khai hoang, làm ăn sinh sống. Điệp ngữ“bóng tre” “dưới bóng tre” được điệp đi điệp lại càng khẳng định hơn nữa sự gắn bó thủy chung của tre với con người. Tre cứ thế gắn bó trong lao động, trong đời sống văn hóa, tâm linh của dân tộc Việt. Không chỉ vậy, tre còn gắn bó với người từ thuở lọt lòng với chiếc nôi tre cùng lời ru ngọt ngào của bà của mẹ, những năm tháng tuổi thơ cây sáo với nhạc điệu du dương trầm bổng hay bộ chắt bằng tre làm bạn, tuổi già lấy điếu thuốc lào làm vui, và khi nhắm mắt xuôi tay tre cũng ở bên cạnh con người.

Chưa dừng lại ở đó, những năm tháng chiến tranh gian nan, ác liệt tre cũng là đồng chí, người bạn đồng hành của nhân dân Việt Nam. Cảm hứng chính của đoạn văn được khơi dậy từ hình ảnh: “Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất” một mặt tô đậm đặc điểm của tre nhưng đằng sau đó là lời ca ngợi ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc ta. Trước mưa bom, bão đạn của kẻ thù, cả tre và người không chịu khuất phục, tre giúp sức người: gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Trong đoạn văn tác giả đã sử dụng hàng loạt biện pháp nhân hóa: tre là đồng chí, tre giữ làng, tre hi sinh,… vừa tôn vinh giá trị của tre vừa làm sống dậy những năm tháng chiến tranh ác liệt mà hào hùng của dân tộc.

Kết lại bài viết, là hình ảnh tre của hiện tại, khi cuộc sống con người đã trở nên hiện đại hơn, sắt thép xi măng đã dần thay thế cho tre. Nhưng không vì thế mà tre mất đi vị thế của mình. Tre vẫn xuất hiện trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi, được tác giả diễn đạt thật tinh tế qua hình ảnh “măng mọc” , tiếng sáo diều vi vút,… Lời kết vút lên như một lần nữa ca ngợi sự gắn bó thủy chung, son sắt của tre với con người.

Bài kí sử dụng lớp ngôn ngữ giàu chất thơ với nhịp điệu phong phú, biến hóa linh hoạt, phù hợp với nội dung bài viết. Hệ thống điệp từ, điệp ngữ, chia làm nhiều câu văn ngắn tạo nên không khí sục sôi, hào hùng trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Không chỉ vậy, góp phần tạo nên sự thành công cho văn bản còn phải kể đến những lời bình giàu hình ảnh, gợi ra khung cảnh làng quê êm đềm. Giọng điệu dịu dàng kết hợp với các câu văn trữ tình (ca dao, câu thơ) hòa quyện với nhau tựa như một khúc hát ru tha thiết. Tất cả đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Với những chi tiết, hình ảnh được chọn lọc kĩ càng, giọng điệu tha thiết tác giả đã khẳng định sự gắn bó, thủy chung của cây tre với đời sống người dân Việt Nam. Cây tre với những phẩm chất tốt đẹp quý báu chính là biểu tượng của đất nước, dân tộc Việt Nam.

 Phân tích truyện Cây tre Việt Nam– Bài phân tích mẫu số 2

Cây tre Việt Nam được Thép Mới viết để làm lời thuyết minh cho bộ phim cùng tên của các nhà điện ảnh Ba Lan. Thông qua hình ảnh cây tre, bộ phim đã thể hiện đất nước và con người Việt Nam, ca ngợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta. Lời thuyết minh đã góp phần làm lên giá trị của bộ phim, nó được coi như là một bài tuỳ bút đặc sắc, một bài thơ - văn xuôi đẹp của nhà báo, nhà văn Thép Mới.

Câu mở đầu Thép Mới viết: Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam. Phải chăng tác giả đã xác lập mối quan hệ gắn bó lâu đời, đặc biệt giữa tre với người Việt Nam - nông dân Việt Nam. Chính vì thế mà tre có mặt khắp nơi trên đất nước: Tre Đồng Nai, nứa Việt Bấc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, luỹ tre thân mật làng tôi... đâu đâu cũng có tre nứa làm bạn. Chỉ có một câu văn thôi mà đã gợi lên được tre ở mọi miền Tổ quốc. Hình ảnh đối xứng nhịp nhàng, câu văn có nhạc tính, đọc lên nghe rất thích thú. Tiếp ngay sau đó, nhà văn ca ngợi những đức tính đáng quý của tre: Vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre củng xanh tươi. Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Sức sống bền vững, dẻo dai; dáng vẻ thanh cao, giản dị của tre một lần nữa được nói lên trong những câu văn giàu nhạc tính, cân xứng nhịp nhàng. Đọc đến câu Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người thì ta bỗng hiểu ra cái ý vị sâu sắc: cây tre chính là con người Việt Nam,- là tượng trưng cho dân tộc Việt Nam và những phẩm chất cao quý của tre cũng là những đức tính đẹp đẽ của con người.

Nhận định tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam là tư tưởng xuyên suốt bài văn. Để chứng minh cho nhận định này, tác giả đã đưa ra một hệ thống luận điểm với nhiều dẫn chứng. Luận điểm thứ nhất như đã nói ở phần mở đầu, sự gắn bó của cây tre với con người Việt Nam. Cây tre có mặt ở khắp nơi trên đất nước. Hơn thế nữa, tre ăn ở với người đời đời kiếp kiếp. Đã từ lâu đời, dưới bóng tre xanh con người Việt Nam đã làm ăn sinh sống và gìn giữ một nét văn hoá cổ truyền. Tre còn giúp người trăm nghìn công việc khác nhau như là cánh tay của người nông dân:

“ Cánh đồng ta năm đôi ba vụ
Tre với người vất vả quanh năm.”

Trong cuộc sống đời thường, tre gắn bó với con người thuộc mọi lứa tuổi: với tuổi thơ, tre là nguồn vui - các bạn nhỏ chơi chuyền đánh chắt bằng tre; với lứa đôi nam nữ thì dưới bóng tre là nơi hò hẹn tâm tình; với tuổi già hút thuốc làm vui thì có chiếc diếu cày... Suốt một đời người, từ thuở lọt lòng trong chiếc nôi tre, đến khi nhắm mắt xuôi tay, nấm trèn giường tre, tre với mình sống có nhau, chết có nhau, chung thuỷ.

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương đất nước, tre cũng gắn bó cùng dân tộc. Ta kháng chiến, tre lại là đồng chí chiến đấu của ta... Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù... Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hy sinh để bảo vệ con người. Chính trong hoàn cảnh chiến đấu, tre bộc lộ nhiều phẩm chất cao quý khác: thẳng thắn, bất khuất Trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng. Tre lại vì ta mà cùng ta đánh giặc. Trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc, cây tre càng gắn bó khăng khít, chặt chẽ hơn với con người Việt Nam. Từ truyền thuyết cây tre đằng ngà cùng anh hùng làng Gióng đánh tan giặc Ân, đến câu ca dao:

“ Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què!”

Cho tới cuộc kháng chiến chống Pháp... cây tre rất xứng danh anh hùng bất khuất, như dân tộc Việt Nam bất khuất anh hùng.

Đế tổng kết vai trò lớn lao của cây tre đối với đời sống con người và dân tộc Việt Nam, tác giả đã khái quát: Tre, anh hùng lao động! Tre , anh hùng chiến đấu.

Cây tre tiếp tục gắn bó thân thiết với dân tộc Việt Nam trong hiện tại và mãi mãi sau này. Phần kết của bài kí, tác giả đặt ra một vấn đề có ý nghĩa: vai trò của cây tre khi đất nước bước vào thời kì mới (Công nghiệp hoá - hiện đại hoá) trong giai đoạn hiện tại và tương lai, khẳng định tre mãi mãi là người bạn chia bùi, sẻ ngọt với con người. Để đưa người đọc đến vấn đề này, tác giả bắt đầu từ hình ảnh nhạc của trúc, của tre, hình ảnh sáo tre, sáo trúc biểu lộ tâm tình của con người Việt Nam. Những câu văn viết về nhạc của trúc, của tre thiết tha bay bổng như một đoạn thơ - văn xuôi giàu nhạc tính. Sau đó, tác giả lấy câu tục ngữ tre già măng mọc và hình ảnh măng non trên phù hiệu đội viên thiếu nhi làm phương tiện chuyển ý rất tự nhiên để khẳng định vị trí của cây tre trong tương lai của đất nước: Nứa tre... còn mãi với dân tộc Việt Nam, chia ngọt sẻ bùi của những ngày mai tươi hát... Ngày mai, triển đất nước này, sắt thép có thể nhiều hơn tre nứa. Nhưng trên đường đời ta dấn bước, tre xanh mãi là bóng mát. Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình... Nghĩa là cây tre với những phẩm chất quý báu của nó lưu giữ biết bao giá trị lịch sử, giá trị vàn hoá, tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam vẫn còn mãi với các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau, với bao niềm tự hào và kiêu hãnh

 Phân tích truyện Cây tre Việt Nam– Bài phân tích mẫu số 3

Cây tre là người bạn thân thiết lâu đời của người nông dân và nhân dân Việt Nam. Với nhiều phẩm chất quý báu, nó đã trở thành biểu tượng về đất nước Việt Nam, về dân tộc Việt Nam. Toàn bộ nội dung ấy được diễn đạt trong một bài văn thể kí nghiêng vẻ phía tuỳ bút chính luận. Cho dù là lời thuyết minh cho một cuốn phim với tất cả sự phụ thuộc vào kịch bản, người viết vẫn phát huy được bản sắc của mình bằng lối văn giàu hình ảnh và nhạc điệu. Tất cả thống nhất trong một bố cục chặt chẽ của tư duy. Đây là một trong những bài văn xuôi hiếm có của văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám.

Văn bản thuyết minh bắt đầu bằng một nhận xét bao trùm, có sức khái quát cho toàn bài : "Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam", rồi ngay sau đó để chứng minh, người viết đi vào luận điểm đầu tiên : cây tre Việt Nam là loài cây độc đáo nhất trong các loài cây. Ý thức khẳng định bằng phép so sánh này đã có một cách làm trực tiếp : đặt cây tre vào vùng thiên nhiên nhiệt đới của "muôn ngàn cây lá khác nhau". Chỉ với ba câu văn, tác giả đã thuyết phục được chúng ta ở sự trân trọng, nâng niu (cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý) nhưng là nhằm nhấn mạnh về quan hệ "thân thuộc nhất" với con người thì không gì bằng nứa bằng tre. Để tránh sự ngộ nhận, chủ quan, với cách viết dụng công và tâm huyết, ông trưng bày một hệ thống hình ảnh trùng điệp, liên hoàn có ấn tượng thị giác rất cao : "Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, luỹ tre thân mật làng tôi...". Nếu hình dung cách viết này như một thứ ống kính quay phim, ta có một cái nhìn ở hai cấp độ : viễn cảnh và cận cảnh, từ xa đến gần. Riêng hình ảnh cận cảnh (luỹ tre thân mật làng tôi) làm chúng ta không khỏi bồi hồi. Ấy là chưa nói sự cất cánh của lời văn bằng nhạc, một giai điệu say sưa ở sự cân đối, hài hoà.

Nếu tách nhịp, chúng ta có kết cấu 3-3, 6-6. Ngôn ngữ ấy, nhạc điệu ấy - từ cảm xúc vang lên như những bài thơ. Mạch cảm hứng dồi dào còn vắt xuống ý tiếp theo để đi vào phẩm chất. Vẫn với phương pháp so sánh, vẫn với lối văn trùng điệp, vẫn những nhịp điệu hài hoà, ta thấy hình tượng cây tre độc áo hiện ra với lòng ham sống và sức sống dồi dào : "Vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt", và từ cái gốc ấy, nó tự vun trồng những nét đặc trưng : mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp, dẻo dai, thanh cao, chí khí. Quen thuộc với con người, lại "chí khí" như người, cây tre còn độc đáo ở sự hoá thân. Nó là cốt cách người và chỉ con người Việt Nam mới có. Đọc câu văn ấy ta bỗng giật mình : đường biên phân định giữa cây tre với con người không còn chia tách rạch ròi được nữa.

Ý tưởng "cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt Nam" từ đoạn hai trở đi mới rõ. Dưới "bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn", hiện ra toàn bộ đời sống con người từ ăn, ờ, lam làm, tập quán, phong tục, buồn vui, từ dựng nhà dựng cửa, lấy vợ lấy chồng (hai trong ba việc hệ trọng : tậu trâu, cưới vợ, làm nhà), sinh ra và mất đi, "tre với mình, sống có nhau, chết có nhau chung thuỷ". Trong đoạn văn quan trọng này, về cấu trúc có sự kết hợp đan cài giữa chiều ngang và chiều dọc về chiều ngang, ta nhận ra thấp thoáng mái chùa cổ kính, nền văn hoá nông tang, những công việc hằng ngày, cả những nhọc nhằn giần sàng, xay, giã. Tre chẻ lạt gói bánh chưng mỗi lần tết đến, niềm vui của trẻ thơ, phút khoan khoái của tuổi già, tre đã chia sẻ với người khăng khít, thuỷ chung. Còn về chiều đọc, nhằm gắn kết, gia cố sự bền chặt, tác giả đã nhấn mạnh yếu tố thời gian : "mái đình cổ kính", "nền văn hoá lâu đời", "đã từ lâu", "đời đời, kiếp kiếp", "đã mấy nghìn năm". Đó chính là chiều dài bốn nghìn năm lịch sử. Riêng về yếu tố văn hoá, nếu nghĩ cho sâu, nó không chỉ thể hiện bằng chất liệu vật thể mà còn có cả nền văn hoá phi vật thể. Đó là những câu hát, những tâm sự, cách so sánh ví von. Đoạn hai của bài có ba câu thơ thì bắt đầu bằng câu thơ của thời đại mới ("Bóng tre trùm mát rượi").

Sau đó, hình như dể xâu chuỗi với tâm hồn dân tộc thì một câu thơ là tâm sự mùa màng, còn một câu nữa là khúc hát giao duyên. Câu thứ nhất, tâm sự cùng tre làm ta nhớ đến nỗi niềm của người nông dân với con trâu quen thuộc: "Trâu ơi ta bảo trâu này". Còn chất nhạc nếu là ưu điểm nổi bật của bài văn, thì ở đoạn này hiện ra rất rõ. Đó là cách nói có vần và nhịp điệu, nhất là nhịp điệu, chẳng hạn câu : "Giang chẻ lạt, buộc mềm, khít chặt như những mối tình quê cái thuở ban đầu thường nỉ non dưới bóng tre, bóng nứa". Nhất là câu : "Cối xay tre nặng nề quay, từ nghìn đời nay, xay nắm thóc". Có thể nói : ít có đoạn nào mà bao nhiêu tâm sự, nỗi niềm của người viết đã gửi gắm tài hoa và chắt lọc vào từng câu, từng chữ như ở đoạn này.

Nếu đoạn hai, nói vai trò của cây tre trong sự nghiệp dựng nước thì đoạn ba lại khẳng định vị trí của cây tre trong công cuộc giữ nước. Vì sự bất khuất, can trường vốn cũng là một thuộc tính của tre. Tác giả có nhắc tới ý của người xưa : "Trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng". Đúng, ngay thẳng vốn là khí tiết, là cách ứng xứ của trúc, của tre: "Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đổng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người". Tư thế của tre là lăn xả vào cái ác dù cái ác mạnh đến chừng nào để giữ gìn non sông, đạo lí và cũng là để chung thuỷ với phẩm chất của tre. Yếu tố trữ tình một lần nữa lại được phát huy. Nhưng ở đoạn này nó còn gắn liền với tính chính luận. Để liên kết với đoạn trên cũng là để làm hiện lên một chân dung nguyên khối của cây tre, người viết luôn luôn lưu ý : "Ta kháng chiến, tre lại là đồng chí chiến đấu của ta. Tre vốn cùng ta làm ăn, lại vì ta mà cùng ta đánh giặc". Và kì lạ thay, nếu ở đoạn trên, chiếc cối xay tre là biểu tượng về cuộc đời lam lũ, sự chịu đựng đến mức bền bỉ, dẻo dai thì đến đày, vẫn là cây tre nhũn nhặn ấy, nó nhọn hoắt mũi tầm vông với sức mạnh của Thánh Gióng năm nào đuổi giặc Ân cứu nước.

Đoạn cuối của bài văn là một phác thảo về cây tre trên con đường đi tới để liên kết giữa hiện tại, quá khứ với tương lai. Đây mới là những dự cảm. Và, tuy mới chỉ là dự cảm, nhưng vì nói đến tương lai, nó thật là náo nức : "Nhạc của trúc, nhạc của tre là khúc nhạc của đồng quê. Nhớ một buổi trưa nào, nồm nam cơn gió thổi...". Sử dụng văn chương như một thứ nhạc nền nhằm thuyết minh thì sức thuyết phục của nó có cả từ lời lẫn nhạc. Bởi nó bay bổng dĩ nhiên, nhưng ở trường hợp này, nó còn là lời của câu thơ cũ, thơ của lớp người cắp sách ngày xưa. Vì vậy, thật xao xuyến, bâng khuâng, man mác. Nó - "tre già măng mọc", nối liền với tâm hồn trẻ thơ bây giờ, và cả những ngày mai sắp tới. Và có lẽ vì là nhạc của trúc, của tre của thời đại mới, nó không còn là lời ca của những mối tình quê cái thuở ban đầu, nó là tiếng hát của lớp trẻ thơ măng mọc thẳng : Diều bay, diều lá tre bay lưng trời... Sáo tre, sáo trúc vang lưng trời... Đó là lời của tre, trúc hay là lời của một thời đại đang bay mà phơi phới, rộn ràng, khấp khởi ? Hồi kết của đoạn văn vừa là khúc tâm tình vừa khơi gợi lời nhấn nhủ : "Các em, các em rồi đây lớn lên...". Cây tre vật chất Việt Nam dĩ nhiên không thay thế được xi măng, sắt thép, nhưng người bạn son sắt thuỷ chung ấy ít nhất cũng là một nhân chứng chia vui. Còn "cây tre tinh thần" vẫn là bóng mát, là khúc nhạc tâm tình, là cổng chào thắng lợi. Nó vẫn bền chặt với con người, còn tri kỉ, tri âm mãi mãi. Câu văn chính luận cuối cùng như một cách đóng đinh vào ý tưởng : "Cây tre mang những đức tính của người hiền là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam".

Về nghệ thuật, trước hết người đọc dễ dàng nhận ra : "Cây tre Việt Nam" có phẩm chất văn chương hơn báo chí dù tác giả của nó là nhà báo hơn một nhà văn. Phẩm chất văn chương biểu hiện cái nền của cảm xúc dồi dào, tình yêu nồng nhiệt trước con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam mà cây tre là biểu tượng tuyệt vời. Tình cảm ấy cộng với những tri thức văn hoá, văn chương đã tìm đến những hình ảnh, những nhạc điệu như một thi nhân để thổ lộ, giãi bày, diễn tả. Tuy nhiên, là một tuỳ bút chính luận, dù muốn dù không, bài văn có một tổ chức phân đoạn, phân ý rõ ràng. Cái khéo của nhà văn là tạo được mối liên kết cả bên ngoài và cả bên trong của nó. Bài văn có dược sự liền mạch câu nọ nối liền câu kia, ý trên với ý dưới như dòng chảy một con sông. Đây là một chỉnh thể nghệ thuật. Cùng với nội dung, giá trị nghệ thuật chủ yếu của bài văn là chất thơ văn xuôi của nó. Chất thơ ấy thể hiện trên hai mặt, một là những hình ảnh táo bạo, phong phú và hai là nhạc điệu đặc biệt của câu về hình ảnh độc đáo, người viết tạo ra bằng biện pháp nhân hoá trong nhiều trường hợp. Thực ra cái cách này không mới. Ca dao từng đã có câu : "Giã ơn cái cối cái chày", "Giã ơn cái cọc bờ ao". Nhưng sáng tạo của Thép Mới là sử dụng biện pháp ấy một cách tối đa, có hệ thống và đầy hiệu quả : "Tre với người như thế đã mấy nghìn năm...". Sự xuyên suốt theo kiểu tính đếm ấy sâu nặng nhân tình như một thứ lạt mềm buộc chặt để ai đó trong chúng ta chỉ cần thao thức một chút là không khỏi rưng rưng về cái nơi sinh thành gốc đa, giếng nước. Còn về nhạc điệu của lời văn, có gì xao xuyến hơn những câu văn đầy tính hòa thanh của bằng trắc, của cách ngắt nhịp khi dồn dập trào dâng, lúc lắng sâu, nỉ non, thủ thỉ. Câu văn có lúc căm giận đến nghẹn ngào : "Một thế kỉ "văn minh", "khai hoá" của thực dàn cũng không làm ra được một tấc sắt. Tre vẫn phải còn vất vả mãi với người", lúc trầm tư như chiêm ngưỡng một bức tranh thuốc nước : "Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình mái chùa cổ kính".

Phân tích truyện Cây tre Việt Nam– Bài phân tích mẫu số 4

"Tre Việt Nam
Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh"

Cây tre xanh quen thuộc trong mỗi làng quê Việt, là hình ảnh đẹp đẽ khi bước vào mỗi trang thơ, lời văn của các tác giả văn học. Đó là hình ảnh Thánh Gióng nhổ tre đánh giặc trong truyền thuyết Thánh Gióng, là cây tre hiên ngang, quật cường và xanh tốt trong thơ Nguyễn Duy, là bóng tre xanh toả mát mỗi trưa hè, soi tóc mình xuống dòng sông xanh mát trong thơ Tế Hanh. Đến với văn Thép Mới, ta như yêu thêm, khâm phục thêm những cây tre nơi xóm nhỏ bởi những phẩm chất cao quý nơi tre quá bài "Cây tre Việt Nam".

Cây tre từ lâu đã gắn bó với con người, trở thành một phần máu thịt của hồn quê. Thấu hiểu được tình cảm và vị trí của tre trong lòng người, mở đầu bài viết, tác giả đã khẳng định mối quan hệ giữa trẻ và người " bạn thân của nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt Nam". Thật vậy, với mỗi con người Việt, đặc biệt là những người nông dân, tre luôn đồng hành trong mọi công việc từ hái rau, cắt cỏ, thu hoạch ruộng đến cả nhưng lúc nghỉ ngơi hóng mát trẻ vẫn luôn cùng người nông dân, ru mát những giấc mơ trưa.

Trong thế giới thiên nhiên rộng lớn, cây cối xanh tươi, giữa muôn ngàn những màu xanh cây lá, tre vẫn giữ một vị trí vô cùng nổi bật với sự thân thuộc mà nó mang đến: "Nước Việt Nam xanh muôn ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa". Tre cũng là loài cây chẳng kén đất sống hay ngại thời tiết nắng gió nhọc nhằn, dù ở bất kì nơi đâu, tre vẫn vươn thẳng mình phía trước, sống xanh tốt, dẫu cho đó là chốn đất cằn đá sỏi hay nơi màu mỡ tốt tươi. Cũng chính bởi thế mà khắp mọi miền đất nước, đâu đâu cũng thấy bóng dáng tre xanh "Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật làng tôi,... đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn". Những câu văn đầu như lời giới thiệu đầy nhẹ nhàng mà bộc bạch tình cảm thắm thiết, chân thành của tác giả dành cho cây tre. 

Tre càng gần gũi với con người hơn bao giờ hết bởi những phẩm chất đáng quý của nó đều gắn với những đức tính tốt đẹp của con người: " Tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng cùng một mầm non măng mọc thẳng. Vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt…”. Những phẩm chất dẻo dai, thích nghi với hoàn cảnh, ngay thẳng, bản lĩnh cứng cáp được trẻ hun đúc từ thế hệ này sang thế hệ khác đáng ngưỡng mộ biết bao. Không chỉ vậy, trẻ còn mang khí chất đầy hấp dẫn, thu hút. Chỉ với vài câu văn ngắn mà tác giả đã khẳng định được vẻ đẹp cả về sức vóc và phẩm chất của tre đầy đúng đắn, thể hiện được sự tinh tế trong cách quan sát và cảm nhận của tác giả, tre trở thành một đại diện cho vẻ đẹp, những phẩm chất đầy cao quý của dân tộc Việt Nam.

Trong đời sống con người, trẻ luôn bên cạnh, gắn liền với nhân dân từ xưa tới nay. "Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn. Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hoá lâu đời. Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp. Tre, nứa, mai, vầu giúp người trăm nghìn công việc khác nhau. Tre là cánh tay của người nông dân". Điệp ngữ" bóng tre", "dưới bóng tre", "tre" được lặp đi lặp lại càng làm rõ sự khăng khít, gắn bó bên nhau giữa trẻ và người. 

Bóng tre làng ôm lấy, bao bọc và chở che cho con người, bóng tre đi vào văn hoá, vào lịch sử của dân tộc, trong chiến tranh tre là vũ khí chiến đấu ngang tàng, oanh liệt, trong thời bình trẻ cũng người vỡ ruộng, khai hoang, góp sức mình đưa đất nước đi lên.". Trong mỗi gia đình nông dân Việt Nam, tre là người nhà, tre khăng khít với đời sống hàng ngày."

Tre gắn bó với con người trong cuộc đời như một điều gì khó có thể chia cắt được. Từ tuổi ấu thơ, tre là nguồn vui trong mỗi trò chơi dân gian chơi chuyền, đánh thẻ. Lúc trưởng thành, tre bên cạnh con người vào ruộng, ra nương, khi về già, tre lại là  bạn tâm giao trong chiếc điếu cày khoan khoái. Tre chung thủy với người như dân làng thủy chung, gắn bó với quê hương mình vậy.

Không chỉ là kẻ thủy chung với đời trẻ còn là một người hùng bất khuất, kiên cường. "Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất". Chiến tranh có súng đạn cũng không thể thiếu gậy tầm vông, không thể nào không có gậy tre, chông tre,....Tre vào chiến trận cũng gan dạ, kiên cường oanh liệt, lấy thân mình giữ làng nước quê hương "Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!". Tre- người hùng chiến trận, lời tác giả viết đều chân thực, dựa trên lịch sử và thực tế vì vậy mỗi từ, mỗi chữ đều lay động tâm hồn người đọc.

Tre đến với mỗi quê hương bằng khúc nhạc da diết, tâm tình. Khúc nhạc đầy yên bình rừng lên man mác, nhẹ nhàng:

" Diều bay, diều lá tre bay lưng trời...
Sáo tre, sáo trúc vang lưng trời…
Gió đưa tiếng sáo, gió nâng cánh diều."

Đoạn kết bài là hình ảnh của tre trong cuộc sống hiện đại, khi mà những xi măng, cốt sắt ngày càng nhiều thì tre vẫn giữ một vị trí đặc biệt. "Ngày mai, trên đất nước này, sắt, thép có thể nhiều hơn tre, nứa. Nhưng, trên đường trường ta dấn bước, tre xanh vẫn là bóng mát. Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình. Tre sẽ càng tươi những cổng chào thắng lợi. Những chiếc đu tre vẫn dướn lên bay bổng. Tiếng sáo diều tre cao vút mãi."

Lời khẳng định đầy thiết tha ấy đã cho thấy một sức sống trường tồn, vĩnh cửu của tre trong đời sống dân tộc Việt Nam. Tác phẩm với ngôn ngữ mộc mạc, chân tình, lối viết giản đơn nhưng đã mang lại cho người đọc những tình cảm tốt đẹp. Có lẽ phải trân quý và yêu lắm cây tre Việt Nam tác giả mới viết nên những dòng văn thấm đẫm cảm xúc như thế.