Tác giả, Tác phẩm văn 6 – Bành Chưng, bánh Giầy

Bánh Chưng, bánh Giầy

I. Đôi nét về tác phẩm: Bánh chưng, bánh giầy

1. Thể loại: truyền thuyết:

- Truyền thuyết là 1 trong 12 thể loại văn học dân gian của nước ta. Gồm có các đặc điểm nổi bật sau:

•Đây là loại truyện dân gian kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ, thường có yếu tố tưởng tượng kì ảo.

•Thể hiện thái độ và cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử được kể.

- Truyền thuyết Bánh chưng bánh giày thuộc nhóm những truyền thuyết về thời đại Hùng Vương - thời đại mở đầu lịch sử nước ta. Tuy nhiên Bánh chưng bánh giày có điểm khác biệt so với các truyền thuyết cùng bối cảnh, đó là sử dụng rất ít các chi tiết hoang đường, kì ảo.

2. Phương thức biểu đạt

- PTBĐ chính là tự sự

3. Tóm tắt

Bài tóm tắt số 1

Lúc vua Hùng về già muốn truyền ngôi cho các con nên ra điều kiện: không kể con trưởng, con thứ, miễn ai làm vừa ý Tiên Vương sẽ được nối ngôi. Các lang đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ trên rừng dưới biển dâng cho vua cha. Riêng có Lang Liêu, người con thứ mười tám, sau khi mộng thấy thần đã làm một loại bánh hình vuông, một loại bánh hình tròn để dâng vua. Vua vô cùng hài lòng mang bánh lễ Tiên Vương, và được kế ngôi vua. Từ đó, bánh chưng, bánh giầy trở thành lễ vật không thể thiếu trong dịp Tết lễ.

Bài tóm tắt số 2

Vua Hùng Vương thứ sáu muốn tìm trong số hai mươi người con trai một người thật tài đức để nối ngôi nên đã ra điều kiện: không nhất thiết là con trưởng, ai làm vừa ý nhà vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.

Các lang đua nhau sắm lễ thật hậu, thật ngon. Lang Liêu, người con trai thứ mười tám, rất buồn vì nhà nghèo, chỉ quen với việc trồng khoai trồng lúa, không biết lấy đâu ra của ngon vật lạ làm lễ như những lang khác. Sau một đêm nằm mộng, được một vị thần mách nước, chàng bèn lấy gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn làm thành hai thứ bánh, loại hình tròn, loại hình vuông dâng lên vua cha. Vua thấy bánh ngon, lại thể hiện được ý nghĩa sâu sắc nên lấy hai thứ bánh ấy lễ Trời, Đất và lễ Tiên vương, đặt tên bánh hình tròn là bánh giầy, bánh hình vuông là bánh chưng và truyền ngôi cho Lang Liêu.

Từ đó, việc gói bánh chưng và bánh giầy cúng lễ tổ tiên trở thành phong tục không thể thiếu trong ngày Tết của người Việt Nam.

Bài tóm tắt số 3

Hùng Vương đời thứ 6 có 20 người con trai ai cũng giỏi giang, tài giỏi. Khi vua về già không biết chọn ai nối ngôi bằng nghĩ ra cách dâng lễ vật trong lễ Tiên vương, lễ vật nào ý nghĩa và hợp ý vừa nhất sẽ được truyền ngôi.

Lang Liêu là người con thứ 18 của vua, trong khi các anh em lên rừng xuống biển tìm lễ vật thì Lang Liêu vẫn đang lo lắng chưa tìm ra lễ vật. Trong cơn mơ chàng được vị thần mách cho cách làm một loại bánh sử dụng nguyên liệu sẵn có. Hai chiếc bánh với hình vuông tượng trưng cho đất va hình tròn tượng trưng cho trời.

Đến lễ Tiên vương, chàng dâng lên cho vua, vừa khen ngợi và rất hài lòng, vua Hùng quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu.

Bài tóm tắt số 4.

Vua Hùng thứ sáu có hai mươi người con trai, cả hai mươi người con, ai cũng đều giỏi giang nên vua không thể lựa chọn được người sẽ nối nghiệp mình. Nhà vua luôn nói với những người con trai của mình rằng, người được lựa chọn không nhất thiết phải là con trưởng, người con nào làm vừa ý nhà vua trong lễ Tiên vương của mình thì sẽ được đức vua truyền ngôi cho.

Các lang đều đua nhau sắm những lễ vật thật hâu, thật ngon và độc nhất vô nhị, đây đều là những sản vật được các lang cho người đi khắp nơi tìm kiếm chỉ với mong muốn lấy được lòng của nhà vua. Nhưng chỉ duy nhất có người con trai thứ mười tám của đức vua là Lang Liêu, chàng vẫn rất buồn vì chàng rất nghèo, chàng không có đủ tiền để tìm kiếm sản vật như các anh trai của mình được. Do ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời mà chàng không có của để, thứ duy nhất chàng có là lúa. Vì suy nghĩ quá nhiều mà chàng đã thiếp đi, trong giấc mơ, một vị thần đã bảo với chàng cách làm lễ vật. Tỉnh dậy, chàng lấy gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn làm thành hai thứ bánh, một loại bánh tròn tượng trưng cho trời, một loại bánh vuông, tượng trưng cho đất. Bánh tròn chàng đặt tên là bánh giầy, bánh hình vuông là bánh chưng. Nhà vua rất hài lòng về lễ vật của Lang Liêu dâng lên nên ngài đã quyết định nhường ngôi cho chàng.

Cũng bởi vậy mà trong ngày tết cổ truyền của Việt Nam không thể nào thiếu 2 món bánh đơn giản nhưng đầy ý nghĩa trên bàn thờ tổ tiên.

Bài tóm tắt số 5

Truyện cổ tích bánh chưng bánh giầy kể về câu chuyện vua Hùng vương thứ sáu sau khi đánh dẹp bọn giặc xâm lược, bèn gọi các con đến họp đông đủ và truyền rằng nếu ai tìm được thức ngon vật lạ để đặt lên bàn thờ tổ tiên thì sẽ truyền ngôi cho.

Các con của vua Hùng ai cũng háo hức lên rừng xuống biển tìm thức ngon vật lạ chỉ mong được dâng lên bàn thờ tổ tiên và được vua hùng truyền ngôi cho. Lang liêu là hoàng tử thứ 18, mẹ mất sớm nên rất lo lắng chưa biết phải làm như thế nào, chọn gì để dâng lên vua cha.

Một hôm, đang nằm ngủ thì được một vị thần mách nước, bảo cho làm một loại bánh sau này được gọi là bánh chưng bánh giầy. Lang liêu bắt tay vào làm, đi tìm gạo nếp, lá gói ngoài tượng trưng cho sự che chở của cha mẹ và gói thành bánh vuông. Xôi sau khi được giã nhuyễn được làm thành một chiếc bánh hình tròn. Hai chiếc bánh này một vuông một tròn tượng trưng cho trời đất.

Sau khi các anh của chàng dâng lên vua cha bao nhiêu của ngon vật lạ, tới lượt Lang Liêu, chàng dâng lên vua cha. Thấy lạ, vua cha hỏi lại và chàng kể lại sự tình, sau đó vì thấy bánh vừa ngon vừa ý nghĩa bèn truyền lại ngôi cho Lang Liêu. Sự tích bánh chưng bánh giầy ra đời từ đây.

4. Bố cục(3 phần)

- Phần 1 (từ đầu đến “có Tiên vương chứng giám”): Nhà vua ra quyết định truyền ngôi

- Phần 2 (tiếp đó đến “nặn hình tròn”): Lang Liêu và các hoàng tử tìm kiếm và làm lễ vật

- Phần 3 (còn lại): Ý nghĩa và tục lệ làm bánh chưng, bánh giầy

5. Giá trị nội dung

Truyền thuyết “Bánh chưng bánh giầy” vừa giải thích nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy vừa phản ánh thành tựu văn minh nông nghiệp ở buổi đầu dựng nước với thái độ đề cao lao động, đề cao nghề nông và thể hiện sự tôn kính Trời, Đất và tổ tiên của nhân dân ta

6. Giá trị nghệ thuật

- Sử dụng các chi tiết tưởng tượng kì ảo (thần báo mộng và chỉ dẫn)

- Sử dụng nhiều chi tiết nghệ thuật tiêu biểu cho truyện dân gian:

•Lối kể chuyện theo trình tự thời gian (cái gì xảy ra trước thì kể trước, cái gì xảy ra sau thì kể sau)

•Cốt truyện xoay quanh một nhân vật chính là Lang Liêu - phải trải qua một cuộc thi tài, gặp phải các khó khăn, được thần linh giúp đỡ và đạt được chiến thắng - nối ngôi vua - kết thúc có hậu.

II. Phân tích văn bản Bánh chưng bánh giầy

a) Dàn ý

I. Mở bài

- Giới thiệu về thể loại truyền thuyết (khái niệm truyền thuyết, khái quát đặc trưng thể loại truyền thuyết…)

- Giới thiệu về truyền thuyết “Bánh chưng, bánh giầy” (tóm tắt truyền thuyết, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)

II. Thân bài

1. Nhà vua ra quyết định truyền ngôi

- Hoàn cảnh truyền ngôi: giặc ngoài đã dẹp yên, vua đã già, muốn truyền ngôi

- Người nối ngôi vua phải là người nối được chí vua, không nhất thiết phải là con trưởng

- Cách thức: một câu đố để thử tài – “ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho”

→ Cách chọn người nối ngôi của vua Hùng khác với các đời vua trong lịch sử

2. Lang Liêu và các hoàng tử tìm kiếm, làm lễ vật

- Các hoàng tử đua nhau làm lễ thật hậu, thật ngon đem về lễ Tiên vương, họ đi tìm của quý trên rừng xuống biển

- Lang Liêu là người thiệt thòi nhất, từ khi lớn lên, chỉ chăm lo việc đồng áng, trồng lúa trồng khoai, trong nhà chỉ có khoai, lúa là nhiều

- Lang Liêu nằm mộng thấy thần, được thần mách bảo, Lang Liêu nghe lời thần làm lễ vật dâng vua cha:

+ Chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, đem vo sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vườn gói thành bánh hình vuông, nấu một ngày một đêm thật nhừ.

+ Thứ gạo nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyền, nặn hình tròn

3. Ý nghĩa và tục lệ bánh chưng, bánh giầy

- Bánh của Lang Liêu được chọn để tế Trời, Đất cùng Tiên vương

- Sau khi lễ xong, vua cùng quần thần ăn bánh, ai cũng tấm tắc khen ngon

- Lang Liêu là người hiểu ý nhà vua nên được truyền ngôi cho. Ý nghĩa món bánh của Lang Liêu:

+ Bánh hình tròn tượng trưng cho trời nên gọi là bánh giầy

+ Bánh hình vuông tượng trưng là đất, thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ, muôn loài, đặt tên là bánh chưng

+ Lá bọc ngoài, mĩ vị ở trong là ngụ ý đùm bọc nhau

- Tục lệ ở nước ta: chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi và có tục ngày Tết làm bánh chưng, bánh giầy, thiếu bánh chưng, bánh giầy là thiếu hẳn hương vị ngày Tết

III. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản;

+ Nội dung: Truyền thuyết “Bánh chưng bánh giầy” vừa giải thích nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy vừa phản ánh thành tựu văn minh nông nghiệp ở buổi đầu dựng nước với thái độ đề cao lao động, đề cao nghề nông và thể hiện sự tôn kính Trời, Đất và tổ tiên của nhân dân ta

+ Nghệ thuật: sử dụng các yếu tố tưởng tượng, kì ảo, cách kể chuyện dân gian

- Cảm nhận của bản thân về truyền thuyết: hiểu hơn về nguồn gốc của một loài bánh…

b) Bài văn phân tích

Phân tích truyền thuyết Bánh Chưng, bánh Giày – Bài phân tích mẫu số 1

Bánh chưng, bánh giày vốn là loại bánh xuất hiện từ rất lâu đời trong văn hóa ẩm thực của người Việt, đặc biệt trong dịp tết Nguyên Đán thì lại càng không thể thiếu, nó dường như đã trở thành linh hồn của mâm cơm tết, người ta thường nói không có bánh chưng thì tết còn chưa trọn vẹn. Và bánh chưng, bánh giày cũng có riêng cho mình một truyền thuyết, truyền thuyết về một chàng trai tên là Lang Liêu đã sáng tạo ra hai thứ bánh tuyệt vời từ hạt thóc, hạt gạo, dân gian vẫn thường hay truyền tai nhau một câu chuyện có tên Bánh chưng, bánh giày.

Câu chuyện xoay quanh một cuộc thi tài, mà chủ khảo chính là vua Hùng Vương thứ 6, còn các thí sinh là các hoàng tử, vua Hùng ra đề cho các con mỗi người phải chuẩn bị một mâm cỗ cúng để dâng lên tổ tiên, ai làm tốt nhất sẽ được ông truyền ngôi vua cho. Vốn tưởng việc chuẩn bị cỗ cúng là việc thường thấy trong các gia đình, sao có thể làm khó được các vị hoàng tử, thế nhưng vua Hùng lựa chọn đề thi ấy lại có những dụng ý hết sức sâu sắc.

Lúc này đây bối cảnh đất nước đã yên bình, không còn giặc ngoại xâm lăm le bờ cõi, thế nên nhiệm vụ mới của người đứng đầu đất nước là giữ sao cho đất nước được thái bình thịnh trị, nhân dân được no ấm. Tuy nhiên để hoàn thành nhiệm vụ mới ấy thì cần phải có những chính sách, những hành động cụ thể, tuy nhiên vua Hùng thứ 6 tuổi tác đã cao, việc suy nghĩ trị quốc đã dần trở nên quá sức, lúc này đây ông cần một người có thể gánh vác giang sơn thay cho mình, thế nhưng tất cả các hoàng tử của ông ai cũng là người tài giỏi, cũng có thể lên kế vị. Chính điều ấy đã thôi thúc vua Hùng Vương thứ 6 tổ chức một cuộc tranh tài, nhằm chọn ra vị hoàng tử ưu tú nhất, đặc biệt từ cuộc thi này mà nhà vua có thể nhận định được ai là người có đủ cả ba phẩm chất chí, tài, đức. Tuy nhiên vua cha không hề nói rõ rằng phải làm như thế nào mà chỉ truyền chỉ vẻn vẹn mấy chữ "năm nay nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho có Tiên vương chứng giám". Làm vừa ý là làm như thế nào "ý vua cha như thế nào, không ai đoán được", bỗng nhiên câu chuyện là cỗ cúng lại biến thành một câu đố, một bài toán nan giải, khiến người trong cuộc hoang mang, bởi trên đời này việc đoán ý của người khác là việc khó nhất. Điều này buộc các hoàng tử phải phán đoán theo lý trí, cố hết sức làm theo những gì mà bản thân cho là hợp lý.

Khác với các hoàng tử khác, người người săn tìm của ngon vật lạ thì Lang Liêu lại có số phận hẩm hiu và kém may mắn, bởi chàng tuy là hoàng tử thứ 18, nhưng mẹ lại thất sủng, mất sớm, không được vua cha để ý. Lang Liêu có cuộc sống hết sức bình dị, tựa như một người nông dân chân chính, chàng quên đi thân phận hoàng tử, suốt ngày chàng chỉ chăm lo đồng áng, tài sản lớn nhất chàng có cũng chỉ toàn khoai, sắn, lấy đâu ra châu báu ngọc ngà mà so với huynh đệ. Từ đó chúng ta nhận ra rằng Lang Liêu mang trong mình những đức tính tốt đẹp, phẩm chất cao quý, đó là lối sống giản dị, gần gũi với nhân dân, gắn bó với đồng ruộng, cần cù, chăm chỉ và biết quý trọng những thành quả lao động mình làm ra. Thêm một phẩm chất đáng quý nữa ở chàng trai này đó là chàng rất biết tôn kính tổ tiên, dù không có tài sản quý giá, nhưng Lang Liêu vẫn mong muốn dành tất cả những gì trân quý nhất để dâng lên tổ tiên với một tấm lòng thành kính, chính vì vậy khi nghĩ đến bản thân chỉ có đống khoai sắn là nhiều, thì chàng lại càng buồn hơn. Lang Liêu còn là người biết kính trọng cha mẹ, bởi dù chàng có bị ghẻ lạnh, nhưng chưa bao giờ chàng oán trách, mà vẫn một lòng vâng lời vua cha, vẫn trăn trở đắn đo làm sao để có một mâm cơm cúng tốt nhất dâng lên. Chàng trăn trở không phải vì ngôi vua, mà đơn giản đây là lời của cha, hơn nữa lại còn là lễ cúng tổ tiên sao có thể xoàng xĩnh, tầm thường cho được, phận làm con cháu phải hết sức cung kính mới phải đạo.

Người tốt thì thường được ông trời phù hộ, Lang Liêu có một giấc mơ lạ, được thần chỉ cho làm bánh mà lễ Tiên vương, thế nhưng thần chỉ bảo làm bánh chứ không hề nói là làm thế nào cho ngon, cho đẹp và ý nghĩa. Thần chỉ cho nguyên liệu, và dường như đó lại là bài toán cho chính Lang Liêu, tuy nhiên bằng sự cần cù, sáng tạo, kiên nhẫn và chịu khó thì đề toán từ thóc gạo chẳng thể làm khó được chàng quá lâu, từ bàn tay chuyên cần chàng đã tạo ra thứ bánh chưng, bánh giày vừa thơm ngon lại nhiều ý nghĩa để dâng lên tổ tiên.

Bánh chưng, bánh giày không chỉ là món ăn ngon miệng đơn thuần mà bên trong nó còn biểu tượng nhiều ý nghĩa, bánh chưng thì vuông, bánh giày thì tròn đó là biểu trưng cho trời và đất song hành, là lòng tôn kính của con cháu với ông bà. Không chỉ trong hình dáng, trong công dụng mà nguyên liệu của bánh cũng có nhiều ý nghĩa, gạo nếp, đỗ xanh, lá dong, thịt mỡ tượng trưng cho những sản phẩm của nghề trồng trọt và chăn nuôi, là biểu tượng cho những sản vật của nghề nông, là sự đề cao nghề nông nghiệp truyền thống của nước ta. Các bọc, cách gói, lá xanh bọc ở bên ngoài, mỹ vị ở bên trong lại thể hiện những phẩm chất cao đẹp của người Việt ta, biết đùm bọc chở che, sống khiêm nhường giản dị. Như vậy chiếc bánh chưng, bánh giày không chỉ quý ở chỗ ngon mà con quý phần nhiều ở ý nghĩa và công sức sáng tạo của người làm, phải thông minh và trân trọng biết bao nhiêu mới có thể làm ra được một món ăn truyền thống tuyệt vời đến như thế. Điều đó đã , sự thông thái trong việc ra đề làm cỗ cúng đã chọn cho đất nước một vị minh quân vô cùng xứng đáng, và từ đó trở đi nhân dân ta lại có thêm một món ăn tuyệt vời để dâng cúng tổ tiên nhân dịp lễ tết.

Bánh chưng, bánh giày là một truyền thuyết hấp dẫn vừa giải thích được sự ra đời đặc biệt của hai thứ bánh truyền thống, đồng thời phản ánh những thành tựu trong nền nông nghiệp của đất nước ta vào những năm đầu dựng nước, ca ngợi tinh thần lao động miệt mài, sự sáng tạo trong công việc, đề cao những đức tính tốt đẹp của con người trong cuộc sống và tục lệ thờ cúng, tổ tiên trời đất với một lòng thành kính sâu sắc của nhân dân ta từ xưa tới nay.

Phân tích truyền thuyết Bánh Chưng, bánh Giày – Bài phân tích mẫu số 2

Trong truyện cổ dân gian, sự xuất hiện của Thần, Tiên, Bụt, Phật … đã tạo nên yếu tố hoang đường, yếu tố kì diệu. Những nhân vật siêu nhiên ấy nhằm giúp đỡ, độ trì người nghèo, bênh vực kẻ yếu, ban phép lạ cho người tốt, trừng phạt bọn xấu xa, gian ác trong cuộc đời. Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy cũng có nhân vật Thần. Thần xuất hiện trong giấc mộng, mách bảo cho Lang Liêu mới được nối ngôi Vua “tuy đúng, nhưng chưa thật đầy đủ. Chưa thật đầy đủ ở điểm nào? Vì ý kiến ấy chưa đề cập đến yếu tố con người, van trò con người. Đó là Lang Liêu và nhà vua.

Lang Liêu là một ông hoàng “chỉ chăm lo việc đồng áng, trồng lúa, trồng khoai …”. Đó là một ông hoàng giàu nhân đức, rất cần cù, sống gần dân, biết trọng nghề nông là nghề căn bản của dân tộc. Anh mồ côi mẹ, là một ông hoàng bị “lép vế” trong hoàng tộc nên mới được Thần hiến kế và độ trì. Việc Lang Liêu gặp Thần trong giấc mộng có ý nghĩa là Lang Liêu được lòng dân, bởi lẽ “thần bảo như dân bảo”.

Lang Liêu là một con người rất sáng tạo. Thần chỉ nói về giá trị của gạo, và mách bảo Lang Liêu nên lấy gạo để làm bánh, chứ không chỉ về cách thức cụ thể làm bánh ra sao. Thế nhưng Lang Liêu đã biết lấy gạo nếp đem vo sạch, lấy đỗ xanh và thịt lợn làm nhân, lấy lá dong gói thành bánh hình vuông đem nấu chín; biết đồ gạo nếp, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn. Lang Liêu đã sử dụng nguyên liệu sẵn có của nhà nông, của quê hương xú sở, sáng tạo thành hai thứ bánh rất ngon. Anh rất xứng đáng nhận mọi phần thưởng cao quý.

Bánh của Lang Liêu sáng tạo nên không chỉ ngon mà còn mang nhiều ý nghĩa sâu xa, tốt đẹp. Bánh giầy tượng trung cho Trời, bánh chưng tượng trưng cho Đất. Thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài. Có thể nói đó là sự hòa hợp giữa con người với đất trời, thiên nhiên tạo vật. Lá dong bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau. Vua Hùng qua chiếc bánh chưng xanh gói bằng lá dong mà nêu cao bài học thương yêu đòan kết. Nhà vua ngẫm nhắc các hoàng tử và quân thần bài học giữ nước. Bánh chưng, bánh giầy với biểu tượng cao quý ấy đã thể hiện cái tâm cái tài, nhất là lòng trung hiếu của Lang Liêu. Lang Liêu đã làm vừa ý vua cha, xứng đáng được vua Hùng truyền ngôi báu, có Tiên vương chứng giám.

Truyền thuyết này đã giải thích nguồn gốc và tính nhân văn của bánh chưng, bánh giầy. Truyện bộc lộ niềm tự hào về một nét đẹp truyền thống của đất nước ta với hương vị Tết cổ truyền rất đậm đà. Và đó chính là bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa, nền văn hóa Việt Nam.

Sâu xa hơn nữa, truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy còn thể hiện ý thức lấy nước, lấy dân làm gốc, coi trọng nghề nông, quý hạt gạo, biết ơn tổ tiên, kính Trời Đất với tất cả tấm lòng hồn hậu, chân thành của con người Việt Nam chúng ta.

Phân tích truyền thuyết Bánh Chưng, bánh Giày – Bài phân tích mẫu số 3

Tết là ngày lễ cổ truyền của dân tộc, là ngày tất cả những người con đi xa được trở về cùng nhau sum họp bên gia đình bên những nồi bánh chưng đượm khói thơm nồng hay những cánh đào hoa tươi sắc thắm khe khẽ nở trong những ngày tiết trời lành lạnh. Những ngày này, ai ai cũng cũng bận rộn cùng nhau đi mua sắm Tết, cùng nhau dọn dẹp lại ngôi nhà của mình và trang hoàng cho bàn thờ của mình để thờ cúng tổ tiên được hương khói đượm nồng và trên bàn thờ của mỗi gia đình ngày tết không thể không có hình ảnh của những chiếc bánh chưng, bánh giầy mang đậm những nền văn hóa của dân tộc.

Bánh chưng, bánh giầy tại sao lại là những hình ảnh đại diện cho ngày Tết của dân tộc Việt Nam. Tất cả sẽ được giải đáp trong câu chuyện về "Bánh chưng và bánh giày". Câu chuyện bắt đầu từ khi nhà vua đã già và muốn tìm trong số những người con của mình một người để nối dõi. Nhà vua có rất nhiều người con nhưng để chọn lựa ra được người con nào xứng đáng nhất cho ngôi báu thì nhà vua phải băn khoăn và không biết phải làm như thế nào. Nghe theo lời của những quần thần, nhà vua quyết định lựa chọn cách đưa ra lời thách đố cho tất cả những người con của mình: ai tìm ra lễ vật dâng lên trời đất và tổ tiên vừa ý vua nhất, vua sẽ trao ngôi vị cho người đó. Tất cả những hoàng tử đều cảm thấy rất hào hứng và muốn nhanh chóng tìm những thứ quý giá nhất để dâng lên vua.

Trong số những người con của vua chỉ có duy nhất một hoàng tử thứ mười tám tên là Lang Liêu. Chàng không hề giống như những vị hoàng tử khác mà chàng là một người có tấm lòng nhân hậu, cao đẹp, luôn chăm chỉ làm những công việc của nhà nông mà không hề nề hà bất cứ việc gì. Nhận được lệnh của vua ban, chàng cảm thấy vô cùng lo lắng và không biết tìm đâu ra được lễ vật để hợp ý vua mà vẫn nói được lên tấm lòng của mình dành cho vua cha. Những người anh khác của chàng đều đã tìm được những thứ quý giá mà vua cha có lẽ sẽ thích như đôi chim công, tay gấu, chả phượng, . . chàng không thể có được những thứ quý giá như vậy. Sau bao nhiêu ngày tháng lo lắng, có một hôm, chàng vừa chợp mắt thì thấy được một vị tiên bày cách cho chàng làm được thứ bánh dâng lên vua bằng chính những nguyên liệu mà Lang liêu và gia đình của chàng đã chăm chỉ làm được. đó chính là những hạt gạo trắng ngần - thứ tưởng chừng như bình dị nhưng lại là thứ quý giá nhất trong cuộc sống này để làm ra được hai thứ bánh độc đáo dâng lên đất và trời. Một thứ bánh vuông và một thứ bánh tròn. Bánh vuông là bánh có lá dong xanh biếc bọc ở bên ngoài, bên trong là những hạt lúa nếp thơm nồng, sau đó là một lớp đỗ và trong cùng là thịt lợn. Còn bánh tròn là bánh được dùng những hạt gạo nếp giã nhuyễn và nặn thành hình tròn.

Ngày những hoàng tử dâng lên vua những thứ lễ mà mọi người đã tìm được và làm được. Mọi người ai cũng háo hức vì tự tin ở chính những sản phẩm của mình. Đó đều là những sản phẩm đắt giá, thế nhưng chỉ có sản phẩm của Lang Liêu là những thứ bánh giản dị nhất. Đứng giữa những món ăn sang trọng, Lang Liêu cảm thấy hai thứ bánh của mình thật là đơn giản. Những sau đó, vua cha nếm thử từng món một mà vẫn không hề cảm thấy ưng ý. Cuối cùng, vua cha nhìn thấy hai món bánh độc đáo của Lang Liêu. Ông cùng những quần thần cảm thấy rất bất ngờ. khi nếm hai món bánh này, ông lại càng kinh ngạc nhiều hơn. Những món bánh của chàng ăn và cảm thấy như đã nếm được cả những hương vị của trời đất và những tinh tế trong từng hạt gạo mang lại. Lang liêu đã nói rằng, hai thứ bánh của chàng đại diện cho trời và đất. Bánh hình vuông là trời, màu xanh của nó như thể hiện của những thực vật, cây cỏ dưới mặt đất. màu xanh dịu dàng bọc lấy từng hạt ngọc của đất trời tên là bánh chưng. Còn chiếc bánh hình tròn là chiếc bánh giầy. hình tròn chính là biểu tượng của bầu trời bao la, trời đất cùng nhau tồn tại và trở thành những biểu tượng của đất nước. Nhà vua cảm thấy thật vui mừng vì đã tìm được thứ bánh có ý nghĩa đích thực nhất để dâng lên tổ tiên, thể hiện được chính đạo lí của đất trời. Bởi đất nước là một đất nước nông nghiệp, do đó trong những sản phẩm của những người nông dân thì hạt gạo là thứ quan trọng nhất phải trân trọng được chính những sản phẩm và hiểu được những khó khăn, vất vả của người nông dân thì chúng ta mới có thể biết được những khó khăn, vất vả của người nông dân và có được những cách để giúp cho đất nước phát triển. Cuối cùng thì chàng đã được vua trao cho ngôi vị để thay vua cha trị vì đất nước.

Tóm lại, câu chuyện đã nói lên được những nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy - những thứ bánh mang lên ý nghĩa của dân tộc và qua đây, thế hệ ông cha ta cũng nói lên những suy nghĩ cua mình đề cao những con người hiền lành và tốt bụng: ở hiền gặp lành.

Phân tích truyền thuyết Bánh Chưng, bánh Giày – Bài phân tích mẫu số 4

Trên thế giới, mỗi dân tộc đón Tết cổ truyền theo một phong tục khác nhau. Ở nước ta, từ ngàn xưa đã có tục cúng Tết bằng bánh chưng, bánh giầy. Truyện sự tích bánh chưng, bánh giầy vừa giải thích nguồn gốc của hai loại bánh này vừa phản ánh thành tựu của nền văn minh nông nghiệp buổi đầu dựng nước với thái độ đề cao lao động, đề cao nghề nông và thể hiện sự tôn kính trời, đất, tổ tiên của nhân dân ta. Truyện còn là bài học quý về cách lựa chọn và sử dụng người có tài, có đức để trị vì đất nước.

Bối cảnh của truyện là đời Hùng Vương thứ sáu. Khi đã về già, nhà vua muốn truyền ngôi nhưng vì có tới hai mươi người con trai nên băn khoăn không biết chọn ai cho xứng đáng. Lúc ấy, giặc ngoài đã dẹp yên, nhưng giặc trong vẫn còn phải đề phòng. Nhà vua muốn đưa đất nước đến giai đoạn thịnh vượng. Ông biết rằng dân ấm no thì ngai vàng mới vững. Hiềm một nỗi, nhà vua tuổi cao sức yếu, lực bất tòng tâm.

Một hôm, ông gọi các con lại và nói : Tổ tiên ta từ khi dựng nước đã truyền được sáu đời. Giặc Ân nhiều lần xâm chiếm bờ cõi, nhờ phúc ấm Tiên Vương, ta đều đánh đuổi được, thiên hạ hưởng thái bình. Nhưng ta già rồi, không sống mãi ở đời, người nối ngôi ta phải nối chí ta, không nhất thiết là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên Vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên Vương chứng giám.

Các Lang (con trai vua Hùng thời ấy gọi là Lang), ai cũng muốn ngôi báu về mình nhưng họ không thể hiểu nổi ý tứ sâu xa của vua cha. Họ chỉ nghĩ đơn giản là cứ chuẩn bị mâm cao, cỗ đầy, lễ vật ngon lạ ... là đủ, cho nên vội sai người đi tìm của quý khắp trên rừng, dưới biển.

Riêng Lang Liêu - con trai thứ mười tám của vua Hùng đã được một vị Thần giúp đỡ, bởi vì chàng vốn chịu thiệt thòi so với các anh, không được hưởng giàu sang phú quý. Từ nhỏ, chàng đã phải chăm lo công việc đồng áng, trồng lúa, trồng khoai. Lang Liêu tuy thân là con vua nhưng phận thì lại giống người nông dân lao động. Chàng buồn vì trong nhà chỉ có khoai và lúa. Nhưng khoai lúa thường quá ! Chàng tủi thân nghĩ thầm như vậy.

Theo quan niệm của tổ tiên chúng ta ngày xưa thì Thần, Phật, Tiên, Bụt thường hay giúp đỡ người hiền lành, nghèo khó. Lang Liêu không có quyền thế, của cải gì, lại chẳng có kẻ ăn người ở để sai khiến đi tìm của ngon vật lạ. Chàng chỉ có tấm lòng yêu kính cha và đôi tay làm lụng chuyên cần. Chàng đã được Thần Phật giúp đỡ.

Lang Liêu được Thần báo mộng, dạy rằng hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên Vương, bởi trong trời đất không có gì quý bằng hạt gạo. Hạt gạo nuôi sống con người. Hạt gạo quý giá như vậy và nó lại dễ kiếm bởi nó được làm ra do chính bàn tay lao động của con người.

Lang Liêu hiểu và làm theo ý Thần. Lời khuyên của Thần thật sáng suốt, chân tình. Càng nghĩ Lang Liêu càng thấy đúng. Suy nghĩ của Thần chính là suy nghĩ, tâm tư, ước vọng của nhân dân. Thần đây chính là hiện thân của nhân dân. Ai có thể trân trọng coi hạt gạo là hạt ngọc của trời đất và cũng là kết quả mồ hôi, công sức của con người như nhân dân ? Nhân dân rất quý trọng cái nuôi sống mình, cái mình làm ra được. Phải là những người một nắng hai sương làm ra hạt gạo nuôi đời mới có suy nghĩ sâu sắc và đáng quý như vậy. Lang Liêu dâng lên vua cha phẩm vật quý nhất trong trời đất, lại do chính tay mình làm ra thì quả thật chàng là người con hiếu thảo.

Được thần linh mách bảo, kết hợp với tấm lòng thành, óc sáng tạo và đôi tay khéo léo, Lang Liêu đã dùng thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, cùng với đậu xanh, thịt lợn, gói bằng lá dong, buộc bằng lạt giang thành một thứ bánh hình vuông rồi đem nấu chín.

Vậy là chàng không phải mất công tìm kiếm đâu xa. Gạo, đậu do chàng trồng, lợn chàng nuôi, lá dong mọc sẵn trong vườn, ngoài bãi. Ngần ấy thứ kết hợp với nhau thành thứ bánh đặc biệt xưa nay chưa từng có. Và cũng gạo nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn rồi nặn thành thứ bánh hình tròn. Đó là bánh giầy.

Thật thú vị là cảnh thi cỗ trong ngày cúng Tiên Vương. Các con trai của vua Hùng mang sơn hào hải vị, nem công chả phượng (cách gọi các sản vật quý hiếm) tới, chẳng thiếu thứ gì. Thế nhưng vua cha chỉ xem qua một lượt rồi dừng lại trước mâm cỗ của Lang Liêu. Điều gì đã cuốn hút nhà vua quan tâm tới hai thứ bánh ấy? Có lẽ trước tiên là hình dáng vuông vức của bánh chưng và hình dáng tròn trịa của bánh giầy cùng vẻ đẹp mộc mạc, ưa nhìn của chúng. Bánh chưng xanh, bánh giầy trắng muốt, mịn màng. Hùng Vương rất vừa ý, bèn gọi Lang Liêu lên hỏi. Chàng thật tình đem chuyện giấc mộng gặp Thần ra kể lại. Vua cha ngẫm nghĩ rất lâu rồi chọn hai thứ bánh ấy đem tế Trời Đất và Tiên Vương.

Vì sao hai thứ bánh của Lang Liêu lại được Hùng Vương lựa chọn và chàng được nối ngôi vua? Bởi vì hai thứ bánh đó thể hiện thái độ quý trọng nghề nông, quý trọng hạt gạo do chính con người làm ra. Hùng Vương chắc đã cảm nhận được tính chất thiêng liêng trong câu chuyện Thần báo mộng kia. Lời Thần dạy quả không sai : Trong trời đất, hạt gạo là quý nhất. Hạt gạo nuôi sống con người, dân có ấm no thì ngai vàng mới vững. Lang Liêu biết quý lao động, quý thành quả làm ra từ mồ hôi nước mắt của mình.

Sau khi thưởng thức hai thứ bánh của Lang Liêu, nhà vua và quần thần ai cũng tấm tắc khen ngon. Lời giải thích của nhà vua về hai thứ bánh này thật có lí có tình : Bánh hình tròn là tượng Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông là tượng Đất, các thứ thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau ...

Hai thứ bánh này chứng tỏ được tài đức của người có thể nối chí nhà vua. Đem cái quý nhất trong trời đất, lại do tay mình làm ra dâng lên vua cha để tiến cúng Trời Đất cùng các bậc Tiên Vương thì Lang Liêu quả là người con tài năng, thông minh, hiếu thảo. Vua Hùng phán rằng : Lang Liê đã dâng lễ vật hợp với ý ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta, xin Tiên Vương chứng giám.

Lang Liêu là người tốt, có đủ tài trí để chăm lo cho muôn dân và nối chí vua cha. Trao ngôi báu cho Lang Liêu là thuận ý trời, hợp ý Hùng Vương. Sự tích bánh chưng, bánh giầy đã đi vào phong tục ngày Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc Việt. Nhân dân ta đã xây dựng nên phong tục từ những cái bình thường giản dị nhưng rất giàu ý nghĩa. Chiều 30, tiếng chày giã bánh giầy vang khắp xóm thôn. Đầm ấm biết bao là cảnh cả nhà náo nức vây quanh ngọn lửa hồng nấu bánh chưng xanh. Trên bàn thờ tổ tiên phải bày vài cặp bánh chưng và mâm bánh giầy thì mới là Tết.

Sự tích bánh chưng, bánh giầy nằm trong mảng cổ tích giải thích nguồn gốc sự vật xuất hiện sau thời kì vua Hùng dựng nước. Sự tích trầu cau giải thích tục ăn trầu. Sự tích dưa hấu giải thích nguồn gốc dưa hấu ... Đằng sau cách giải thích thú vị về nguồn gốc bánh chưng bánh giầy là hiện thực cuộc sống của tổ tiên dân tộc Việt - một dân tộc có nền văn minh lúa nước lâu đời. Thuở ấy, dân ta đã có kĩ thuật trồng trọt, chăn nuôi, chế biến các món ăn đặc biệt vừa ngon lành, vừa giàu ý nghĩa.

Truyện còn là bài học sâu sắc về cách lựa chọn người có đức có tài để trị vì đất nước, chăm sóc muôn dân. Vì thế, tuy ra đời cách đây đã hàng ngàn năm mà cho đến nay, truyện vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa của nó.

Phân tích truyền thuyết Bánh Chưng, bánh Giày – Bài phân tích mẫu số 5

“Xuân theo tóc mẹ về

Những nỗi niềm dài ngắn

Hoa râm chiều thôn quê...

Bánh chưng xanh vẫn thế

Dẻo thơm tận đáy lòng

Bạc thời gian dây lạt

Vuông tròn buộc ngóng trông!”

Bánh chưng bánh giày là hai thứ bánh mang đậm hồn quê Việt. Cứ mỗi độ giao thừa, ta hạnh phúc biết bao khi khoảnh khắc ngồi bên bếp lửa hồng trông nồi bánh chưng chín, chọn những chiếc bánh vuông vức nhất, đẹp nhất đặt lên bàn thờ ông bà. Vậy đã bao giờ bạn thắc mắc về nguồn gốc của chiếc bánh chưng chưa? Ai là người đã sáng tạo ra nó và ý nghĩa của những chiếc bánh mang ý nghĩa gì chưa nhỉ? Chắc hẳn, chúng ta sẽ tìm được câu trả lời cho riêng mình khi nghe truyền thuyết bánh chưng bánh giầy. Đó là một câu chuyện thú vị và sâu sắc.

Chuyện kể rằng Hùng Vương khi về già muốn có người nối ngôi, ông hy vọng rằng người nối ngôi phải là người có đức, có tài và hợp ý mình, nên truyền cho các con làm cỗ lễ Tiên Vương, ai làm vừa ý nhà vua thì được truyền ngôi. Khác với những người anh của mình, ai cũng sắm sửa cao lương mĩ vị, của ngon vật lạ thì Lang Liêu, người em út trong nhà vốn chịu nhiều thiệt thòi vì mồ côi mẹ từ nhỏ nên rất buồn, không biết làm gì để tế lễ Tiên Vương. Là người quen công việc đồng áng lại cần cù chịu khó nên trong nhà lúa gạo là nhiều chứ của ngon vật hiếm thì chẳng có gì, tìm đâu ra của quý trên rừng dưới biển.

Nhờ ăn ở hiền lành lại tốt bụng, Lang Liêu được một vị thần giúp đỡ và báo mộng trong giấc mơ của mình: “Trong trời đất không có thứ gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có hạt gạo mới nuôi sống con người và ăn không bao giờ chán. Các thứ khác tuy ngon nhưng hiếm, mà con người không làm ra được. Còn lúa gạo thì tự tay ta trồng lấy, trồng nhiều thì được nhiều. Hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên Vương”. Là người hiểu biết, ham học hỏi và sáng tạo, trân quý sức lao động và giá trị hạt gạo nên chàng đã lấy gạo làm bánh, lựa chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, tròn mẩy với nhân đậu xanh và thịt lợn, lá dong làm vỏ gói bánh và nấu nhừ. Sau đó đem giã gạo nếp, nặn thành hình tròn.

Những nguyên liệu làm bánh thật đơn giản, gần gũi với nhân dân, là những thứ sẵn có nhưng mang giá trị to lớn. Hạt gạo được làm nên bởi những giọt mồ hôi mặn chát, một nắng hai sương của người lao động, hạt gạo ấy là hạt ngọc của trời, là sự kết tinh những gì tinh túy nhất, trong sạch nhất của thiên nhiên và bàn tay người lao động. Hai thứ bánh ấy thật thiêng liêng và cao quý, cuối cùng Lang Liêu cũng nhận cho mình phần thưởng xứng đáng nhất khi món vật tế lễ của chàng được vua cha và quần thần tấm tắc khen ngợi.

Đó là mâm cỗ đặc biệt nhất, đẹp nhất, mang ý nghĩa tốt đẹp nhất và duy nhất trong nhiều mâm cỗ của các Lang. Bánh hình tròn tượng trưng cho trời, bánh hình vuông tượng trưng cho đất. Thịt mỡ, đậu xanh, lá dong tượng trưng cho cây cỏ, muông thú muôn loài. Thiên nhiên, đất, trời được gói ghém trong những chiếc bánh xinh đẹp ấy, tượng trưng cho một đất nước ấm no, đủ đầy, yên bình, nơi ấy còn người sống chan hoà với thiên nhiên, cùng nhau vui vẻ đoàn kết, đùm bọc, giúp đỡ nhau. Lang Liêu quả thực là người xứng đáng nhất để nối ngôi vua với ý chí, nghị lực, đức tính tốt đẹp và tấm lòng hồn hậu, chân thành.

Bằng việc xây dựng chi tiết kì ảo, truyện Bánh chưng, bánh giầy đã tạo nên một cốt truyện lôi cuốn và hấp dẫn. Chắc bây giờ các bạn cũng đã biết rõ hơn về nguồn gốc của hai loại bánh này rồi nhỉ?. Đây là thứ bánh tiêu biểu cho ngày tết cổ truyền trên đất nước ta. Ngoài ra, nó còn là sự biết ơn của người lao động đối với trời đất, tổ tiên ta ngày trước. Đó cũng chứng minh cho thành quả lớn lao của nền nông nghiệp lúa nước trên đất nước ta. Ngoài ra, truyện còn để lại cho ta bài học về giá trị sống cao đẹp, những cao lương mĩ vị hãy của cải quý hiếm cũng không thể sánh được với tấm lòng con người. Cái đẹp nhất là cái gần gũi nhất, đơn giản nhất. Cái quý giá nhất phải xuất phát từ sức lao động và tấm lòng của người làm ra nó.

Thịt mỡ dưa hành câu đối tết

Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh"

Chiếc bánh chưng, bánh giày mang trong mình cả nền văn minh lúa nước, là những gì đẹp đẽ nhất mà thiên nhiên dành tặng. Chính vì lẽ đó, chúng trở thành linh hồn của tết Việt, mang đậm dấu ấn văn hoá con người Việt Nam.