Lao xao
I. Đôi nét về tác giả: tác giả Duy Khán
- Duy Khán (1934-1993), quê ở huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
- Tác phẩm tiêu biểu: Tuổi thơ im lặng (tập hồi kí tự truyện của tác giả) – thông qua những hồi tưởng và kỉ niệm tuổi thơ, tác giả đã dựng lại những nét chấm phá về cuộc sống làng quê thuở trước trong bức tranh thiên nhiên, sinh hoạt, đồ vật và hình ảnh con người
II. Đôi nét về tác phẩm: Lao xao
1. Thể loại:
2. Xuất xứ văn bản Lao xao
Bài “Lao xao” được trích từ tác phẩm “Tuổi thơ im lặng” của Duy Khán, tác phẩm được giải thưởng Hội Nhà văn năm 19873. Phương thức biểu đạt
3. Tóm tắt
Bài tóm tắt số 1
Trời chớm hè, cây cối um tùm, ngát hương hoa, bướm ong rộn rịp xôn xao. Thế giới các loài chim ở đồng quê hiện lên thật sinh động dưới ngòi bút của tác giả. Bồ các to mồm. Chị Điệp nhanh nhảu. Rồi sáu sậu, sáo đen, tu hú, chim ngói, chim nhạn hiền lành, gần gũi với con người. Bìm bịp suốt ngày đêm rúc trong bụi cây, diều hâu hung ác bắt gà con, quạ lia lia láu láu dòm chuồng lợn, chèo bẻo kẻ cắp nhưng hung hăng, thích đánh nhau, đánh cả diều hâu lẫn quạ. Chim cắt hung dữ, không một loài chim nào trị được thế mà bị chèo bẻo đánh cho ngắc ngoải.
Bài tóm tắt số 2
Bài văn tập trung miêu tả một số loài chim thường thấy ở làng quê bằng cái nhìn hồn nhiên của tuổi thơ được thấm nhuần cảm quan văn hóa dân gian. Qua đó đem đến những hiểu biết thú vị về đặc điểm, đặc tính, hình dáng của một số loài chim; từ đó giúp cho mỗi chúng ta yêu mến hơn vả có tinh thần trân trọng giữ gìn vẻ đẹp của thiên nhiên, của cảnh sắc quê hương.Bài tóm tắt số 3
Bằng sự quan sát tinh tế, thấm đậm chất trẻ thơ, tác giả đã vẽ nên một bức tranh làng quê kì thú với bao âm thanh “lao xao” của loài chim. Phải có sự gắn bỏ máu thịt với quê hương, có tình yêu thiên nhiên say đắm thì mới vè được một bức tranh đẹp và có hồn như thế.
Bài tóm tắt số 4.
Bài văn không chỉ đem lại cho người đọc một số hiểu biết về loài chim một cách sinh động, hấp dẫn mà nó còn mang đến cho người đọc một cảm nhận thiên nhiên đầy màu sắc văn hóa dân gian về làng quê qua cái nhìn hồn nhiên cua tuổi thơ. Từng loài chim ở đây đều được nhìn nhận theo mối liên hệ với con người, trong cách đánh giá của dân gian và ít nhiều có tính biểu tượng về con người
4. Bố cục(2 phần)
- Phần 1 (từ đầu đến “râm ran”): Cảnh làng quê chớm hè
- Phần 2 (còn lại): Thế giới các loài chim
5. Giá trị nội dung
Bằng sự quan sát tinh tường, vốn hiểu biết phong phú và tình yêu thiên nhiên, quê hương của tác giả bài văn vẽ nên những bức tranh cụ thể, sinh động, nhiều màu sắc về thế giới các loài chim ở đồng quê7. Giá trị nghệ thuật
- Sử dụng dày đặc từ láy
- Nghệ thuật nhân hóa, so sánh
- Miêu tả chi tiết, cụ thể, độc đáo
- Kết hợp nhuần nhuyễn giữa kể và tả
- Chất liệu dân gian
II. Phân tích văn bản
a) Dàn ý
Dàn ý phân tích mẫu số 1
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Duy Khán
- Giới thiệu về văn bản “Lao xao” (xuất xứ, khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật,…)
II. Thân bài
1. Cảnh làng quê chớm hè
- Cây cối um tùm
- Hoa lan nở trắng xóa
- Hoa giẻ từng chùm mảnh dẻ
- Hoa móng rồng bụ bẫm thơm như mùi mít chín
- Ong vàng, ong vò vẽ, ong mật đánh lộn nhau để hút mật hoa
- Bướm hiền lành bỏ chỗ lao xao
→ Nghệ thuật nhân hóa
→ Bức tranh thiên nhiên sinh động, tràn đầy màu sắc
2. Thế giới các loài chim
- Nhóm chim hiền:
+ Chim sáo (sáo đen, sáo sậu): đậu trên lưng trâu mà hót mà mừng được mùa
+ Chim tu hú: báo mùa tu hú chín
+ Chim ngói:
+ Chim nhạn: kêu “chéc chéc”
- Nhóm chim ác:
+ Diều hâu: mũi khoằm, đánh hơi xác chết và gà con rất nhanh. Nó lao như mũi tên xuống, tha được con gà, lao vụt lên mây xanh, vừa lượn vừa ăn
+ Quạ: bắt gà con, ăn trộm trứng, ngó nghiêng ở chuồng lợn
+ Chim cắt: cánh nhọn như mũi dao bầu chọ tiết lợn, khi đánh nhau xỉa bằng cánh, vút đi vụt đến như quỷ
- Chim trị ác: chim chèo bẻo
+ Hình dáng: như những mũi tên đen hình đuôi cá
+ Hành động: lao vào đánh diều hâu túi bụi, vây từ phía đánh quạ, cả đàn lao vào đánh chim cắt để cứu bạn,…
→ Các loài chim được miêu tả chi tiết, cụ thể, sinh động và chính xác. Qua đó, thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả và thái độ của nhân dân đối với mỗi loài chim được nhắc đến
III. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
+ Nội dung: Bằng sự quan sát tinh tường, vốn hiểu biết phong phú và tình yêu thiên nhiên, quê hương của tác giả bài văn vẽ nên những bức tranh cụ thể, sinh động, nhiều màu sắc về thế giới các loài chim ở đồng quê
+ Nghệ thuật: nhân hóa, từ láy, kết hợp giữa kể và tả, chất liệu dân gian,..
- Cảm nhận của bản thân về bài văn: độc đáo, hấp dẫn, hiểu hơn về thế giới loài chim,…
Dàn ý phân tích mẫu số 2
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Duy Khán (những nét tiêu biểu về con người, cuộc đời, đặc điểm sáng tác,...)
- Giới thiệu khái quát về văn bản "Lao xao" (xuất xứ, hoàn cảnh ra đời, khái quát đặc điểm về nội dung và nghệ thuật,...)
2. Thân bài
a. Khung cảnh làng quê Việt Nam vào buổi sáng chớm hè
- Cả khu vườn đang náo nức, rộn rã, hứng khởi để đón chờ một mùa đang tới thật gần.
- Màu sắc:
+ Màu xanh tươi mới của "cây cối um tùm"
+ Màu trắng xóa đến nao lòng của những bông hoa lan
+ Màu vàng của hoa giẻ, hoa móng rồng và của ong bướm.
- Hương thơm: cả làng thơm", mùi thơm ngào ngạt của các loài hoa
- Âm thanh:
+ Tiếng những chú ong đang "đánh lộn nhau"
+ Những chú bướm "bỏ chỗ lao xao"
+ Tiếng của lũ trẻ con trò chuyện
→ Bằng những câu văn ngắn, kết cấu đơn giản cùng biện pháp so sánh, nhân hóa đã đưa người đọc về với thế giới của làng quê với tất cả những gì tinh khôi, bình yên và đẹp đẽ nhất.
b. Câu chuyện độc đáo về thế giới các loài chim
- Loài chim hiền:
+ Chim bồ các với tiếng kêu đặc trưng "các...các...các..."
+ Bồ các, chim ri, sáo sậu, sáo đen, tu hú - chúng đều có quan hệ họ hàng với nhau cả.
+ Chúng đều có ích cho con người, mang đến niềm vui trong cuộc sống của con người - sáo sậu, sáo đen "hót mừng được mùa", tu hú kêu để báo hiệu "mùa tu hú chín"
- Loài chim trung gian: Chim ngói, chim nhạn
- Loài chim ác: Tác giả đặc biệt chú ý tới cách bắt mồi và sự đấu tranh sinh tồn của chúng
+ Diều hâu bay cao và nhanh, chúng có khả năng đánh hơi rất tinh.
+ Quạ đen, quạ khoang thì "lia lia, láu láu" để bắt gà con hoặc ăn trộm trứng.
+ Chim cắt thì đúng như tên gọi của nó, lợi hại với "cánh nhọn như dao bầu chọc tiết lợn"
+ Tác giả dành tình cảm đặc biệt đối với chim chèo bẻo vì dẫu là loài chim ác song chèo bẻo đã thay đổi, chúng thường đi trừng trị loài chim ác.
→ Với cái nhìn độc đáo và tràn đầy cảm xúc, Duy Khán đã đưa đến cho người đọc một câu chuyện độc đáo, thú vị và phong phú về thế giới của những loài chim.
3. Kết bài
Khái quát những nét đặc sắc về giá trị nội dung, nghệ thuật của văn bản "Lao xao" và nêu cảm nghĩ của bản thân.
b) Bài văn phân tích
Phân tích truyện Lao xao – Bài phân tích mẫu số 1
Bài văn Lao xao trích từ tập hồi kí Tuổi thơ im lặng của Duy Khán. Đây là một trong những tác phẩm được dư luận đánh giá cao trong mảng văn học thiếu nhi từ sau năm 1975 trở lại đây. Qua những kỉ niệm thời niên thiếu của mình ở một làng quê thuộc tỉnh Bắc Ninh, tác giả đã dựng lại bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt ở nông thôn thuở trước. Tuy đơn sơ, nghèo khó nhưng vẫn ánh lên vẻ đẹp tươi mát và ấm áp tình người.
Bằng đôi mắt quan sát tinh tường, vốn hiểu biết phong phú và tinh cảm yêu mến quê hương, nhà văn đã vẽ nên bức tranh sinh động, phong phú về thế giới các loài chim.
Sau mấy câu mở đầu miêu tả khung cảnh làng quê lúc chớm vào hè, tác giả tả và kể về một sô" loài chim quen thuộc. Các loài chim được chia theo hai nhóm. Nhóm chim lành gần gũi với con người như bồ các, sáo sậu, tu hú… Nhóm chim ác như diều hâu, quạ, chim cắt… Đặc biệt là chèo bẻo dám đánh lại lũ chim ác. Tác giả đã chọn ở mỗi loài chim một vài nét nổi bật về tiếng kêu, màu sắc, hình dáng, hoặc tập tính của chúng để miêu tả.
Khung cảnh làng quê lúc chớm sang hè với bao màu sắc, hương thơm của các loài hoa quen thuộc cùng với vẻ rộn nhịp, xôn xao, tất bật của bướm, ong:
Giời chớm /lè. Cây cối um tùm. Cả làng thơm. Cây hoa lan nở hoa trắng xóa. Hoa giẻ từng chùm mảnh dẻ. Hoa móng rồng bụ bẫm thơm như mùi mít chín ở góc vườn ông Tuyên. Ong vàng, ong vò vẽ, ong mật đánh lộn nhau để hút mật ở hoa. Chúng đuổi cả bướm. Bướm hiền lành bỏ chỗ lao xao. Từng đàn rủ nhau lặng lẽ bay đi.
Đây là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp thể hiện vốn sống, vốn hiểu biết khá phong phú của tác giả. Thiên nhiên được miêu tả qua cái nhìn trong sáng và trí tưởng tượng phong phú của tuổi thơ. Từng loài chim được miêu tả trong mối quan hệ với con người, theo cách đánh giá của dân gian và ít nhiều mang tính biểu tượng cho từng loại người trong xã hội:
Con tu hú to nhất họ, nó kêu “tu hú” là mùa tu hú chín; không sai một tẹo nào. Cả làng có mỗi cây tu hú ở vườn ông Tấn. Tu hú dỗ ngọn cây tu hú mà kêu. Quả chín đỏ, đầy ụ như mâm xôi gấc. Tiếng tu hú hiếm hoi quá hết, nó bay đi đâu biệt. (Quả tu hú tức là quả vải).
Bầu trời cao rộng tha hồ cho những cánh chim thỏa sức vẫy vùng:
Một đàn chim ngói sạt qua rồi vội vã kéo nhau về hướng mặt trời lặn.
Nhạn tha hồ vùng vẫy tít mây xanh…
Các loài chim dữ như diều hâu, quạ, chim cắt… chủ yếu được miêu tả qua đặc điểm hoạt động của chúng như diều hâu hay bắt gà con, chèo bẻo hay đánh nhau với diều hâu và chim cắt…
Tác giả kể chuyện con sáo nhà bác Vui tọ tọe học nói, chuyện về sự tích con bìm bịp và tả những cuộc giao chiến giữa các loài chim: Ây là những con chèo bèo. Chúng lao vào đánh con diều hâu túi bụi. Lông diều hâu bay vung tứ linh, miệng kêu la “chéc, chéc”, con mồi rời mỏ diều hâu rơi xuống như một quả rụng. Diều hâu biến mất. Con diều hâu được mẻ hú vía lần sau cụ bảo củng không dám đến. Nếu có đến lại là con khác!
Sự kết hợp khéo léo giữa miêu tả, kể chuyện và nhận xét, bình luận, chứng tỏ vốn hiểu biết phong phú và tình cảm yêu mến của tác giả dành cho các loài chim – người bạn thản thiết nhất của tuổi thơ:
Người ta nói chèo bẻo là kẻ cắp. Kẻ cắp hôm nay gặp bà già. Nhưng từ đây tôi lại quý chèo bẻo. Ngày mùa, chúng thức suốt đêm. Mới tờ mờ đất nó đã cất tiếng gọi người: “Chè cheo chét”… Chúng nó trị kẻ ác. Thì ra, người có tội khi trở thành người tốt thì tốt lắm.
Đó là cách nhìn trong mối quan hệ với con người, với công việc nhà nông, là-thiện cảm hoặc ác cảm với từng loài chim theo quan niệm phổ biến lâu đời của dân gian, dôi khi gán cho chúng những tính nết hay phẩm chất như C011 người.
Qua những kỉ niệm thời niên thiếu, nhà văn Duy Khán đã tái hiện bức tranh thiên nhiên và cuộc sông ở nông thôn. Hiện thực cuộc sống đã trở thành chất liệu nghệ thuật dưới ngòi bút tài hoa của nhà vàn. Cố thể nói Duy Khán đã gửi cả tâm hồn mình vào những trang viết mộc mạc, hồn nhiên và đầy chất thơ như thế.
Phân tích truyện Lao xao – Bài phân tích mẫu số 2
Đọc xong đoạn trích Lao Xao (Trích Tuổi thơ im lặng - Duy Khán), gấp sách lại, trước mặt ta vẫn hiện lên một bức tranh làng quê Việt Nam xiết bao thân thương trìu mến, nồng ấm tình người.
Qua những trang viết hồn hậu của Duy Khán, làng quê Việt Nam hiện lên thật bình dị và êm ả. Chính cuộc sống yên ả ở làng quê đã trở thành sức thu hút của loài chim tụ họp về đây, sống chan hoà thân ái với con người.
Mở đầu bài văn là một không gian làng quê lúc chớm hè. Nét đặc đã quyến rũ biết bao là bướm, là ong tìm đến hút mật. Âm thanh lao xao của tiếng ong bay, tiếng ong đánh lộn tranh nhau hút mật đem lại cho người đọc một rung cảm nhè nhẹ và dư vị man mác, khó quên.
Nổi bật trên bức tranh cảnh sắc mùa hè tươi đẹp là hình ảnh của các loài chim. Không biết cơ man nào là chim, tưởng như đây là khoảng trời của riêng chúng.
Đầu tiên là những loài chim quen thuộc với làng quê và cũng rất gắn bó với cuộc sống của con người: chim, lành. Chúng gồm đủ các chủng loài khác nhau: Từ con bồ các đến chim ri, rồi sáo sậu, sáo đen, tu hú, chim ngói, chim nhạn... Chúng họp thành một thế giới hồn hậu, đáng yêu với những âm thanh rộn rã, tưng bừng. Ta giật mình trước tiếng kêu váng tai của chú bồ các "các... các... các..." , nhưng cũng cười thú vị trước sự hốt hoảng "vừa bay vừa kêu cứ như bị ai đuổi đánh" của nó. Ta lâng lâng trước tiếng hót vui tai của chú sáo sậu, sáo đen, và thích thú trước âm thanh "tọc, tọc" học bắt chước tiếng người của con sáo nhà bác Vui. Rồi âm thanh náo động tưng bừng, da diết của tiếng chim tu hú như gọi về, như đánh thức trong ta bao hoài niệm, khiến lòng ta bồi hồi.
Tiếng chim tu hú trong bài văn gợi cho người đọc nhớ tới những mùa vải chín ngọt, gợi nhớ tới cả tiếng chim tu hú trong bài thơ của Bằng Việt.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Hoà vào những âm thanh rộn rã trên những ngọn cây, những đồng lúa, văng vẳng tiếng chao cánh của lũ chim ngói sạt qua, tiếng "chéc, chéc" của mấy chú nhạn vùng vẫy tít tận mây xanh.
Rồi bỗng vang lên mấy tiếng "bìm bịp" của mấy con bìm bịp núp trong bụi cây. Những tiếng kêu thật não lòng. Có lẽ, bao nhiêu nỗi oan ức mà nhân gian gán cho nút không gột rửa được hoá thành nỗi niềm gửi vào cả mấy tiếng kêu u uất, nặng nề dó. Thật tội nghiệp cho con bìm bịp, nó cũng là một giống chim hiền mà suốt ngày đêm cứ phải âm thầm chui rúc trong mấy bụi cây, chẳng dám vui vầy cùng họ hàng nhà chim.
Gắn bó với cuộc sống của con người, những loài chim lành đã được nhà văn nhìn nhận bằng con mắt đầy thiện cảm, và mối thiện cảm ấy của ông truyền rất nhanh vào người đọc, khiến họ thấy gắn bó với các loài chim, với thiên nhiên, với làng quê.
Để tô thêm vào bức tranh thiên nhiên phong phú của làng quê, có hình ảnh của những con diều hâu đáng ghét chỉ biết rình trộm gà, hình ảnh của những con quạ xấu xí đáng khinh với cặp mắt "lia lia, láu láu" dòm ngó vào chuồng lợn, rồi lũ chim cắt ác độc đã xỉa chết bao nhiêu con bồ câu hiền lành. Chúng là những loài chim ác nhưng chúng là một phần của thế giới các loài chim, một phần của sự sống. Mặc dù chúng hiện lên qua cái nhìn đầy ác cảm của nhà văn nhưng thiết nghĩ cũng không thể thiếu được chúng. Bởi thiếu chúng, làm sao có những cảnh tượng vui mắt của trận đánh của lũ Chèo Bẻo trị lại chim ác. Những cảnh tượng ấy làm cho bức tranh sinh hoạt của thế giới các loài chim thêm sống động, hấp dẫn.
Thế giới các loài chim khiến cho cuộc sống thêm hương vị, nồng ấm. "Lao Xao" là một bức tranh thiên nhiên đồng quê muôn màu sắc, một phần của cuộc sống làng quê được cảm nhận bằng một tâm hồn nhạy cảm, và được phác hoạ lại bằng ngòi bút nghệ thuật tinh tế, tài hoa.
Phải gắn bó sâu sắc với làng quê, với thiên nhiên làng quê đến thế nào, phải yêu mến và trân trọng thiên nhiên và cuộc sống làng quê đến nhường nào, Duy Khánh mới có thể viết được những trang văn đặc sắc như thế.
Lao Xao sẽ mãi xao động trong tâm hồn người đọc!
Phân tích truyện Lao xao – Bài phân tích mẫu số 3
Quê hương thanh bình cùng những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ luôn là mảnh đất màu mỡ đối với mỗi nhà văn nhà thơ, để rồi đã có thật nhiều tác phẩm độc đáo và đặc sắc. Một trong số những tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả đó chính là tập hồi kí tự truyện "Tuổi thơ im lặng" của tác giả Duy Khán. Tập hồi kí đã vẽ nên khung cảnh về cuộc sống làng quê yên bình, tuy nghèo khó, cơ cực nhưng giàu sức sống, mang trong mình bản sắc độc đáo. Và có thể nói văn bản "Lao xao" trích từ tập hồi kí đã giúp chúng ta cảm nhận được rõ nét bức tranh thiên nhiên làng quê gần gũi, muôn vàn sắc màu.
Trước hết, văn bản "Lao xao" đã mang đến một bức tranh về khung cảnh làng quê Việt Nam vào một buổi sáng chớm hè. Thời khắc chuyển mùa, bắt đầu một mùa mới luôn là thời điểm mà vạn vật đều có sự đổi thay, khoác lên mình những màu áo mới. Bức tranh thiên nhiên nơi làng quê Việt vào buổi sáng những ngày đầu hè đã được tác giả Duy Khán miêu tả thật chi tiết, cụ thể, sinh động và thật ấn tượng. Dường như, cả khu vườn đang náo nức, rộn rã, hứng khởi để đón chờ một mùa đang tới thật gần với tất cả những gì nó có, từ màu sắc, âm thanh cho đến hương thơm. Đó là gam màu xanh tươi mới của "cây cối um tùm", màu trắng xóa đến nao lòng của những bông hoa lan, màu vàng của hoa giẻ, hoa móng rồng và của ong bướm. Đó còn là hương thơm, "cả làng thơm", mùi thơm ngào ngạt của các loài hoa. Và không dừng lại ở đó, khu vườn còn ngập tràn âm thanh của tiếng những chú ong đang "đánh lộn nhau", những chú bướm "bỏ chỗ lao xao" và tiếng của lũ trẻ con trò chuyện lao xao. Tất cả, tất cả những màu sắc, âm thanh và hương vị ấy đã tạo nên một khung cảnh rất riêng vào buổi sáng chớm hè. Tác giả Duy Khán bằng những câu văn ngắn, kết cấu đơn giản cùng biện pháp so sánh, nhân hóa đã đưa người đọc về với thế giới của làng quê với tất cả những gì tinh khôi, bình yên và đẹp đẽ nhất.
Không dừng lại ở việc miêu tả khung cảnh làng quê vào buổi sáng chớm hè, tác giả Duy Khán còn đưa người đọc đến với thế giới, đến với câu chuyện độc đáo và thú vị về các loài chim. Dưới cái nhìn độc đáo của tác giả, mỗi loài chim đều có một câu chuyện nhỏ, rất riêng và đầy thú vị. Trước hết đó chính là câu chuyện về nhóm chim hiền. Mở đầu đó chính là chim bồ các với tiếng kêu đặc trưng "các...các...các...". Để rồi, chị Điệp cũng nhanh nhảu đọc bài đồng dao về các loại chim. Từ bài đồng dao thú vị ấy, tác giả có dịp giới thiệu rõ hơn về các loài. Bồ các, chim ri, sáo sậu, sáo đen, tu hú - chúng đều có quan hệ họ hàng với nhau cả. Chúng đều rất hiền và không làm hại bao giờ. Và hơn thế nữa, chúng đều có ích cho con người, mang đến niềm vui trong cuộc sống của con người - sáo sậu, sáo đen "hót mừng được mùa", tu hú kêu để báo hiệu "mùa tu hú chín".
Không dừng lại ở giống chim hiền, tác giả còn nhắc đến những loài chim trung gian như chim ngói, chim nhạn. Để rồi, từ đó, đi sâu khám phá thế giới của loài chim ác. Viết về loài chim ác, tác giả đặc biệt chú ý tới cách bắt mồi và sự đấu tranh sinh tồn của chúng, để rồi chúng ta nhận ra, mỗi loài lại có những đặc điểm riêng. Diều hâu bay cao và nhanh, chúng có khả năng đánh hơi rất tinh. Quạ đen, quạ khoang thì "lia lia, láu láu" để bắt gà con hoặc ăn trộm trứng. Chim cắt thì đúng như tên gọi của nó, lợi hại với "cánh nhọn như dao bầu chọc tiết lợn", khi đánh nhau chúng xỉa bằng đôi cánh lợi hại này. Với tác giả, những loài chim này là chim ác bởi chúng hay ăn cắp, ăn trộm và giết hại đến các loài khác. Nhưng, có một loài chim ác mà tác giả lại giành cho nó tình cảm yêu quý, đó chính là chim chèo bẻo bởi lẽ dẫu là loài chim ác song chèo bẻo đã thay đổi, chúng thường đi trừng trị loài chim ác. Dưới cái nhìn của tác giả, chèo bẻo thật dũng cảm và đoàn kết - chèo bẻo "đánh diều hâu túi bụi", "vây tứ phía đánh quạ" và đoàn kết cùng nhau để đánh lại cắt. Có thể thấy, với cái nhìn độc đáo và tràn đầy cảm xúc, Duy Khán đã đưa đến cho người đọc một câu chuyện độc đáo, thú vị và phong phú về thế giới của những loài chim.
Tóm lại, bằng những kí ức tuổi thơ và tình yêu, sự gắn bó với quê hương, tác giả Duy Khán qua văn bản "Lao xao" dã đưa đến cho người đọc những kí ức đẹp đẽ về khung cảnh làng quê Việt và giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới các loài chim vốn phong phú, đa dạng và ngập tràn sắc màu.
Phân tích truyện Lao xao – Bài phân tích mẫu số 4
Bức tranh thiên nhiên làng quê qua "Lao xao" của Duy Khán gợi lên một nước Việt Nam thanh bình, êm dịu. Chính cuộc sống này đã hút các loài chim đến trú ngụ và sống chung với loài người.
Cảnh chớm hè vào một buổi sáng trên làng quê được tác giả mô tả đa dạng, phong phú. Từ sự quyến rũ của bướm, ong tìm mật ngọt đem đến cho người đọc cảm giác thoải mái, mê mệt. Không chỉ dừng lại ở đó, bức tranh còn nổi bật hơn khi có các loài chim góp phần. Đủ các loại chim từ quen thuộc, gần gũi đến lạ, hiền và ác: chim ri, sáo sậu, sáo đen, tu hú, chim ngói, chim nhạn,.... Tiếng kêu, tiếng hót của các loài chim đã tạo nên âm thanh nhộn nhịp phá vỡ nét yên tĩnh vốn có của làng quê. Đưa chúng ta về thời thơ ấu với cảnh cũ ngày xưa, bồi hồi da diết nhớ về những kỉ niệm ở miền quê thân thương.
Chim sáo: đậu trên lưng trâu hót, tọ tọe học nói rồi bay đi ăn mãi đến chiều mới về.
Chim tu hú thì đứng trên ngọn cây mà gọi mùa tu hú chín. Gọi một mùa vải chín ngọt, tiếng kêu thật da diết lòng người.
Những loại chim đặc trưng cho mùa hè cũng được nhắc đến kết hợp các từ lấy: các các, chéc chéc, bịp bịp,... Nghệ thuật nhân hóa cũng được dùng tới: em tu hú đã mang đến cho chúng ta một bức tranh sinh động thế giới loài chim hiền. Tác giả còn sử dụng thêm câu đồng dao quen thuộc. Tác giả còn kể thêm việc bìm bịp ghét sự dối trá, ác độc, gian giảo để nói rõ hơn đặc tính hiền lành của loài chim này.
Đâu đó có tiếng chéc chéc của những chú nhạn vùng vẫy tít tận chân mây.
Ở những ngọn cây, đồng lúa thấp thoáng cánh của lũ chim ngói sạt qua.
Tiếng kêu não lòng của chim bìm bịp núp trong lùm cây như chẳng dám vui vầy cùng họ nhà chim.
Cái nhìn thiện cảm của ông đã được mọi người tiếp nhận nhanh chóng và thấy gần gũi hơn với thiên nhiên, làng quê và hiểu rõ hơn về các loài chim, biết được nỗi khổ cũng như công việc của chúng.
Nhưng cái gì cũng có hai mặt thiện và ác, chánh và tà thì câu chuyện mới trở nên hấp dẫn, lôi cuốn người xem được, không gây nhàm chán. Chính vì thế mà tác giả đã tả thêm một số loại chim ác nữa.
Con diều hâu đáng ghét hay rình trộm gà. Tác giả tả ngoại hình của chúng để ta thấy được sự độc ác của chúng: cái mũi khoằm cứ đánh hơi là xà xuống bắt một chú gà con cho rồi vút lên không trung mà vừa bay vừa ăn được.
Con quạ xấu xí, đáng khinh với cặp mắt lia lia, láu láu dòm ngó vào chuồng lợn, lén lút ăn trộm trứng, bắt gà con.
Lũ chim cắt ác độc đã xỉa xói bao nhiêu con chim bồ câu hiền lành. Chim cắt: nhanh nhẹn, có cái cánh như con dao bầu chọc tiết lợn, khi giao chiến chúng thường thoắt ẩn thoắt hiện.
Chúng ta có thể thấy được từ hình dáng đến tính tình của chúng đều là những loài hung dữ, hung hăng, gây hại. Dù để lại nhiều ác cảm nhưng cuộc sống này cũng không thể thiếu chúng. Nếu không có chúng thì làm sao xuất hiện những loài chim tiêu diệt loài chim ác.
Những cô nàng chèo bẻo, gan dạ chống lại những loài chim ác đó, giống như những mũi tên đen hình đuôi cá. Cheo bẻo đã lao vào đánh diều hâu túi bụi khiến diều hâu phải bỏ con mồi. Vây tứ phía đánh quạ bị rục xương, cả đàn vây vào đánh cắt khiến cho cắt ngấp ngoái.
Tác giả miêu tả cực kì tinh tế về thế giới loài chim vào dịp hè về trên làng quê, đồng ruộng ở Việt Nam và nêu cao sự dũng cảm của chim chèo bẻo.
Với sự trải nghiệm thời thơ ấu, sự nhạy cảm, tinh tế của tác giả đã đưa chúng ta về với thiên nhiên, biết hơn về các loài chim của đất nước. Thể hiện rõ bức tranh nhiều màu sắc quê hương, đậm chất dân gian. Chứng tỏ tác giả rất am hiểu về thiên nhiên làng quê Việt Nam.
Phân tích truyện Lao xao – Bài phân tích mẫu số 5
Đánh giá một bài văn miêu tả nói riêng, một tác phẩm văn học nói chung, có hai quan niệm khác nhau. Quan niệm thứ nhất từ cái nhìn thấy. Còn quan niệm thứ hai: từ cái cảm thấy. Đọc đoạn trích Lao xao, nhiều người cho rằng ý nghĩa của nó là miêu tả loài vật, còn chúng tôi nghĩ: đằng sau thế giới loài vật là một cái gì khác. Cái khác ấy phải chăng là không khí yên ả, thanh bình cố hữu của làng quê người Việt và những triết lí dân gian, quan điểm thẩm mĩ dân gian?
Một bức tranh về không khí yên ả thanh bình của làng quê người Việt. Làng quê người Việt vốn có một không khí yên ả thanh bình cố hữu sau luỹ tre xanh. Ở đó tồn tại một nền văn minh nông nghiệp ngàn đời. Rất ít biên động, rất ít đổi thay đến mức người ta tưởng như sinh ra đất trời vốn thế. Trình độ sản xuất đã không cao, quan hệ giữa con người với nhau lại là quan hệ truyền thống (trong họ, ngoài làng). Đời sống vật chất và tinh thần ấy đã tạo nên một không khí làng quê thuần khiết. Không khí ấy đã biến đổi dần đi trong quá trình đô thị hoá. Và chính từ quá trình ấy, những gì một đi không trở lại mới được nhớ về như một hoài niệm xa xôi. Những ngày ấy, mùa hè là ngày hội của hoa thơm, bướm lượn. Hoa thì đủ các loài: hoa lan, hoa móng rồng, hoa dẻ. Mỗi thứ hoa mỗi sắc, mỗi hương: hoa lan nở trắng, hoa dẻ từng chùm, còn hoa móng rồng thì bụ bẫm và thơm mùi mít chín. Những loài hoa hào phóng ấy đem đến cho quê làng một không gian đặc quánh mùi thơm.
Nó có sức hấp dẫn với cả muôn loài, nhưng trước hết là với ong, với bướm. Cuộc giành giật để phân chia lãnh địa giữa chúng hết sức tự nhiên và chiến thắng bao giờ cũng thuộc về kẻ mạnh. Tính cách giống loài của chúng được nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ: ong vàng, ong vò vẽ, ong mật, chẳng cần biết phải trái ra sao, tất cả đều xông vào đấu lực, còn các cô bướm hiền lành thấm nhuần phương châm xử thế “tránh voi chẳng xấu mặt nào” lặng lẽ bay đi. Nhưng, dù sao đó chỉ là một khúc dạo đầu. Thế giới của loài chim xuất hiện trên bầu trời bằng tiếng kêu dõng dạc của con bồ các. Mỗi loài có một tập tính riêng, cả chim hiền và chim ác. Chim hiền thì thân thiết với nhà nông, gần gũi với con người: sáo sậu, sáo đen đậu trên lưng trâu, riêng con sáo đen nhà bác Vui tọ toẹ học tiếng nói con người, biết tự bay đi kiếm ăn nhưng chiều chiều lại trở về với chủ. Con tu hú là bạn của mùa vải như vị thiên sứ báo tin vui, nó đến và đi bất chợt. Còn chim ác như những nhân vật phản diện trong truyện cổ tích. Chúng không những có hình dáng khó coi mà còn vô cùng hiểm độc. Như con diều mũi khoằm giả vờ bay liệng trên cao như một kẻ vô tâm nhưng khi đánh hơi được con mồi, nó lao như mũi tên xuống đất. Không cao đạo kiểu cách như diều hâu, quạ, dù là quạ đen hay quạ khoang đều là những kẻ phàm ăn, tục uống. Không bắt được gà con,, không ăn trộm được trứng, chẳng một chút nề hà, nó sà ngay vào chuồng lợn, không cần kén cá chọn canh. Nhưng quạ, diều hâu không đáng sợ bằng chim cắt.
Thân nhỏ nhưng bay nhanh, trở thành một thứ hung thần, một loại quỷ đen khủng khiếp, cắt là một nỗi kinh hoàng với một thứ vũ khí lợi hại vô song: cánh nhọn như dao bầu chọc tiết lợn. Ám ảnh đối với trẻ thơ đã đành (bao nhiêu con bồ câu của nhà chú Chàng đã bị chim cắt xỉa chết), mà tất cả loài chim đều chưa ai địch nổi. Như thế là xã hội loài chim dưới con mắt tò mò, ưa khám phá, tìm tòi luôn có vấn đề đặt ra với nó. Phải có một Thạch Sanh, phải có một chàng hiệp sĩ. Nhưng bất ngờ thay, chàng hiệp sĩ ấy vóc dáng mới nhỏ bé làm sao, lại bị nghi oan là kẻ cắp. Tên tội đồ chịu tiếng xấu, nhưng trước bất công đã không thể làm ngơ. Chính nó đã lao vào đánh con diều hâu túi bụi. Chính nó đã tổ chức bủa vây làm cho quạ đổn không còn đường thoát phải “đến chết rũ xương”. Và lần này nữa, trước loài cắt dữ gian manh, những chú chèo bẻo đã dũng cảm lao vào thử sức. Việc mạo hiểm ấy vốn đã ấp ủ từ lâu nhưng chưa có cơ hội ra tay, lần này thì cơ hội kia đã đến, hơn thế lại có sự cổ vũ nhiệt tĩnh của đám khán giả vô tư. Cắt đã bị thua, có lẽ lần đầu tiên chịu thua, như những chiếc máy bay B52 “quay tròn xuống đồng Xóc” mà không biết vì sao. Còn đối với bọn trẻ trong xóm, chiến thắng của chèo bẻo hiển hách như một kì công.
Tính chất vô tư của bức tranh tả cảnh giúp ta hình dung: xã hội làng quê người Việt là một xã hội bằng phẳng, yên ả, thanh bình, cố hữu. Đã bao nhiêu đời như thế, tưởng không thể đổi thay. Không gian mà con người ưu ái dành cho các loài hoa bướm, loài chim là sự tĩnh mịch, êm dềm. Đó là nnững cảnh tượng quen thuộc đến mức cứ tưởng nhắm mắt lại là nó lập tức hiện ra:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không…
(Tố Hữu — Khi con tu hú)
Những quan điểm thẩm mĩ dân gian và triết lí dân gian. Quan điểm thẩm mĩ dân gian trước hết là cái nhìn xã hội loài vật như xã hội loài người, con vật như con người. Khác với loại truyện ngụ ngôn, các con vật ở đây hiện ra như những nhân vật cụ thể và sinh động hết sức khách quan, chứ không để minh hoạ cho một bài học luân lí hay triết lí. Mỗi loài vật có một tính cách riêng. Vì vậy, có những con vật đáng ghét, con vật đáng thương. Nhưng sự đáng ghét hay đáng thương cũng ở nhiều cấp độ. Như ở loài chim ác, loài quạ đen, quạ khoang chẳng hạn: bắt gà con, trộm trứng gà là việc bất lương, nhưng không săn bắt được lại rơi vào thế đường cùng thì cũng có một cái gì thật tội. Còn những con chim hiền lành, nhất là dũng cảm như chèo bẻo mà mang tiếng xấu suốt đời thì ai là kẻ minh oan? Riêng cuộc kịch chiến của gà mẹ với diều hâu, người đọc không khỏi nghĩ đến một tình cảm sâu nặng của con người: tình mẫu tử. Còn triết lí dân gian: đó là bài học về sức mạnh của sự đoàn kết:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Một con chèo bẻo đơn phương độc mã làm sao trị nổi diều hâu, quạ, cắt? Ba lần lập cồng là ba lần chứng thực sức mạnh của bầy đàn (mà con người gọi là đoàn kết). Đối lập với sự đoàn kết là cái cô độc của sự lẻ loi:
Nghèo ăn bắp, họp đông vui
Còn hơn giàu có mồ côi một mình
(Tục ngữ)
Con bìm bịp là tượng trưng cho sự cô đơn, sự lảng tránh xã hội. Suốt ngày, suốt đêm phải chui rúc trong bụi cây, có lẽ đó là sự trừng phạt tinh thần thích đáng nhất, dành cho nó và đối với nó cũng là sự ân hận, giày vò nhất của lương tâm. Bài học “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo” cũng thể hiện sinh động ở đây. Người “ở hiền” là đám gà con, chú bồ câu và cả chim chèo bẻo nữa. Còn cái ác, chính nó lại tự đào hố chôn mình, kẻ “gieo gió phải gặt bão”.
Ngoài quan điểm thẩm mĩ dân gian, triết lí dân gian, còn có các yếu tố của nén văn hoá dân gian. Đó là những bài hát đồng dao (Bồ các là bác chim ri,…), các thành ngữ được sử dụng đúng lúc, đúng nơi (Dây mơ rễ má, kẻ cắp gặp bà già,…), các câu chuyện cổ tích (Sự tích chim bìm bịp, sự tích chim chèo bẻo,…), v.v. Những yếu tố văn hoá dân gian này làm cho bài văn có một không khí nửa hư nửa thực, vừa mới vừa cũ rất hay và đáng được nhớ, được sẻ chia, được đồng tình và trân trọng.