Lượm
I. Đôi nét về tác giả: tác giả Tố Hữu (1920 - 2002)
- Tố Hữu (1920-2002), tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở tỉnh Thừa Thiên – Huế
- Ông vừa là nhà cách mạng vừa là nhà thơ lớn của thơ hiện đại Việt Nam
- Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật
II. Đôi nét về tác phẩm: Lượm
1. Hoàn cảnh sáng tác văn bản Lượm
- Lượm được nhà thơ Tố Hữu viết năm 1949 - trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và in trong tập Việt Bắc.
2. Phương thức biểu đạt
- PTBĐ tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm
3. Tóm tắt
Bài tóm tắt số 1
Bài thơ kể và tả về Lượm bằng lời của người chú. Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ của hai chú cháu ở thành phố Huế trong "ngày Huế đổ máu", sự hy sinh anh dũng của Lượm khi làm nhiệm vụ và hình ảnh sống mãi của Lượm.
Bài tóm tắt số 2
Như mọi lần Lượm nhận bức thư thượng khẩn và không chần chừ, cậu liền ra đi dù trên mặt trận cuộc chiến đang diễn ra, đạn bay vèo vèo…
Lượm phải vượt qua một cánh đồng lúa đang chín. Bỗng một tia chớp lóe lên, Lượm đã bị trúng đạn, ngã xuống giữa đồng, dường như trên môi vẫn đọng lại nụ cười thanh thản.
Lượm đã hi sinh, nằm trên thảm lúa vàng, hai tay nắm chặt mấy bông lúa đang chín, hương lúa còn bay ngào ngạt quanh thân mình. Hình ảnh hi sinh anh dũng ấy còn mãi trong lòng chúng ta
Bài tóm tắt số 3
Bài thơ ca ngợi một cậu bé tham gia kháng chiến, say mê làm việc, trước khó khăn hiểm nguy em vẫn hồn nhiên vui vẻ.
Em đã anh dũng hi sinh trên cánh đồng lúa khi mang thư thượng khẩn ra ngoài mặt trận. Bài thơ đọng lại trong người đọc tình cảm yêu thương, cảm phục với em Lượm.
Cuối bài, hai khổ thơ như nhắc lại hình ảnh vui tươi, hồn nhiên của Lượm ở khổ thơ đầu, nhằm tái hiện trong người đọc một chú bé Lượm còn sống mãi.
Lượm - một con người nhỏ bé - đã hi sinh nhưng cái chết của em có ý nghĩa to lớn biết bao! Bài thơ có sức truyền cảm mạnh mẽ, làm xúc động lòng người bởi tinh thần yêu nước, say mê kháng chiến của một em bé liên lạc ở cái độ tuổi còn trẻ măng, hồn nhiên, vui tươi như con chim chích nhảy trên đường vàng.
Hình ảnh Lượm ngã xuống trên đồng lúa khi tay vẫn còn nắm chặt bông lúa cho thấy Lượm nói riêng và con người nói chung vẫn còn sống mãi với quê hương.
Bài tóm tắt số 4.
Lượm là một chú bé liên lạc nhỏ tuổi nhưng dũng cảm, kiên cường và rất yêu đời. Chú đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong những lần đi thực hiện nhiệm vụ. Tuy dũng cảm cảm, là thế, kiên cường là thế nhưng một tai họa đã ập đến trong một lần chú đi liên lạc trên con đường vắng vẻ và đã hy sinh một cách anh dũng. Mặc dù, Lượm đã đi xa nhưng hình ảnh và tấm lòng anh dũng, kiên cường của cậu sẽ mãi mãi không bao giờ phai trong tâm hồn người Việt.
Bài tóm tắt số 5
Trong không khí tang thương và chết chóc của những ngày đổ máu ở Huế, người chú tình cờ gặp cháu. Qua hình ảnh, cử chỉ, lời nói của Lượm ta hình dung ra một chú bé liên lạc nhỏ tuổi, dễ thương lạc quan trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Sau đó, người chú nghe tin Lượm đã hi sinh. Chú bé đã bình tĩnh là công việc thường ngày là chuyển những bức thư quan trọng trên chiến tường ác liệt. Chú bé bị bắn trên cánh đồng lúa thơm mùi sữa mà bàn tay cháu vẫn nắm chặt những bông lúa.
4. Bố cục(3 phần)
- Phần 1 (5 khổ thơ đầu): Cuộc gặp gỡ của hai chú cháu
- Phần 2 (7 khổ thơ tiếp theo): Sự hi sinh anh dũng của Lượm
- Phần 3 (còn lại): Hình ảnh Lượm sống mãi cùng với đất nước
5. Giá trị nội dung
Bài thơ khắc họa hình ảnh chú bé liên lạc Lượm hồn nhiên, vui tươi, hăng hái, dũng cảm. Lượm đã hi sinh nhưng hình ảnh của em còn mãi với quê hương, đất nước và trong lòng mọi người
6. Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ bốn chữ
- Sử dụng từ láy có giá trị gợi hình và giàu âm điệu
- Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật
- Kết hợp nhiều phương thức biểu đạt: miêu tảm, tự sự, biểu cảm
II. Phân tích văn bản
a) Dàn ý
Dàn ý phân tích mẫu số 1
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Tố Hữu
- Giới thiệu về bài thơ “Lượm” (hoàn cảnh sáng tác, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,…)
II. Thân bài
1. Cuộc gặp gỡ giữa hai chú cháu
- Hoàn cảnh gặp gỡ: ngày Huế đổ máu ở Hàng Bè
- Hình ảnh Lượm trong lần gặp gỡ đầu tiên:
+ Hình dáng: bé loắt choắt
+ Trang phục: cái xắc xinh xinh, ca lô đội lệch
+ Cử chỉ: nhanh nhẹn, hồn nhiên, yêu đời (thoăn thoắt, nghênh nghênh, huýt sáo vang, nhảy trên đường vàng…)
+ Lời nói: tự nhiên, chân thật (Cháu đi liên lạc…Thích hơn ở nhà)
⇒ Từ láy cùng phép so sánh gợi lên hình ảnh chú bé liên lạc nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, hồn nhiên
2. Sự hi sinh anh dũng của Lượm trên đường làm nhiệm vụ
- Hoàn cảnh: khó khăn, nguy hiểm – “đạn bay vèo vèo”
- Hình ảnh của Lượm: dũng cảm, nhanh nhẹn, hăng hái làm nhiệm vụ, không sợ khó khăn, nguy hiểm – “vụt qua mặt trận … sợ chi hiểm nghèo”
- Tư thế của Lượm lúc hi sinh:
+ Một dòng máu tươi
+ Nằm trên lúa, tay nắm chặt bông, hồn bay giữa đồng
→ Dù hồn đã lìa khỏi xác nhưng vẫn hòa quyện vào đồng lúa quê hương. Hình ảnh miêu tả vừa hiện thực vừa lãng mạn
→ Xót thương, cảm phục
3. Hình ảnh Lượm sống mãi cùng đất nước
- “Lượm ơi còn không?” bộc lộ thái độ ngỡ ngàng, đau xót như không muốn tin vào sự thật đang diễn ra
- Câu hỏi tu từ cùng nghệ thuật lặp, khẳng định Lượm đã hi sinh nhưng hình ảnh của Lượm thì vẫn còn mãi trong tâm trí của mọi người, sống mãi cùng đất nước
III. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:
+ Nội dung: Bài thơ khắc họa hình ảnh chú bé liên lạc Lượm hồn nhiên, vui tươi, hăng hái, dũng cảm. Lượm đã hi sinh nhưng hình ảnh của em còn mãi với quê hương, đất nước và trong lòng mọi người
+ Nghệ thuật: thể thơ bốn chữ, kết hợp nhiều phương thức biểu đạt, sử dụng từ láy,…
- Cảm nhận của em về Lượm: cảm phục, quý mếm,…
Dàn ý phân tích mẫu số 2
1. Phần mở bài:
- Một trong những bài thơ hay viết về đề tài thiếu nhi làm liên lạc chính là bài Lượm của nhà thơ Tố Hữu. Tác giả sáng tác bài thơ này vào năm 1949, trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Bài thơ đã để lại trong em những ấn tượng sâu sắc. Đặc biệt, hình ảnh nhân vật Lượm đã làm rung cảm tâm hồn em bởi sự hồn nhiên, ngây thơ và sự hi sinh anh dũng của Lượm trong một lần chuyển thư “thượng khẩn”.
2. Phần thân bài:
a. Em yêu thích Lượm trước hết vì Lượm là cậu bé hồn nhiên, ngây thơ và ngộ nghĩnh.
- Lượm có dáng người bé nhỏ “loắt choắt”, chiếc mũ ca lô luôn đội lệch trên đầu. Bé nhỏ nhưng Lượm thật nhanh nhẹn và hoạt bát. Cụm từ “cái chân thoăn thoắt” đã phần nào nói lên điều đó.
- Lượm hiện lên trước mắt em thật ngộ nghĩnh và đáng yêu:
“ Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh.
Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích Nhảy trên đường vàng.”
- Một loạt từ láy “loắt choắt”, “xinh xinh” ''thoăn thoắt”, “nghênh nghênh”cộng với điệp từ “cái” có giá trị gợi tả hết sức đặc sắc. Nó có tác dụng tạo nên bức chân dung nhỏ nhắn mà nhanh nhẹn, hoạt bát rất đáng yêu của người liên lạc nhỏ.
- Sự hồn nhiên, ngây thơ của Lượm còn được thế hiện qua niềm vui khi bản thân được làm liên lạc. Lời đối thoại của Lượm với tác giả đã giúp ta khẳng định được Lượm rất vui sướng khi được trở thành người chiến sĩ nhỏ:
“ Cháu đi liên lạc Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà
Cháu cười híp mí Má đỏ bồ quân
Thôi chào đồng chí Cháu đi xa dần.”
- Bằng những từ trực tiếp miêu tả cảm xúc “vui”, “thích”, “cười”, "má đỏ”..., một lần nữa, tác giả khẳng định việc được tham gia chiến đấu chống kẻ thù bảo vệ đất nước là niềm vui của thế hệ trẻ Việt Nam.
b. Em yêu thích Lượm vì Lượm là người có tinh thần dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì nhiệm vụ được giao
- Lượm rất dũng cảm trong khi làm nhiệm vụ:
“ Vụt qua mặt trận Dạn bay vèo vèo
Thư đều Thượng khẩn Sợ chi hiểm nghèo
Giữa làn đạn giặc bay vèo vèo
Lượm dũng cảm vượt qua mặt trận.”
- Để thư “Thượng khẩn” nhanh tới tay người nhận, Lượm đâu quản hiểm nguy. - Từ “sợ chi” mang nghĩa khẳng định ý chí chiến đấu của người liên lạc nhỏ.
- Đẹp biết bao hình ảnh chiếc mũ ca lô nhấp nhô trên cánh đồng lúa đang làm đòng:
- Đường quê vắng vẻ Lúa trỗ đòng đòng Ca lô chú bé Nhấp nhô trên đồng.
- Nhưng rồi, Lượm đã ngã xuống trên cánh đồng quê khi đang làm nhiệm vụ đưa thư “Thượng khẩn”:
- Bỗng lòe chớp đỏ Thôi rồi, Lượm ơi! Chú đồng chí nhỏ Một dòng mẫu tươi
- Lời thơ như nghẹn ngào vì đau đớn trước sự hi sinh của Lượm. Lượm ngã xuống nhưng hồn Lượm vẫn bay giữa đồng lúa thơm ngạt ngào mùi sữa:
- Cháu nằm trên lúa Tay nắm chặt bông Lúa thơm mủi sữa Hồn bay giữa đồng.
- Đây là khổ thơ hay nhất nói về sự hi sinh của những người chiến sĩ. Hương thơm của cánh đồng lúa đang bao bọc, chở che hồn người chiến sĩ tuổi thiếu niên. Không gian nhẹ nhàng mà thiêng liêng bởi có cái thoáng đãng của cánh đồng quê, có vị thơm ngạt ngào của mùi sữa khi lúa trỗ đòng... Tất cả giang rộng vòng tay đón Lượm trở về với đất mẹ.
3. Phần kết bài
- Với nghệ thuật miêu tả nhân vật kết hợp với kể và biểu hiện cảm xúc, tác giả đã khắc họa thành công nhân vật Lượm. Lượm là người hồn nhiên, ngây thơ nhưng rất dũng cảm. Lượm đã hi sinh anh đũng trong khi làm liên lạc. Anh chính là tấm gương sáng ngời cho tất cả chúng em noi theo.
- Tác phẩm đã khép lại nhưng hình ảnh Lượm mãi mãi lưu giữ trong trái tím em. Em yêu quý và cảm phục người thiếu niên anh hùng đã vui vẻ hi sinh vì quê hương đất nước.
b) Bài văn phân tích
Phân tích truyện Lượm – Bài phân tích mẫu số 1
Tố Hữu đã xây dựng hình ảnh nhân vật Lượm thật đẹp. Đó là một chàng thiếu niên, hồn nhiên vô tư, nhưng vô cùng dũng cảm trước bom đạn của kẻ thù. Vì lí tưởng chiến đấu để bảo vệ đất nước, Lượm đã vượt qua hết nhũng làn bom, bão đạn để góp sức của mình cho công cuộc cứu nước của toàn dân.
Hình tượng nhân vật Lượm, xuất hiện khiến người đọc hình dung như một người có thật, từ trang phục đến dáng đi, cử chỉ, lời nói.
" Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh "
Qua miêu tả của tác giả, ta nhận thấy nét hồn nhiên vui tươi trong con người của Lượm, đúng với độ tuổi của em. Nhưng điều bất bình thường ở đây là, em còn bé nhưng đã làm công việc phi thường mà những người lớn chưa chắc đã làm được. Lượm đã coi việc đi liên lạc nguy hiểm khó khăn kí như một chuyến đi chơi, thật vui và thích thú.
" - Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà!"
Có lẽ niềm vui lớn nhất cần được chia sẻ lúc này là niềm vui của con cá tung tăng được từ suối, ra sông, ra biển. Lượm đã là con của đất nước "con của vạn nhà" chứ không chỉ hạn hẹp là con của một nhà. Lời thơ không phân tích lí giải mà đơn giản chỉ là sự giãi bày của Lượm, cách dẫn dắt như vậy cũng chính là một dấu hiệu về sự hồn nhiên, hợp với tuổi nhỏ. Cũng như tâm lí thích làm người lớn, tập làm người lớn mà biểu hiện cái háo hức bên trong không giấu được của mình"
" Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
- Thôi chào đồng chí!
Cháu đi xa dần… "
Lượm đã dùng từ đồng chí để nói với người đáng tuổi chú mình, vừa có ý nghĩa chứng tỏ Lượm cũng đang làm nhiệm vụ của một chiến sĩ cách mạng, và người đồng chí kia chỉ là bạn trong chiến đấu của mình, hai từ đồng chí nghe mà náo nức, xôn xao. Đó là ngôn ngữ mà cũng là tiếng reo vang khi người ta có thể giã từ tuổi thơ để bước vào đội ngũ. Một thế giới mới lạ mở ra, cho dù dấu vết của tuổi thơ còn đó (cười híp mí, má đỏ bồ quân). Với nhà thơ, những kỉ niệm ấy làm sao có thể dễ dàng quên, quên đi lớp thiếu niên của nước Việt Nam độc lập, quên đi đứa cháu thật đáng tự hào và cũng rất đáng yêu của mình như thế? Trong hành trang của nhà thơ, hình tượng bé Lượm là một sự cổ vũ lớn, có một vị trí không gì thay thế được.
Sự hồn nhiên nhí nhảnh, lòng dũng cảm kiên cường của em cũng không tránh khỏi bom đạn của kẻ thù. Thì ra, sự ác liệt của chiến tranh đã không loại trừ một ai kể cả những em nhỏ chưa kịp thành người lớn. Lượm tự nguyện bước vào cuộc đời chiến đấu và chấp nhận hi sinh, dũng cảm hi sinh. Hình ảnh ấy đã trở thành một tượng đài bất tử. Đoạn thơ nói về cái chết anh dũng của em bắt đầu từ câu: "Ra thế - Lượm ơi!". Một câu thơ tưởng như đơn giản vật thôi mà hội tủ đủ ba tính chất: nhất quán, cao trào và đột biến. Nói nhất quán vì đây là một bài thơ kết hợp hai yếu tố trữ tình và tự sự. Tự sự là mạch nổi, còn mạch chìm là cảm xúc của nhà thơ. Nói cao trào vì đây là những nổi niềm của nhà thơ dâng lên cực điểm. Còn nói đột biến vì dòng cảm xúc từ yêu thương, phấn khởi đã thành đột ngột, hụt hẫng, đau đớn, rụng rời. Câu thơ tự nó vỡ ra thành hai nhịp, tự nó cắt rời với những khoảng trống xót xa. "Ra thế" thuộc về câu chuyện chú bé hi sinh, còn "Lượm ơi!" là tiếng khóc thầm thì bật lên thành nức nở?. "Ra thế" thuộc về khách quan, còn "Lượm ơi!" thuộc thuộc về chủ quan, về nỗi đau của trái tim nhà thơ như viên đạn bắn vào. Từ cảm xúc tức thời ấy mà câu chuyện trong cái kênh "tin nhà" kia được kể lại, tất nhiên là trong tưởng tượng mà nhà thơ có thế hình dung:
" Một hôm nào đó
Như bao hôm nào
Chú đồng chí nhỏ
Bỏ thư vào bao… "
Chính với ý thức ấy mà nhà thơ thay đổi đại từ xưng gọi, những đại từ đơn: cháu, chú bé, Lượm... bằng một đại từ ghép: chú đồng chí nhỏ. Cách gọi tên trang trọng này tương ứng với hành động, với sự kiện hi sinh. Vị trí của người kể chuyện khi hòa nhập vào nhân vật được kể, khi thì tách ra với cự li cần có để đảm bảo tính khách quan của việc trần thuật:
" Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vào
Thư đề "Thượng khẩn"
Sợ chi hiểm nghèo ".
Biết trước sự ra đi lúc này là rất nguy hiểm, nhưng Lượm vẫn vô tư, hiên ngang bất khuất trước bom đạn của kẻ thù. Lượm đã đối mặt với cái chết mà Lượm không hề nghĩ đến nó mặc dù nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vì yêu cầu của nhiệm vụ, Lượm đã vượt lên tất cả, đó là trường hợp tác giả đã hóa thân vào nhân vật của mình. Còn khổ thơ sau đó, ông trở lại vị trí của người quan sát:
“ Đường quê vắng vẻ
Lúa trổ đòng đòng
Ca lô chú bé
Nhấp nhô trên đồng. ”
Chính chất biểu cảm trữ tình trong thơ tự sự tỏa ra theo một cách riêng từ phía ấy. Và chính nó làm cho người theo dõi lo lắng đến thắt lòng. Kẻ thù (đồng nghĩa với cái chết) thì tàn bạo, hiểm độc mà chú bé của chúng ta trong trẻo, thơ ngây như một tiên đồng. Cái hồn nhiên thần thánh của nhân vật là ở chỗ: trước họng súng của kẻ thù, em vẫn không biết giấu mình, cứ lồ lộ, không hề quan tâm đến hiểm họa bao vây. Bởi vậy. khi cái chết ập đến. câu thơ như có gì vỡ ra thật đau đớn, nghẹn ngào. Giọng trần thuật không còn ở dạng thông thường. Thay thế cho nó là một tiếng kêu thảng thốt cất lên. Tâm trạng của nhà thơ qua câu: "Thôi rồi! Lượm ơi!" chẳng những như người bước hụt mà còn có gì như bâng khuâng nửa mê, nửa tỉnh. Cảm giác không tin là có thật, vì bé Lượm, vì chú tiên đồng làm sao có thể chết? Nhưng thực sự đau xót "Một dòng máu tươi" lại không thể không tin. Chí có điều kẻ thù cướp đi mạng sống mà không giết được cái thanh thản, hồn nhiên của một tâm hồn thơm mùi đồng quê gặt hái.
Đoạn thơ thứ ba của bài bắt đầu bằng một câu thơ đặt biệt: "Lượm ơi, còn không". Đó là lời gọi, lòng tiếc thương và khâm phục trước sự hi sinh của Lượm, Lượm không bao giờ mất đi trong niềm mến yêu, nhớ tiếc. Lượm vẫn còn sống trong lòng đồng chí, đồng bào. Cấu trúc trùng điệp (hai khổ thơ kết lặp lại hai khổ thơ đầu của bài thơ) như một âm vang bất tử. Nó vừa là câu hỏi, vừa là những hồi âm. Sự hô ứng trong bài thơ này dễ tạo nên ở người đọc sự tri âm, đồng điệu.
Về nghệ thuật bài thơ, Tố Hữu đã bắc được một cái cầu nối với bạn đọc nhỉ tuổi bằng thể thơ bốn chứ thật trong trẻo, hồn nhiên như bà kể cho cháu, mẹ kể cho con. Cách kể cũng không một chiều, đơn điệu. Tuy vẫn sử dụng cấu trúc đường thẳng, lấy trục thời gian làm điểm tựa nhưng khi trực tiếp (đoạn một), lúc gián tiếp (đoạn hai), kết hợp giữa miêu tả (đoạn một, đoạn hai ) với độc thoại (đoạn ba). Tính sinh động của bài thơ còn thể hiện ở sự ngắt nhịp như những nốt lặng trên dòng chảy tâm tình. Những khổ thơ đặc biệt như "Ra thế - lượm ơi!" hoặc "Lượm ơi, còn không?" là những cơ hội giao tiếp (giữa nhà thơ với bạn đọc, giữa nhà thơ với nhân vật), cũng là cơ hội mà tác giả bộc lộ tâm tình. Một dụng ý không thể không nói là cơ hội mà tác giả bộc lộ tâm tình. Một dụng ý không thể không nói là nhà thơ đặt nhân vật anh hùng nhỏ tuổi vào bối cảnh thiên nhiên, một thiên nhiên thuần phác, trẻ trung, ngọt ngào rất quen thuộc. Với Lượm, thiên nhiên ấy như một thứ khí trời. Về với nó như cá được về với nước. Sự quấn quýt giữa Lượm với cánh đồng quê phảng phất một tình mẫu tử thân thiết lạ lùng, có một cái gì thật thanh khiết bản năng. Đó là nơi ra đi (đi chiến đấu), cũng là bờ bến trở về (lúc hi sinh):
" Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng… "
Hình ảnh Lượm trong thơ Tố Hữu thật đáng tự hào. Lượm đã cho kẻ thù thấy được trong cuộc kháng chiến ác liệt của dân tộc, toàn thể dân tộc ta đều đứng lên chiến đấu, những người nhỏ tuổi cũng có thể góp phần làm nên chiến thắng của dân tộc. Thật đáng tự hào biết bao với những người con dũng cảm ấy. Thế hệ trẻ chúng ta được sống trong một xã hội hòa bình, xã hội mà cha ông ta đã đánh đổi bằng xương máu để có được chúng ta phải sống sao cho xứng đáng với công lao đó.
Phân tích truyện Lượm – Bài phân tích mẫu số 2
Bài thơ được viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Đây là nhưng giai đoạn cách mạng gặp nhiều khó khăn, vì tình yêu quê hương đất nước cậu đã xin theo người chú của mình để làm nhiệm vụ cao cả đó cho Tổ Quốc.
Với một vóc dáng nhỏ nhắn nhưng cậu bé rất linh hoạt rất nhanh, Với dáng đi, cử chỉ lời nói của mình đã được tác giả miêu tả một cách rất khái quát hình ảnh chú giao liên yêu đời ấy.
“ Chú bé loắt choắt,
Cái xắc xinh xinh,
Cái chân thoăn thoắt,
Cái đầu nghênh nghênh, ”
Ở độ tuổi mười, mười một đó là độ tuổi còn đi học còn trong vòng tay chăm sóc của gia đình nhưng cậu bé không vậy mà đã đảm nhiệm một công việc hết sức khó khăn nguy hiểm mà người lớn cũng không thể nào làm được. Và trong tư tưởng của cậu thì đi làm nhiệm vụ như một chiến đi chơi mà thôi. Với một bộ đồ của đội viên với đầy vết bẩn của bom đạn, bụi đường nhưng trong túi cậu lúc nào cũng đầy những thư từ của các chiến sĩ để liên lạc với nhau. Đặc biệt cậu có một đôi mắt to tròn, khi cười đôi mắt của cậu híp lại càng thể hiện rõ sự yêu đời, hồn nhiên vo tư của cậu hơn. Cho thấy là một cậu bé yêu quê hương đất nước, khi thực hiện nhiệm vụ của mình cậu luôn là một người yêu đời yêu thiên nhiên.
" Cháu đi liên lạc,
Vui lắm chú à.
Ở đồn Mang Cá,
Thích hơn ở nhà! "
Những thú vui thích được vui chơi đi đây đi đó tất cả được thể hiện qua những cuộc nói chuyện với chú. Dường như cậu chỉ muốn được đi qua núi rừng, qua sông suối chứ cậu không muốn được ngồi yên một chỗ. Chi tiết này cho ta thấy được cậu là một người rất ham chơi rất thích những cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Nhưng không vì ham chơi mà quên nhiệm vu của mình đó la mang tin tức đến cho cách mạng.
“ Cháu cười híp mí,
Má đỏ bồ quân:
- " Thôi, chào đồng chí! "
Cháu đi xa dần… ”
Với những hình ảnh rất đẹp, tác giả đã khắc họa hình ảnh cậu thanh niên giao liên rất đẹp và đầy nhưng mơ ước. Sự hồn nhiên, vô tư trẻ thơ của em cũng không thể nào tránh khỏi sự tra tấn sự truy đuổi của kẻ thù. Không chỉ người lớn mà các em nhỏ cũng không thể nào tránh khỏi những ác liệt của chiến tranh.
“ Một hôm nào đó,
Như bao hôm nào,
Chú đồng chí nhỏ,
Bỏ thư vào bao,
Vụt qua mặt trận,
Đạn bay vèo vèo,
Thư đề " Thượng khẩn ",
Sợ chi hiểm nghèo! ”
Dù sự truy đuổi của kẻ thù thế nào thì cậu bé vẫn không ngại nguy hiểm mà vẫn làm nhiệm vụ như bình thường. Biết là sự ra đi giao lien lần này dù gặp nhiều nguy hiểm nhưng cậu vẫn không ngại mà vẫn đi. Với sự hiên ngang bất khuất đó cậu đã đối diện với một cái chết vô cũng nghiệt ngã giũa một cánh đồng.
“ Cháu nằm trên lúa,
Tay nắm chặt bông,
Lúa thơm mùi sữa,
Hồn bay giữa đồng.”
Cái chết của cậu bé đã được tác giả khái quát giũa một cánh đồng đầy mùi sữa cho thấy cậu bé còn trong độ tuổi vui chơi không được ra đi như vậy. Bên cạnh đó là sự ra đi bên thiên nhiên tâm hồn cậu đã hòa lẫn vào thiên nhiên. Nói lên hình ảnh cậu bé là tiếng thơm cho đời, là một tâm hòn trong sáng.
“ Lượm ơi, còn không ? ”
Câu thơ này thể hiện sự đau buồn luyến tiếc của tác giả dành cho cậu bé. Một cậu bé nhanh nhẹn, hồn nhiên vô tư đã cống hiến cho đời rất nhiều, đặc biệt là cách mạng của ta. Sự hi sinh của cậu đã là tiếng thơm cho đời.
Phân tích truyện Lượm – Bài phân tích mẫu số 3
Nhà thơ Tố Hữu sáng tác bài Lượm vào năm 1949, in trong tập thơ Việt Bắc. Bài thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc hình ảnh Lượm, một em bé thiếu nhi hy sinh vì nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Lượm là bài thơ tự sự - trữ tình kể về cuộc đời ngắn ngủi nhưng rất anh dũng của chu bé liên lạc, hồn nhiên, nhí nhảnh, yêu đời, dũng cảm đã ngã xuống để bảo vệ sự bình yên cho chính mảnh đất quê hương mình. Hình ảnh nhân vật Lượm xuyên suốt trong bài thơ.
Trong năm khổ thơ đầu, bằng cái nhìn trìu mến thân thương, tác giả đã miêu tả một chú bé rất đáng yêu:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh.
Ca nô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng...
Nhắc đến Lượm, người đọc nhớ đến hai khổ thơ này, bởi đây là hai khổ thơ đầy ấn tượng về một chú bé liên lạc nhỏ nhắn, xinh xinh, nhanh nhẹn hồn nhiên, nhí nhảnh vui tươi. Những từ láy loát choắt, xinh xinh, thoăn thoát, nghênh nghềnh được dùng rất gợi hình gợi cảm, cùng với thể thơ bốn chữ và nhịp thơ nhanh, tạo âm hưởng vui tươi, nhí nhảnh rất phù hợp với một chú bé như Lượm. Một hình ảnh so sánh đẹp như con chim chích - nhảy trên đường vàng... gợi lên trước mắt chúng ta một chú bé hồn nhiên yêu đời. Thật thú vị! Nhà thơ Lê Đức Thọ cũng có bài thơ Em bé liên lạc, ông cũng hình dung em như một con chim non vui tươi ở những câu kết:
Ngày mai trên quãng đường trắng
Có em bé lại dẫn đường bên anh.
Miệng cười chân bước nhanh nhanh,
Như con chim nhỏ trên cành vui tươi.
Có lẽ không còn hình ảnh nào có thể thay thế cho được hình ảnh con chim nhỏ và chỉ có hình ảnh này mới thể hiện được vẻ đẹp trẻ thơ của chú bé liên lạc. Bao trùm lên tất cả là cái tình của nhà thơ, cái nhìn trìu mến, thân thương của tác giả đối với chú bé. Phải yêu quí Lượm lắm thì mới miêu tả Lượm hay đến như vậy!
Người đọc yêu biết bao cái cười híp mí, má đỏ bồ quân của chú, nhưng càng yêu hơn niềm vui được tham gia kháng chiến của chú bé:
Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà!
Nhà thơ miêu tả Lượm vui như con chim sổ lồng. Cái ý đi làm liên lạc thích hơn ở nhà, đúng là niềm vui của con chim sổ lồng. Đó là niềm vui chung của cả thế hệ trẻ sau Cách mạng tháng Tám, chứ không riêng gì của chú bé Lượm
Đáng yêu hơn là tiếng chào: Thôi chào đồng chí vừa tinh nghịch dí dỏm, lại vừa đứng đắn nghiêm trang, bởi em đã tham gia kháng chiến như mọi người, như chú của em vậy. Trong tiếng chào ấy ta thấy vang lên một niềm tự hào kiêu hãnh rất trẻ con, và rất đáng yêu-của Lượm.
Ấn tượng của cuộc gặp gỡ vẫn còn giữ nguyên vẹn nét đẹp đẽ, vui tươi, ấm áp trong lòng tác giả, thì bỗng nhiên có tin Lượm hy sinh. Câu thơ bốn tiếng được ngắt làm hai dòng, bị gãy đôi như một tiếng nấc:
Ra thế
Lượm ơi!...
Đó là nỗi sửng sốt, xúc động đến nghẹn ngào. Và nhà thơ hình dung ngay ra cảnh tượng chú bé hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ:
Một hôm nào đó
Như bao hôm nào
Chú đồng chí nhỏ
Bỏ thư vào bao
Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề “thượng khẩn”
Sợ chi hiểm nghèo?
Để rồi lại nghẹn ngào gọi em một lần nữa:
Bỗng lòe chớp đỏ
Thôi rồi Lượm ơi!
Chú đồng chí nhỏ
Một dòng máu tươi!
Lượm đã hy sinh anh dũng như một chiến sĩ thực thụ ở trên, nhà thơ còn gọi em bằng cháu, và ở đây khi kể lại cảnh Lượm hy sinh. Tố Hữu đã gọi chú bàng những lời xưng hô trang trọng: Chú đồng chí nhỏ và có tới hai lần gọi như thế. Việc làm của em, sự hy sinh cao đẹp của em khiến em xứng đáng được nhà thơ gọi như thế. Phải chăng đó là lòng cảm phục của một cán bộ cách mạng đối với một em thiếu nhi anh hùng.
Nhưng rồi cuối cùng, tình cảm công dân ấy lại quay về tình chú - cháu. Nhà thơ lại gọi Lượm bằng tiếng cháu thân thương khi miêu tả cái chết đẹp đẽ của em giữa đồng lúa quê hương:
Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng...
Cánh đồng quê hương như vòng nôi, như vòng tay của mẹ, ấm êm dịu dàng đón em vào lòng. Em chết mà tay vẫn nắm chặt bông lúa, quê hương và hương lúa vẫn bao bọc quanh em như ru em vào giấc ngủ đẹp của tuổi thơ anh hùng. Em chết mà hồn bay giữa đồng, vừa thiêng liêng vừa gần gũi biết bao! Không yêu mến, xót thương, cảm phục Lượm thì không thể miêu tả một cái chết hồn nhiên và lãng mạn đến như thế! Đó là cái chết của những thiên thần nhỏ bé. Thiên thần nhỏ bé ấy đã bay đi để lại bao tiếc thương cho chúng ta, như Tố Hữu đã nghẹn ngào, đau xót gọi em lần thứ ba bằng một câu thơ day dứt:
Lượm ơi còn không?
Câu thơ đứng riêng thành một khổ thơ, như một câu hỏi xoáy sâu vào lòng người đọc. Nếu không có cái tình với Lượm thì nhà thơ làm sao lại day dứt thế được!
Câu hỏi ngân vang ấy, tưởng chừng như không có câu trả lời, nhưng chính tác giả đã trả lời bằng hai khổ thơ cuối khép lại bài thơ:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng.
Hai khổ thơ cuối láy lại khổ thơ thứ hai và khổ thơ thứ ba như một điệp khúc để khẳng định Lượm vẫn còn sống mãi với quê hương đất nước, sống mãi trong lòng tác giả. Bài thơ hết nhưng ý thơ lại mở ra vẫn còn tiếp nối mãi trong lòng người đọc hình ảnh một chú bé liên lạc hồn nhiên mà dũng cảm, đáng yêu và đáng cảm phục. Lượm vẫn còn công mãi trong lòng chúng ta như bài ca bất diệt về tuổi thơ trong sáng đã hiến dâng đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc.
Với thể thơ bốn chữ, một thể thơ dân gian truyền thống phù hợp với lối kể chuyện có nhịp kể nhanh. Với cách ngắt đôi câu thơ đột ngột, và nghệ thuật tách câu thơ thành một khổ thơ riêng rất độc đáo, kết hợp với cách sử dụng câu hỏi tu từ, câu cảm thán... Lượm thật sự là một bài thơ hay, cảm động về một tấm gương bé bỏng hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Phân tích truyện Lượm – Bài phân tích mẫu số 4
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã từng có lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến như sau: “Bất kỳ đàn ông, đà bà, người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc.”. Thực hiện lời kêu gọi của Bác, bao lớp thanh niên đã xung phong lên đường chiến đấu cứu nước, bảo vệ quê hương. Em bé trong bài thơ “Lượm” của Tố Hữu cũng vậy, dũng cảm xông pha cống hiến tuổi trẻ cho tổ quốc này. Nhân vật chú bé Lượm ấy đã đọng lại nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc.
Bài thơ “Lượm” của nhà thơ Tố Hữu kể về một chú bé liên lạc dũng cảm trên mặt trận thời bấy giờ. Chú bé Lượm ấy là hình ảnh xuyên suốt tác phẩm, anh dũng chiến đấu chống lại thực dân Pháp, làm theo lời dạy của Bác Hồ.
Hình ảnh chú bé Lượm hiện lên hồn nhiên, vui vẻ trong khung cảnh của cuộc gặp gỡ với người chú vệ quốc quân.
“Ngày Huế đổ máu
Chú Hà Nội về
Tình cờ chú cháu
Gặp nhau Hàng Bè”
Cuộc chiến năm 1945 đã giúp ta giành lại độc lập chủ quyền của dân tộc từ tay bọn phát xít Đức. Thế nhưng, không bao lâu sau thực dân Pháp lại nổ súng xâm lược nước ta tại Huế. Nhân dân ta lại một lần nữa đứng lên chiến đấu vì tổ quốc trong đó có Lượm. Chú cháu gặp nhau trong tình hình khốc liệt của trận chiến. Cuộc gặp gỡ sau bao lâu xa cách ấy cũng chỉ là tình cờ chứ không có một cái hẹn nào cho hai chú cháu. Hoàn cảnh đặc biệt ấy nhưng giọng thơ không có chút nào chững lại vì buồn tủi mà chỉ có lòng yêu nước đang cháy trong ngực trẻ của những người chiến sĩ trẻ. Hoàn cảnh ấy đã góp phần khắc họa được phần nào tính cách của Lượm, phần nào tô đậm thêm vẻ đẹp trong tâm hồn của chú bé ấy.
Một cậu bé dù trong bom đạn nhưng vẫn mang những nét ngây thơ, hồn nhiên ở ngoại hình:
“Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng…”
“Chú bé loắt choắt” cái dáng người nhỏ bé nhanh nhẹn trên mọi nẻo đường không thể lẫn với một ai khác. Bên người mang theo cái xắc cũng nhỏ xinh như chính dáng vẻ của Lượm vậy. Đôi chân nhanh nhẹn, tâm hồn phơi phới niềm tin yêu.
Bằng việc sử dụng những từ láy “loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh” Tố Hữu đã lột tả được dáng vẻ ngây thơ, nghịch ngợm nhưng cũng rất đáng yêu của chú bé Lượm.
Tuy còn nhỏ nhưng Lượm cũng đã đảm nhiệm một nhiệm vụ vô cùng quan trọng là người liên lạc, vận chuyển thư, tin cấp báo cho các chiến sĩ chiến đấu ngoài chiến trận:
“Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà”
Chiến đấu cho đất nước, ngày ngày đối diện với bom đạt đối với Lượm là niềm vui, công việc liên lạc ấy là niềm tự hào, là đam mê kiêu hãnh của một chú bé. Lượm luôn vui vẻ, hồn nhiên và hết sức dũng cảm. Một cậu bé coi sự sống và cái chết, coi mọi hiểm nguy không còn gì để phải sợ hãi. Ngược lại, Lượm còn thích ở đồn hơn là ở nhà. Ở đồn nhận thông tin, rồi nhanh chóng chuyển tin cấp báo đến với mặt trận. Công việc ấy có lẽ hợp với tính cách hiếu động của một chú bé dũng cảm.
Sự hồn nhiên, tinh nghịch của Lượm còn được tác giả miêu tả kỹ hơn bằng những từ ngữ có sức gợi hình tốt:
“Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
“Thôi, chài đồng chí!”
Cháu đi xa dần”
Cậu bé ấy giờ cũng đã trở thành đồng chí. Những con người có cùng chung lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc.
Sau lần gặp gỡ tình cờ ấy:
“Cháu đi đường cháu
Chú lên đường ra
Đến nay tháng sáu
Chợt nghe tin nhà”
Cuộc gặp gỡ ngắ ngủi ấy có ngờ được đâu là cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai người chiến sĩ vệ quốc quân và chiến sĩ liên lạc. Đến hôm nay thì chợt nghe tin về Lượm từ quê nhà.
Một chú bé liên lạc thế hồn nhiên, nhí nhảnh, dũng cảm thế nhưng lại hi sinh quá sớm cho tổ quốc này. Đau đớn quá, xót xa quá mà nhà thơ phải thốt lên:
“Ra thế, Lượm ơi”
Câu thơ như nghẹn lại, như tiếng nấc xót xa cho Lượm. Trong tiếng nấc ấy, nhà thơ hình dung ra cảnh Lượm hi sinh vì bom đạn trong lúc làm nhiệm vụ:
“Một hôm nào đó
Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề thượng khẩn
Đạn bay vèo vèo”
Lượm nhận nhiệm vụ liên lạc cho quân ta trong một trận chiến đấu khốc liệt, để rồi:
“Bỗng lòe chớp đỏ
Thôi rồi, Lượm ơi!”
Tia chớp ấy đã cướp đi cuộc đời, cướp đi tuổi thơ của Lượm. Một cậu bé tuy tuổi còn nhỏ nhưng rất dũng cảm, băng qua bom đạn thực hiện nhiệm vụ liên lạc được giao. Rồi đau xót, nghẹn ngào quá khi bom đạn đã cướp đi cậu bé loắt choắt nhanh nhẹn ngày nào. “Thôi rồi, Lượm ơi!” tác giả thương tiếc, ngậm ngùi trước sự hi sinh của một chiến sĩ trẻ cho mảnh đất quê hương này.
Cái chết của Lượm được Tố Hữu miêu tả thật giản dị nhưng chạm đến đáy lòng người đọc:
“Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng”
Lớn lên bên đồng lúa mát, cho đến khi hi sinh Lượm cũng nằm lại với đồng lúa đang thời trổ bông. Tay vẫn nắm chặt không buông những bông lúa gắn liền với tuổi thơ, những bông lúa nuôi sống quân và dân ta trong bao ngày chiến đấu. Hương lúa mát dịu nhưng dòng sữa nuôi lớn cuộc đời mỗi người con Việt. Để hồn cậu bé liên lạc cứ quấn quýt nơi cánh đồng với bao chiến công này.
Sự hi sinh ấy đã là bất tử, Lượm tuy đã chết, nhưng trong lòng một người dân hình ảnh chú bé Lượm ngày nào vẫn còn sống mãi với nhữn chiến công hào hùng.
“Lượm ơi, còn không?”
Câu hỏi tu từ nhưng bâng khuâng, luyến tiếc. Lượm đã mất, nhưng hình ảnh Lượm thì mãi sẽ là niềm tự hào, là tấm gương sáng trong lòng biết bao thế hệ của người dân Việt Nam.
Hai khổ thơ cuối tác giả nhắc lại nguyên vẹn hình ảnh của Lượm những ngày đầu đi làm liên lạc. Hình ảnh một chú bé với dáng vẻ hồn nhiên ngây thơ trên đường làm nhiệm vụ. Đối với Tố Hữu cũng như với nhiều người khác cũng luôn khắc sâu hình ảnh của Lượm tỏng tim mình. Lượm sẽ mãi sống cùng non sông, cùng đất nước này.
Bằng ngôn ngữ giản dị, chân thực nhưng được chọn lựa kỹ lưỡng. Nghệ thuật miêu tả độc đáo, khéo léo đã đem đến thành công cho Tố Hữu trong tác phẩm này. Qua bài thơ đã phác họa thành công hình ảnh chú bé liên lạc trong những ngày chiến đấu. Qua đó ta cũng thấy được tinh thần chiến đấu kiên cường của quân và dân ta để dành lại độc lập chủ quyền cho đất nước.
Trong số những tác phẩm viết về thiếu nhi trong những ngày chiến đấu cứu nước thì “Lượm” là một bài thơ xuất sắc của Tố Hữu, tạo được tiếng vang lớn và có sức ảnh hưởng không hề nhỏ đến nhân dân ta. Đồng thời cũng thể hiện được một tư tưởng xuyên xuốt, thắng lợi trong những cuộc kháng chiến của toàn dân ta không chỉ có sự góp sức của những người tài giỏi khỏe mạnh mà còn có công lao của những thiếu niên dũng cảm như Lượm.