Đề bài
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:
Khi đã khai phóng được bản thân, con người sẽ tìm ra chính mình ở hai khía cạnh quan trọng nhất: con người văn hóa và con người chyên môn của mình.
Ở khía cạnh con người văn hóa, đó là việc tìm ra được đâu là lương tri và phẩm giá của mình, đâu là lẽ sống và giá trị sống của mình; đâu là những giá trị làm nên chính mình, là những thứ mà vì nó hay để bảo vệ nó, mình sẵn lòng hi sinh mọi thứ khác; đâu là “chân ga” (để giúp mình vượt qua bao đèo cao) và đâu là “chân thắng” (để giúp mình không rơi xuống vực sâu).
Ở khía cạnh con người chuyên môn (hay con người công việc, nghề nghiệp, sự nghiệp), đó là việc tìm ra mình thực sự thích cái gì, mình giỏi cái gì, hiểu được mình giỏi đến mức độ nào để đặt mình vào một công việc phù hợp nhất với “cái chất” con người mình. Khi làm công việc mà mình giỏi nhất, mê nhất và phù hợp với “cái chất” con người của mình nhất thì khi đó làm việc cũng là làm người, khi đó mình làm việc nhưng cũng là sống với con người của mình”
(Đúng việc, một góc nhìn về câu chuyện khai minh – Giản Tư Trung, NXB Tri Thức – 2015)
Câu 1. Đoạn trích được viết theo phong cách ngôn ngữ nào? (0,25 điểm)
Câu 2. Hãy xác định câu chủ đề của đoạn văn bản. (0,5 điểm)
Câu 3. Trong đoạn trích, tác giả chủ yếu sử dụng thao tác lập luận nào? (0,25 điểm)
Câu 4. Từ quan niệm về “con người chuyên môn” trong đoạn trích trên, anh / chị hãy trình bày suy nghĩ trong định hướng lựa chọn nghề nghiệp của bản thân. Trả lời trong khoảng 5-7 dòng. (0,5 điểm)
Phần II: Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1 (3,0 điểm)
Có ý kiến cho rằng: Tử tế là mạch sống tình người, đừng làm nó chết.
Một ý kiến khác kại nêu vấn đề: Xã hội ngày nay, sống tử tế là quá khó khăn.
Vậy anh/chị hiểu như thế nào là sống tử tế? Hãy trình bày quan điểm của mình về sống tử tế trong cuộc sống hiện nay.
Câu 2 (4,0 điểm)
Trong truyện ngắn Vợ nhặt cuả Kim Lân có đoạn:
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.
Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con… May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
- Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
Cảm nhận của anh/chị về tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ được miêu tả qua đoạn trích trên. Từ đó, nêu nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lý của Kim Lân.
Lời giải chi tiết
Phần I: Đọc hiểu
Câu 1:
Phong cách ngôn ngữ chính luận
Câu 2:
- Câu chủ đề: “Khi đã khai phóng được bản thân, con người sẽ tìm ra chính mình ở hai khía cạnh quan trọng nhất: con người văn hóa và con người chuyên môn của mình”.
Câu 3:
- Thao tác lập luận phân tích
Câu 4:
- Học sinh thể hiện kỹ năng viết đoạn văn; trình bày ngắn gọn suy nghĩ của bản thân về “con người chuyên môn” và định hướng nghề nghiệp của bản thân, có thể theo hướng:
+ Mình thực sự thích cái gì, mình giỏi cái gì, sở trường của bản thân là gì, hiểu được và tin mình giỏi đến mức độ nào?...
+ Mình có thể phát huy năng lực, giỏi giang ở lĩnh vực nào, nghề nghiệp nào?
Phần II: Làm văn
Câu 1:
- Nêu vấn đề
- Giải thích:
+ “Sống tử tế”: Sống tốt với mọi người xung quanh, sẵn sàng sẻ chia, giúp đỡ mọi người, không chỉ biết đến cá nhân mình.
Ý kiến 1: Tử tế là mạch sống tình người, đừng làm nó chết: Sống tử tế thể hiện qua những việc tử tế, không loại trừ những việc tưởng như nhỏ nhặt nhất, nhiều việc tử tế nhỏ góp phần thành việc tử tế lớn, làm phục hồi những giá trị đạo đức chân chính, hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội tốt đẹp.
Ý kiến 2: Xã hội ngày nay, sống tử tế quá khó khăn? Đây là một thực trạng đáng suy ngẫm. Khi mà mọi vấn đề thực giả, tốt xất đều lẫn lộn.,…
- Bàn luận:
+ Khẳng định sống tử tế là rất cần thiết đối với cuộc sống của mỗi con người.
+ Ai cũng có cơ hội làm được những việc tử tế nếu thường xuyên nghĩ đến nó, đến môi trường xung quanh chúng ta,…
+ Cần phê phán một thực tế: trong xã hội còn biết bao việc không tử tế.
- Bài học nhận thức và hành động
Câu 2:
* Giới thiệu tác giả, tác phẩm và dẫn dắt vấn đề cần nghị luận
* Phân tích:
- Bà lão ý thức rõ cái éo le, nghịch cảnh cuộc hôn nhân của con bà.
- Bà tủi phận mình vì người ta dựng vợ gả chồng cho con lúc ăn nên làm ra, còn con mình thì lấy vợ trong lúc đói kém, chết chóc đang bủa vây. Bà cũng hiểu ra nhiều điều: “Có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Cái cảm giác buồn tủi ấy đã biến thành giọt lệ: “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà đã rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Đó là dòng nước mắt xót xa, buồn tủi, thương cảm, đã chảy xuống bởi sự ám ảnh của cái đói, cái nghèo.
- Tuy có buồn tủi cho cuộc đời mình, cho cái số kiếp éo le của con mình nhưng rồi cái cảm giác ấy cũng dần dần tan đi để nhường chỗ cho niềm vui trước sự thực con bà đã có vợ.
- Bà lão hi vọng về một ngày mai tươi sáng hơn giữa cái cảnh tối tăm của cái đói, cái chết với niềm tin vào cuộc sống, với cái triết lý dân gian “ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”.
* Đánh giá:
- Đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo để phát hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân vật.
- Với năng lực phân tích tâm lý tinh tế, ngôn ngữ chọn lọc và lựa chọn chi tiết đặc sắc, Kim Lân đã diễn tả đúng tâm lý một bà cụ nông dân nghèo khổ, tội nghiệp nhưng rất hiểu đời và có tấm lòng nhân ái, giàu tình yêu thương.