Tác giả, Tác phẩm văn 7 – Tục ngữ về con người và xã hội

Tục ngữ về con người và xã hội

I. Đôi nét về tác phẩm Tục ngữ về con người và xã hội

1. Giá trị nội dung

Những câu tục ngữ về con người và xã hội đã tôn vinh giá trị con người, đưa ra nhận xét, lời khuyên về những phẩm chất và lối sống mà con người cần phải có

2. Giá trị nghệ thuật

- Giàu hình ảnh so sánh, ẩn dụ

- Sử dụng từ và câu có nhiều ý nghĩa

- Nội dung hàm súc, cô đọng

II. Phân tích tác phẩm

a) Dàn ý

I. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tục ngữ

- Giới thiệu về “Tục ngữ về con người và xã hội” (khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)

II. Thân bài

1. Câu 1

- Nghệ thuật:

+ So sánh đối lập: một – mười

+ Hoán dụ: mặt người

- Câu tục ngữ đề cao giá trị con người, so với mọi thứ của cải, con người quý giá hơn nhiều lần

- Là triết lí đúng đắn, phê phán thái độ sống sai lầm và đồng thời an ủi, động viên trường hợp mất mát về tài sản.

2. Câu 2

- Cái răng, cái tóc là một phần bên ngoài, thể hiện tính cách, nhân cách của con người

- Mọi biểu hiện của một con người đều thể hiện phản ánh vẻ đẹp bên trong, nhân cách của người đó

- Nhắc nhở con người phải biết giữu gìn răng và tóc cho sạch đẹp

- Thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá, bình phẩm con người của nhân dân

3. Câu 3

- Nghệ thuật: tiểu đối ngắn gọn, ẩn dụ

+ Đói, rách: sự khó khăn, vất vả thiếu thốn trong cuộc sống

+ Sạch, thơm: những điều con người cần phải đạt được, phải giữ gìn, vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn

- Câu tục ngữ khuyên con người dù khó khăn, vất vả, thiếu thốn vẫn phải sống cho thanh sạch, cao đẹp, vẫn luôn phải giữ gìn phẩm chất cao đẹp của mình.

Giáo dục con người có lòng tự trọng

4. Câu 4

- Nghệ thuật:

+ Bốn vế câu đồng đẳng, bổ sung ý nghĩa cho nhau

+ Điệp từ: học

- Nội dung: Ăn, nói, gói, mở thực chất là chỉ lối ứng xử của con người trong cuộc sống hằng ngày. Do đó, con người cần học cách ứng xử phù hợp trong cuộc sống

5. Câu 5

- Câu tục ngữ khẳng định vai trò, công lao to lớn của người thầy đối với mỗi người: không được sự dạy dỗ của thầy thì không thể thành công trong bất cứ việc gì, trong sự học của mỗi người không thể thiếu sự quan tâm, chỉ abro của thầy

- Khuyên nhủ mỗi người cần phải biết kính trọng, biết ơn thầy và tìm đến thầy để học hỏi thêm nhiều điều hay, lẽ phải

6. Câu 6

- Nghệ thuật: so sánh. Câu tục ngữ với hai vế câu so sánh. Hai vế câu bổ sung ý nghĩa cho nhau – vừa nhấn mạnh việc học thầy, vừa nhấn mạnh việc học bạn

- Nội dung: Câu tục ngữ đề cao việc học bạn của mỗi người

7. Câu 7

- Nghệ thuật: so sánh

- Nội dung:

+ Câu tục ngữ khuyên con người cần phải biết yêu thương, quan tâm, những người xung quanh như yêu thương chính bản thân mình.

+ Đề cao tinh thần đồng loài, là bài học về tình nhân đạo

8. Câu 8

- Nghệ thuật: ẩn dụ

- Nội dung: câu tục ngữ khuyên con người khi được hưởng thành quả thì cần phải biết ơn, nhớ tới công lao của người đã giúp đỡ mình

9. Câu 9

- Nghệ thuật: đối lập, ẩn dụ

+ Một cây: sự đơn độc, một mình

+ Ba cây: chỉ sự đoàn kết, liên kết với nhau

- Câu tục ngữu khuyên con người cần phải sống đoàn kết với nhau bởi lẽ đoàn kết thì sẽ thành công còn nếu chia rẽ, sống đơn lử thì sẽ khó có thể làm nên việc gì

III. Kết bài

- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản

+ Nội dung: Những câu tục ngữ về con người và xã hội đã tôn vinh giá trị con người, đưa ra nhận xét, lời khuyên về những phẩm chất và lối sống mà con người cần phải có

b) Phân tích

Phân tích câu 1 – Bài văn mẫu số 1

Con người luôn được đánh giá là một trong những điều quý giá nhất mà tạo hóa ban cho trái đất. Và để khẳng định đúng điều này thì cha ông ta trước cũng đã có câu nói rất hay về con người đó là "Một mặt người, bằng mười mặt của”. Câu tục ngữ tuy ngắn gọn nhưng lại bao hàm rất nhiều ý nghĩa sâu sắc cho chúng ta, từ đó chúng ta như biết thêm được vai trò cũng như trách nhiệm của bản thân với chính con người với xã hội.

Câu tục ngữ có thấy xuất hiện hai số đếm đó là một và mười. Ta thấy "một " là đơn vị đếm chỉ số ít, nhỏ. Và đi kèm với số ít đó là "mặt người" ở đây chính là thân thể cũng như là tính mạng con người. Ngược lại thì "mười" lại được xem là đơn vị đếm chỉ số nhiều. Đi liền với mười lại là " mặt của" như để những vật chất có giá trị. Thông qua việc so sánh này chúng ta có thể hiểu "một mặt người bằng mười mặt của" dường như cũng đã muốn nói rằng đó là: Tính mạng của một con người bằng rất nhiều thứ của cải vật chất có giá trị to lớn và còn có nhiều to lớn hơn thế nữa. Quả thực ông cha ta đúc kết câu tục ngữ này nhằm khuyên nhủ cho mỗi chúng ta một bài học quý. Trong mọi trường hợp thì mỗi con người chúng ta cũng như phải biết đặt sự an toàn cho tính mạng lên trên của cải vật chất đù đó là những thứ vô cùng quý báu. Và cũng đừng nên hi sinh vì tiền bạc, vật chất to lớn và con người là còn tất cả.

Quả đúng như vậy đó, khi mà có con người sẽ có rất nhiều của cải, từ xưa đến nay điều đó đã được chứng minh. Thực tế cho thấy được rằng nếu một con người mất đi, thì những của cải chắc chắn sẽ còn đó nhưng nó có được sinh sổi nảy nở ra nhiều hơn trước không? Mà dường như khi đổi lại của cải vật chất đã bị mất đi, con người vẫn sống đó thì một ngày không xa chắc chắn một điều rằng của cải sẽ được làm ra nhiều. Như để có thể khẳng định rõ hơn chúng ta hãy cùng tìm hiểu trên nhiều khía cạnh khác nhau đề nói về vấn đề. Những điều này dường như nó không xa lạ đâu chúng ta tìm hiểu ngay trong chính gia đình. Và chính chúng ta cũng nên thử hỏi rằng những gia đình có người đã mất thì lúc đấy ta sẽ biết thêm về giá trị tính mạng của một con người. Vẫn còn đó thực tế những gia đình gặp hoàn cảnh không may như vậy, thì nếu họ sẽ không làm ra nhiều của cải vật chất như những gia đình có đầy đủ các thành viên. Chắc chắn khi còn có người thì họ sẽ không hề lùi bước mà họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc làm kinh tế. Và ta cũng thử hỏi những con người như cũng đang cận kề giữa 2 chữ sinh – tử thì ta còn biết hơn nữa tầm quan trọng của con người. Và muốn hiểu được giá trị của mạng người và của chúng ta hãy xem những bệnh nhân đang khao khát khỏi bệnh, với họ lúc đó mới có thể hiểu ra rằng tiền bạc chỉ là thứ ngoài thân, sức khỏe của con người, con người mới thực sự có giá trị hơn hết.

Có lẽ rằng chính vì con người có giá trị to lớn như vậy cho nên mới được so sánh một cách đầy khập khiễng như vậy. Một mặt người thôi là có thể bằng mười mặt của rồi. Nhưng nói đi cũng phải nói lại đó chính là bên cạnh ấy vần có vô vàn những kẻ quý tiền bạc hơn sinh mạng thân thể mình. Ta như biết được rằng tiêu biểu ta phải kể đến những người buôn ma túy phạm đến vòng pháp luật. Hay đó còn có những người chỉ vì tiền mà bất chấp tất cả. Quả thật thực tế rằng họ biết rằng những việc làm đó sẽ bị pháp luật xử lý nhưng vẫn cố làm. Chính tiền bạc đã làm lu mờ ý chí của họ, và ta không khỏi tự hỏi tại sao những con người ấy không biết nghĩ cho bản thân cùng như toàn xã hội? Và sao họ không không biết rằng việc làm đấy sẽ gây hại, như giết nhân loại của chúng ta từng ngày từng giờ. Và quả thật khi đứng trước những hành vi như vậy xã hội cần phải lên án gay gắt mới được.

Qua câu tục ngữ hay này em như đã có cho mình một các nhìn nhận sâu sắc hơn về tính mạng con người và hiểu được giá trị đáng quý của con người. Tựu chung lại ta như thấy được người xưa đúc kết câu tục ngữ đó quả đúng đắn chí lý và thật đúng. Quả thật đó là một trong những chân lí đắt giá, sáng ngời. Chắc chắn rằng nó sẽ là bài học kinh nghiệm quý báu sống mãi trong tiềm thức mỗi người đất Việt của chúng ta.

Phân tích câu 1 – Bài văn mẫu số 2

Con người là tài sản quý nhất trên đời. Mỗi sinh mạng khi được sinh ra đời đều vô cùng quý giá. Cha ông ta có câu “ Một mặt người bằng mười mặt của” đã làm sáng tỏ tư tưởng trên. Cha ông ta luôn muốn nhắc nhở con cháu về những giá trị của con người là quan trọng nhất. Vượt xa hơn những thứ của cải vật chất bên ngoài.

Một mặt người là cách nói hoán dụ dùng bộ phận để chỉ toàn thể , có ý nghĩa tương đương như một người, của là của cải vật chất. Mười mặt của ý nói đến số của cải rất nhiều. Bằng việc vừa sử dụng hình thức so sánh vừa có sự đối lập cho nên chúng ta có thể thấy được câu tục ngữ sự khẳng định của về giá trị của con người. Mười mặt của là một tài sản lớn, nhưng nó lại được so sánh với một mặt người. Từ đây có thể thấy được rằng dùng việc đối lập giữa “một” và “mười” càng làm nhấn mạnh lên giá trị của con người. Con người là vô giá, sinh mạng của mỗi người còn quan trọng hơn bất cứ thứ gì. Tiền bạc của cải chỉ là vật ngoài thân, có thể làm ra được. Nhưng sinh mạng mất đi thì chẳng có cách nào lấy lại.

Không phải dân gian ta không coi trọng của cải. Vì không có của cải vật chất, cũng không thể sống tốt được. Nhưng dân gian ta đặt con người lên trên. Khẳng định cho giá trị của con người mới là tối cao nhất, không vàng ngọc nào sánh được.

Câu tục ngữ khuyên mọi người hãy yêu quý, tôn trọng và bảo vệ con người, không để của cải che lấp con người. Với cuộc sống hiện đại bây giờ. Việc của cải che lấp đi những giá trị của con người ngày càng rõ rệt. Con người đánh mất đi giá trị của mình và bị đồng tiền chi phối. Con người sống lạnh nhạt với nhau hơn, sống vô tâm hơn so với các thế hệ trước kia.

Trong lao động, của cải tuy quý giá nhưng của cải là do con người làm ra. Nếu không có con người thì không có của cải. Vậy nên nếu con người mất đi rồi thì của cải cũng chẳng để làm gì và nó là vô tác dụng. Chỉ khi có con người thì của cải mới có giá trị sử dụng của nó. Nên chúng ta thấy rằng, con người là giá trị cốt lõi và đầu tiên sau đó mới đến của cải. Ứng với câu “ Người sống đống vàng”, cũng khẳng định quan điểm như câu tục ngữ “ Một mặt người bằng mười mặt của”.

Trong quan hệ giữa con người với con người và con người với xã hội. Nếu chỉ vì của cải mà đánh mất giá trị của con người. Chúng ta sẽ mất rất nhiều thứ. Sẽ trở thành những người cô độc không người thân, bạn bè. Của cải có thể làm ra nhưng tình cảm thì đâu phải có thể dễ dàng làm ra được. Tình cảm của người với người là quá trình vun đắp lâu dài chứ chẳng phải làm ra một cách nhanh chóng. Vì thế dù là chúng ta có của cải trong tay rồi thì cũng chẳng thể cách nào tìm được tri kỷ khi mà chúng ta quá coi trọng nó. Vàng bạc chỉ là vật ngoài thân, gia đình, bạn bè mới là những người sẽ đi theo ta suốt cuộc đời. Dù những lúc ốm đau, vấp ngã thì cũng sẽ có những người luôn bên cạnh chúng ta để giúp đỡ động viên vực ta dậy.

Câu tục ngữ còn mang hàm ý phê phán những người coi của hơn người. Hám lợi, hám của chỉ quan tâm đến của cải mà đánh mất những giá trị tốt đẹp của con người. Bán mạng cho của cải rồi nhận được cái kết là sự cô độc, bỏ mình vì lao lực… Còn là lời động viên với mỗi người. Dù của cải có quý giá nhưng vẫn có thể làm ra . Nếu mất thì vẫn có thể kiếm được “của đi thay người”.

Câu tục ngữ đã đi vào đời sống nhân dân một cách sâu sắc. Nó là lời khẳng định lời nhắc về việc nâng cao, quý trọng giá trị của con người mới là cốt lõi trong cuộc sống. Còn những thứ của cải vật chất chỉ là vật ngoài thân có thể dễ dàng kiếm được. Giá trị của con người mới là điều đáng quý nhất. Câu tục ngữ mang lại giá trị nhân văn cao đẹp để cho con cháu sau này noi theo.

Phân tích câu 2 – Bài văn mẫu số 1

Người Việt từ xa xưa rất coi trọng hàm răng và mái tóc. Đó là cái nhìn đầu tiên để đánh giá một người đẹp. Câu thành ngữ trên đã nói lên điều đó.

Thuở xưa, khi còn bé, con gái để tóc trái đào, nhưng đến tuổi trưởng thành thì không bao giờ cắt tóc nữa mà cứ để cho dài mãi. Có được một mái tóc dài và bóng mượt là niềm kiêu hãnh của người con gái. Xưa kia muốn giữ được một mái tóc đẹp thì phải năng gội bằng nước bồ kết cho sạch, gội xong phải xả lại bằng chanh cho mềm tóc. Muốn tóc thơm thì cho lá hương nhu hay lá sả, hạt mùi, đun cùng nước gội đầu. Đứng cạnh người đàn bà mới gội, ta ngửi thấy mùi hương thoảng thoảng của đồng nội, của cỏ cây lá ngàn, và có biết bao chàng trai chỉ vì những mùi hương ấy mà phải một thời say đắm không dứt ra được. Ở miền Nam trồng nhiều dừa, người ta còn bôi nhẹ một lượt dầu dừa lên mái tóc để lấy mùi thơm và làm bóng tóc. Ngày nay, những mùi hương đó có chăng chỉ còn lại trong hoài niệm của những người lớn tuổi.

Đến nay ta chỉ có những tấm ảnh chụp phụ nữ Việt Nam cuối thế kỷ 19, còn trước đó thì chỉ có những mô tả mơ hồ của các nhà du hành. Đầu thế kỷ 17, linh mục người Ý Chistophorro Borri (1583-1632) đã đến Bình Định, lúc đó thuộc lãnh thổ Đàng Trong dưới sự cai trị của các chúa Nguyễn. Viết về cách để tóc của phụ nữ Việt ông nói: “Họ để tóc xõa và bồng bềnh trên hai vai, tóc dài đến mức chấm đất, và tóc càng dài, người ta càng cho là đẹp. Trên đầu họ đội một thứ mũ rộng vành, rộng đến mức che lấp cả mặt, khiến cho mắt nhìn chỉ thấy được có ba bốn bước phía trước, và cái mũ đó được tết bằng lụa hay vàng tùy theo thứ bậc của người đội. Sau đấy, các phu nhân để chào hỏi một cách lễ độ, phải ngả mũ ra để người ta có thể nhìn thấy trước mặt.” Đoạn văn trên chỉ cho ta những thông tin mơ hồ về cách để tóc của người Việt ở miền Trung. Riêng cái mũ rộng vành thì có lẽ tác giả lầm cái nón chóp nhọn mà phụ nữ phía nam quen đội.

Hơn ba thế kỷ sau, bác sĩ quân y Charles-Édouard Hocquard theo quân viễn chinh Pháp đến Bắc Kỳ từ tháng 2-1884 đã ghi lại những trang về người phụ nữ mà ông đã gặp trong những ngày đầu đến Hà Nội: “Điều khiến tôi ngạc nhiên khi đến xứ sở kỳ lạ này, là khó khăn trong thời gian đầu để phân biệt đàn ông và đàn bà từ cái nhìn đầu tiên. Cả hai đều để tóc như nhau. Quần áo cũng gần như nhau. Đàn bà cũng quấn khăn như đàn ông […]” Tuy quan sát nhầm lẫn như vậy, nhưng Hocquard đã để lại cho chúng ta nhiều ảnh để có thể thấy cách để tóc của những đàn bà miền Bắc hồi đó.

Người phụ nữ đất Bắc thường buộc tóc về phía bên thành cuộn dài, bọc bên ngoài bằng một cái khăn hẹp mà dài rồi quấn quanh đầu từ phía trước ra phía sau. Đầu mối còn thừa thì giắt vào dưới vành khăn, để xõa sang bên một túm tóc nhỏ gọi là đuôi gà. Vì vậy mà câu “một thương tóc bỏ đuôi gà…” không phải xa lạ với các chàng trai xứ Bắc. Khi đi ra ngoài, để giữ cho tóc khỏi sổ người ta thường trùm một cái khăn vuông, vừa là để che nắng vừa chống rét. Người bình dân thường trùm khăn đen, phía trước trán gập nhọn giống như mỏ con chim nên được gọi là “khăn mỏ quạ”.

Trong khi đó ở miền Nam có lẽ do ảnh hưởng của người Hoa nhập cư ồ ạt từ các thế kỷ 17-18, nên phụ nữ lại bới tóc cao sau gáy rồi cài một cái trâm giữ cho tóc khỏi sổ. Khi ra ngoài thì quấn quanh đầu một cái khăn rộng dệt ô đen trắng giống như khăn của phụ nữ Khmer hay Mã Lai. Người ta gọi đó là chiếc khăn rằn với nhiều công dụng như che nắng, lau mặt hay quàng lên người... Vào buổi đầu, đàn bà Việt ở thành thị còn thua kém các thím Khách, cho nên cách bới tóc của người Hoa được coi là mẫu mực, đã được cụ Vương Hồng Sển mô tả như sau: “Các ỷ, các ý trong Chợ Lớn thì đầu bới tóc thả bánh lái “ba vòng một ngọn”, ăn trầu tích toát, để móng tay dài và mỗi lần xỉa thuốc thường vảnh ngón tay cho người ngoài thấy mình có cà rá hột xoàn bự, hay bộ nhẫn vàng quấn kiểu “cửu khúc liên hoàn”. Trên vai mấy ỷ thường giắt một cái khăn vằn Nam Vang dùng để lau trầu, khác với mấy cô vợ Tây thì quấn chuỗi hột vàng gần gãy cổ, tay đeo kiềng vàng chạm kiểu “nhứt thi nhứt họa”, thêm mặc áo mớ ba mớ bảy, tóc xức dầu thơm chánh hiệu “Cô Ba”.

Dù để tóc bới, nhưng người phụ nữ Huế không quên quấn một chiếc khăn gợi nhớ lại mái tóc quấn của người xứ Bắc. Nhưng với phụ nữ quí tộc thì khi vào chốn cung đình hay trong các dịp lễ tết, bắt buộc phải quấn khăn vành dây, thân phận càng cao quí thì cái khăn càng phải to và rộng. Chiếc khăn vành tồn tại mãi cho đến ngày nay đối với phụ nữ khắp ba miền trong các nghi thức đặc biệt và nhất là trong đám cưới.

Sang đầu thế kỷ 20, khi cuộc sống đô thị phát triển, người phụ nữ bắt đầu tham gia công việc xã hội, dần dần có mặt ở trường học, bệnh viện và nhiều nơi công cộng khác, khiến họ phải tìm một kiểu tóc hợp lý hơn, thuận tiện trong công việc. Ngoài Bắc kiểu quấn tóc bằng khăn vải, dù là khăn nhung sang trọng hơn nhưng vẫn gây điều bất tiện, nên nhiều người đã chuyển sang quấn tóc trần khiến đầu tóc nhẹ nhàng mượt mà hơn. Việc quấn tóc trần khiến cho độn tóc bằng vải trở thành vô dụng, vì vậy những người tóc thưa phải dùng cái độn tết bằng tóc thật. Từ đấy xuất hiện cái nghề thu mua tóc rối để chải thẳng ra kết thành cái độn tóc, không những có các cửa hàng chuyên bán tóc độn, mà còn có những người đi dọc các phố phường mồm rao “ai tóc rối đổi kẹo không?”

Cái khăn mỏ quạ đã nhường chỗ cho chiếc khăn san nhẹ nhàng bay bổng. Trên báo Ngày Nay các số tháng 1-1935, bà Trịnh Thị Thục Oanh, một nhà giáo nổi tiếng ở trường nữ học đã nhận xét rằng “từ năm 1920 mốt mặc áo màu và quàng khăn san đã ra đời tại Hà Nội”. Nhưng rồi quấn tóc trần phải lùi bước dần nhường cho sự du nhập của tóc bới ở miền Nam. Chỉ có khác là tóc bới bây giờ buông thõng thấp che kín gáy tạo nên vẻ duyên dáng hơn.

Một trong những “cải cách” lớn của cái tóc là rẽ đường ngôi. Xưa kia, người phụ nữ đoan trang phải để đường ngôi thẳng chính giữa trán, những người đầu tiên dám rẽ đường ngôi lệch đã phải chịu sự dè bỉu của dư luận. Năm 1937, trên báo Phong Hóa vẫn còn có bài chế giễu cô “Gái mới” với câu:

Gớm cô gái mới, mới làm sao!

Các mốt cô không thiếu mốt nào.

Đầu quấn tóc trần, ngôi rẽ lệch,

Chân lê mang cả gót đầm cao…

Nhưng khi ở thành thị, đường ngôi lệch trở thành phổ biến, thì ở nông thôn, nhiều cô gái trẻ muốn đỏm dáng một tí vẫn còn chưa dám mạnh dạn. Khi tả một cô gái nửa tỉnh nửa quê trong truyện Cái Ve, nhà văn Khái Hưng đã nói đến “cái khăn nhung vấn lẳn vành, mái tóc rẽ hơi lệch như muốn theo kiểu mới, nhưng còn nhút nhát, rụt rè, chưa dám quả quyết”. Tóc vấn trần vẫn được chuộng vì giữ được vẻ cao sang hợp với những người luống tuổi.

Nhưng với những cô học sinh trẻ muốn phân biệt mình với các chị lớn tuổi hoặc đã có chồng, lại không bới tóc mà buông dài sau lưng và cặp lại. Mái tóc buông lả lướt đi với chiếc áo dài mềm mại càng làm tăng thêm dáng bay bổng của người con gái ở độ tuổi dậy thì. Mặc dầu mái tóc dài vẫn là niềm tự hào của nhiều cô gái, nhưng tóc ngắn xõa ngang vai cũng được các cô nữ sinh ưa thích nên mới có câu “tóc thề đã chấm ngang vai”.

Bước sang những năm 1930, trong phong trào “vui vẻ trẻ trung”, những cuộc chợ phiên (kermesse) và hội chợ đã được tổ chức ở nhiều thành phố lớn, tuy mục đích là để lấy tiền làm công việc từ thiện (giúp dân bị lụt, giúp trẻ em nghèo…), nhưng lại là dịp cho nam thanh nữ tú phô bày sắc đẹp, thúc đẩy quá trình Âu hóa trong cách ăn mặc của thanh niên Việt Nam. Nhiều kiểu tóc mới đã được báo chí tung ra, tuy lúc đó chưa có tờ báo nào chuyên về thời trang phụ nữ. Có lẽ thay đổi lớn nhất là lối chải tóc bồng phía trước trán, từ chải bồng đơn giản đến quấn sâu kèn khiến cho đầu tóc cao lên, dáng người trở nên chững chạc hơn.

Cho đến gần cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, đầu tóc uốn xoăn mới xuất hiện, được gọi theo tiếng Pháp là “tóc phi dê”. Những người mạnh dạn đi đầu trong kiểu tóc này phần lớn là những người lấy Tây, hoặc các cô nữ sinh “trường đầm”, những người đã quen với váy áo của phụ nữ Pháp.

Trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp, rồi tiếp đến đất nước bị chia cắt, miền Bắc Việt Nam bước vào một thời kỳ khắc khổ khiến cho việc để tóc của phụ nữ phải đơn giản hóa đến tận cùng. Tóc dài cặp sau lưng tuy đơn giản nhưng vẫn bị coi là vướng víu, không thích hợp với cuộc sống lao động. Tóc tết bím trở nên phổ biến từ thành thị đến thôn quê, vì nó gọn, đơn giản.

Trong khi ở miền Nam, do sự tiếp xúc thường xuyên với các mẫu tóc và các phương tiện làm tóc dồi dào, nên việc làm tóc của phụ nữ trở nên đa dạng, thì ở miền Bắc, do thiếu phương tiện và không có báo chí thời trang tóc, nên việc làm tóc chỉ có thể dựa vào những hình ảnh ít ỏi của các cô diễn viên điện ảnh các nước Đông Âu. Tuy các hiệu làm tóc cho phụ nữ ở Hà Nội hay Hải Phòng có thể đếm trên đầu ngón tay, nhưng một số người làm tóc đã có nhiều cố gắng, trong chừng mực cho phép, để đưa ra những kiểu đầu tóc đẹp. Trong thời buổi mà quần ống bó còn bị bài bác, quần ống loe cũng bị cắt, thì tóc phụ nữ muốn làm đẹp vẫn còn phải dè dặt, không dám đưa ra những mốt quá mới lạ. Đó cũng là những cố gắng của những người thợ làm tóc thời đó, biết sáng tạo trong khuôn khổ chật hẹp.

Phải đợi đến sau ngày đất nước thống nhất, rồi trải qua thời kỳ đổi mới, thì việc làm tóc của phụ nữ mới được phát triển một cách tự do. Đáng tiếc là trong những thời gian đầu, do không có những tạp chí thời trang tóc để hướng dẫn, nên các kiểu tóc đưa ra thường mang những cái tên quá thô thiển, như “tóc xù mì” (giống như mì ăn liền), “tóc xù tăm”… Đến nay thì đội ngũ những người làm tóc chuyên chăm sóc sắc đẹp cho phụ nữ đã trở nên đông đảo, người phụ nữ có thể lựa chọn bất cứ kiểu tóc nào cho hợp với dáng vẻ và tuổi tác của mình, không còn sợ những điều cấm kỵ của xã hội, họ chỉ theo một tiêu chí duy nhất là Đẹp.

Phân tích câu 2 – Bài văn mẫu số 2

Cái răng, cái tóc là góc cọn người.

Góc tức là một phần của vẻ đẹp. So với toàn bộ con người thì răng và tóc chỉ là những chi tiết rất nhỏ. Nhưng chính những chi tiết nhỏ nhất ấy lại làm nên vẻ đẹp con người.

Ý nghĩa của câu tục ngữ này là khuyên mọi người hãy giữ gìn hình thức bên ngoài cho gọn gàng, sạch sẽ vi hình thức bên ngoài thể hiện phần nào tính cách bên trong. Qua câu tục ngữ trên, ta thấy cách nhìn nhận, đánh giá và quan niệm về vẻ đẹp của nhân dân lao động thật tinh tế.

Phân tích câu 2 – Bài văn mẫu số 3

Mỗi chúng ta khi còn bé có lỡ nghịch kéo mà cắt đi mái tóc của mình thành xấu xí thì sẽ bị bà, bị mẹ mắng cho một trận không ngẩng được mặt lên. Và trong những lời bà mắng có một câu mà ai cũng từng được nghe “Cái răng cái tóc là góc con người”. Hồi bé thì chắc chẳng mấy ai hiểu được những lời bà và lời mẹ nói nhưng lớn lên rồi hiểu hết được câu nói ấy.

Con người chúng ta có đẹp không chỉ đẹp bởi dáng hình thanh mảnh, cân đối cao ráo hay làn da trắng không tì vết mà một người đẹp là một người có hàm răng đều đặn và một mái tóc phù hợp với khuôn mặt. Cho đến bây giờ thì câu tục ngữ trên vẫn không hề sai một chút nào. Một người dẫu có xinh đẹp cỡ nào mà để một bộ tóc xấu xí, ngố hề thì không thể nào bắt mắt được. Hay vẫn là người ấy hàm răng của họ bị thưa ra không sát nhau, chiếc to chiếc bé, chiếc thò ra chiếc thụt vào. Thử hỏi nếu như chúng ta nhìn thấy như vậy chúng ta có thấy đẹp không. Trái lại nếu ở một người không có làn da trắng, không có dáng người đẹp nhưng họ có một bộ tóc đẹp và một hàm răng đều chắc chắn khi cười họ sẽ rất duyên dáng.Như vậy có thể thấy được ý nghĩa của câu tục ngữ “Cái răng cái tóc là góc con người”. Đó là hai yếu tố tạo nên vẻ đẹp của một người, răng có đẹp, tóc có mượt mà, đúng kiểu thì con người mới đẹp được.

Phân tích câu 2 – Bài văn mẫu số 4

Câu tục ngữ nhắc đến hai bộ phận trên khuôn mặt con người là răng và tóc, được coi là một “góc con người”. Qua đó, cho thấy vai trò quan trọng của chúng, vừa thể hiện được phần nào tình trạng sức khỏe con người vừa biểu hiện cho vóc dáng, tính tình, nét đẹp của con trai con gái. Trải qua thời gian dài, tiêu chuẩn về cái đẹp của dân gian ta cũng có nhiều thay đổi. Phụ nữ xưa đẹp trong mái tóc dài, răng đen láy hạt na, đàn ông với mái tóc dàibúi cao. Ngày nay, cách để tóc đã có nhiều sự lựa chọn cho phù hợp với tính cách mạnh mẽ hay dịu dàng và sở thích của mỗi người. Tuy nhiên, dù thời nào, người có mái tóc mượt mà, óng ả, hàm răng trắng sángsẽ thu hút được ánh nhìn thiện cảm của người đối diện. Vì vậy câu tục ngữ muốn nhắc nhở con người phải biết giữ gìn, chăm sóc hàm răng và mái tóc của mình. Bởi đó cũng là một trong những “tiêu chí” để người ngoài đánh giá khi nhìn vào chúng ta. Câu tục ngữ thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá về con người của nhân dân ta.

Phân tích câu 3 – Bài văn mẫu số 1

Tục ngữ là những câu nói của dân gian thường ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ và được vận dụng vào đời sống, lời ăn tiếng nói hằng ngày. Những câu nói đó như để gửi gắm một thông điệp cuộc sống, một bài học đạo lý, một triết lí sống mà ông cha ta đã đúc kết được, một bài học coi trọng nhân phẩm, giữ gìn những giá trị tốt đẹp mà mình đang có trước những cám dỗ, cạm bẫy của cuộc đời. Câu tục ngữ "Đói cho sạch, rách cho thơm" là một trong những câu tiêu biểu mang đậm tính nhân văn nói về vấn đề này.

Trước hết, ta cần hiểu ý nghĩa của câu tục ngữ "Đói cho sạch, rách cho thơm" là như thế nào? "Đói cho sạch" ý nói dù có đói khát thì cũng nên ăn sạch, không ăn bẩn ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống của con người. Còn "rách cho thơm" ý nói quần áo không lành lặn thì cũng phải giữ cho chúng sạch sẽ, thơm tho, không được để quần áo bẩn thỉu hay có mùi hôi khó chịu, ảnh hưởng đến người xung quanh. Hai từ "cho" được nhắc lại ở hai vế có nghĩa là giữ lấy, nhắc nhở quyết tâm bảo vệ một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, nếu như chỉ dừng ở lớp nghĩa thực như vậy thì câu tục ngữ sẽ không có sự sâu sắc mà "Đói cho sạch, rách cho thơm" còn có ý nghĩa sâu xa, tế nhị hơn: Dù cuộc sống có bần cùng, khốn khổ, thiếu thốn, khó khăn đến đâu đi chăng nữa cũng phải giữ gìn cho mình một tâm hồn trong sạch, lương thiện, nhân cách cao cả. Câu tục ngữ không chỉ đơn thuần là nói đến cái đói, cái rách mà còn nói lên một chân lí, một triết lí sống đầy giá trị nhân văn.

Trong sự phát triển của xã hội hiện đại ngày nay, bên cạnh những tỉ phú, những thương nhân giàu có hay những công nhân viên chức có cuộc sống ổn định, còn có hàng nghìn những mảnh đời khó khăn, túng thiếu, nghèo đói, cơm ăn không đủ no, áo không đủ mặc. Họ sống một cuộc sống lay lắt cho qua ngày, qua tháng trong những ngôi nhà tạm bợ mà có thể bị gió bão cuốn đi bất cứ lúc nào không hay. Cái nghèo, cái đói cứ bám theo họ mãi và họ không thể thay đổi cuộc sống của mình vì họ không có khả năng hay họ chưa gặp được cơ hội để thay đổi? Người giàu hay người nghèo cũng đều có mong muốn cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc, ấm no. Người giàu lại muốn giàu hơn còn người nghèo thì với họ có miếng cơm manh áo là ấm lòng lắm rồi, vậy họ phải làm như thế nào? Có người tự lực đi lên bằng hai bàn tay trắng, lao động, làm ăn lương thiện và cố gắng giữ gìn phẩm giá của mình bằng mọi giá. Chắc hẳn bạn vẫn nhớ đến hình ảnh lão Hạc - một lão nông nghèo khó trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, là một người cha giàu lòng yêu thương con, chăm chỉ làm ăn nhưng hơn thế, điều ta cảm phục ở lão là phẩm chất cao đẹp, giàu lòng tự trọng của lão. Vì cố gắng giữ gìn số tiền dành dụm và mảnh vườn cho đứa con mà lão chấp nhận chọn cái chết đau đớn bằng bả chó để không phiền lụy đến những người xung quanh và không mất đi cái danh dự cũng như lòng tự tôn của một con người.

Nhưng bên cạnh đó, cũng có những người do túng quẫn quá, họ lại đi ăn cướp, ăn trộm và gây ra bao nhiêu tai họa cho xã hội; hay có những con người vì lòng tham vô đáy mà họ bất chấp dùng mọi thủ đoạn, mánh khóe để tham ô, hối lộ nhằm chuộc lợi cho bản thân; hoặc bất chấp nhân tính làm những điều xấu xa, thất đức để đạt được mục đích của bản thân. Chẳng hạn như trong buôn bán kinh doanh, vì muốn kiếm thêm lợi nhuận mà chủ cửa hàng có thể bất chấp mọi thứ để làm. Họ có thể nhẫn tâm nhuộm hóa chất vào thực phẩm nhằm bảo quản, giữ gìn chúng lâu hơn, chế biến thành các món ăn cho người khác mà không quan tâm đến sức khỏe của con người sẽ bị tổn hại nghiêm trọng bởi những hóa chất độc hại đó. Hành động của họ thật đáng lên án!

Trước thực trạng biến động của xã hội như vậy, câu tục ngữ "Đói cho sạch, rách cho thơm" mà cha ông ta đã đúc kết có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, nó đúng đắn ở mọi thời đại và mang đậm tính nhân văn. Và muốn làm được những điều như vậy, mỗi bản thân chúng ta cần tự nhận thức và rèn luyện cho mình, luôn nhắc nhở mình trước những cám dỗ của cuộc sống. Chỉ có tự mình trau dồi và rèn luyện những thói quen tốt thì chúng ta mới mong muốn có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Và càng lúc khó khăn nhất, lúc tưởng chừng như chỉ còn bước đường cùng thì nhân cách của mỗi người mới được bộc lộ rõ nhất.

Kinh nghiệm sống của ông cha ta từ xưa đến nay luôn là những kinh nghiệm quý báu và đúng đắn, thật vậy, với câu tục ngữ "Đói cho sạch, rách cho thơm" đã cho ta một bài học trong cuộc sống, nhắc nhở ta luôn sống tốt, sống tích cực từ suy nghĩ đến hành động, có như vậy cuộc sống của chúng ta mới thực sự có ý nghĩa. Dù hoàn cảnh có nghiệt ngã như thế nào đi chăng nữa, mỗi người cũng cần giữ cho mình một tâm hồn trong sáng, lối sống trong sạch, lương thiện và nhân ái để xây dựng cuộc sống văn minh, tốt đẹp hơn.

Phân tích câu 3 – Bài văn mẫu số 2

Trong cuộc sống, để có thể sống đẹp, sống tốt, sống đúng không phải là điều dễ dàng, nhưng cũng không phải là chuyện không thể. Giữa xã hội có nhiều vết nhơ hay trong một môi trường đầy cám dỗ, để có thể sống không hổ thẹn với lòng mình cần rất nhiều bản lĩnh. Bởi vậy cha ông ta đã có câu tục ngữ “Đói cho sạch, rách cho thơm”.

Câu tục ngữ “Đói cho sạch, rách cho thơm” bao gồm hai vế, vừa đối lập vừa bổ sung hỗ trợ cho nhau để hoàn thiện điều khuyên răn mà người xưa muốn nhắn nhủ.

Vế thứ nhất “Đói cho sạch” muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng dù rơi vào hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, cơm không có ăn thì cũng phải ăn uống cho sạch sẽ, không ăn uống mất vệ sinh. Như vậy vừa đảm bảo sức khỏe, vừa tạo thành thói quen về sau. Còn về tầng nghĩa chìm của vế này “đói” chính là chỉ sự nghèo khó, thiếu thốn còn “sạch” ở đây đã có hiện tượng chuyển nghĩa, không phải sạch theo ý nghĩa thông thường nữa. “Sạch” còn mang ý nghĩa chỉ tâm hồn, chỉ tấm lòng, chỉ cách suy nghĩ trong sáng, lành mạnh, không vướng đục.

Dù phải đối mặt với nhiều thiếu thốn, tiền bạc không có nhưng cũng phải giữ được tấm lòng thanh sạch, không làm những điều trái với lương tâm. Như vậy thì cuộc sống dù khó khăn cũng thấy vui vẻ và hạnh phúc. Bản thân sẽ không thấy hổ thẹn, không thấy day dứt. Dù nghèo nhưng cũng không được trộm cắp, dù muốn cũng phải cắn răng chịu đựng. Có rất nhiều người lâm vào hoàn cảnh bế tắc nên đã làm “liều’ đi ăn trộm, đi đánh bài bạc, đi làm những việc xấu xa để mong có tiền tiêu.

Thực ra đến bước đường cùng họ mới làm như vậy nhưng đây là điều không nên. Một lần rồi còn có lần thứ hai, thứ ba và cứ tiếp diễn như thế. Để tấm lòng mình thanh sạch, không bị phủ đục thì cuộc sống dù khó, dù thiếu vẫn thấy rằng mình thanh thản, không phải cắn rứt.

Vế thứ hai của câu nói “Rách cho thơm” ý chỉ dù rách nát, quần áo không lành lặn thì cũng không được để bẩn, phải để chúng luôn thơm tho, để người khác nhìn vào không kì thị và không chỉ trọ. Chúng ta vẫn thấy rất nhiều người nghèo đói, quần áo không có mặc nhưng họ vẫn luôn giữ được sự thơm tho, sạch sẽ. Ý thứ hai của từ “thơm” cũng như từ “sạch”. Ý chỉ những điều trong sáng, đúng đắn, luôn giữ đúng đạo nghĩa, không khiến cho tâm hồn phải bận tâm suy nghĩ nhiều.

Em đã từng thấy có hai mẹ con nghèo đến nỗi những bữa cơm cũng thiếu, nhiều khi còn phải nhờ sự giúp đỡ của mọi người nhưng vào căn nhà họ luôn sạch sẽ, tinh tươm. Đứa bé nhiều lúc đói, thấy người khác ăn cũng phát thèm nhưng kiềm chế và nhẫn nhịn chờ mẹ mang chút gì đó về.

Câu tục ngữ khuyên con người ta dù phải rơi vào thiếu thốn đến cùng cực thì hãy luôn giữ tấm lòng mình được thanh sạch, không bị những thứ xấu dụ dỗ, không bị những điều không nên lôi kéo vào. Bởi rằng nó sẽ tạo thành thói quen, thành một con đường không tốt về sau mà mọi người cứ mặc định bước vào.

Khi chúng ta giữ được sự trong sáng của tâm hồn thì cuộc sống thiếu thốn vật chất nhưng niềm vui và sự thanh thản trong tâm hồn vẫn luôn hiện hiển trong đôi mắt thánh thiện ấy.

Cha ông ta có câu “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” cũng nhằm nhắn nhủ điều này đối với mọi người. Sống đẹp, sống đúng là cách sống mà chúng ta cần vươn tới.

Đối với những người trẻ, đừng để bị cuốn vào vòng quay của xã hội mà đánh mất đi cái tốt đẹp của bản thân mình

Thật vậy, câu tục ngữ đã có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với cuộc sống của mỗi người. Giúp chúng ta sống tốt, sống đẹp, sống hạnh phúc hơn, trở thành người có ích cho xã hội.

Phân tích câu 3 – Bài văn mẫu số 3

Trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam nhân cách và đạo đức của mỗi người luôn được đề cao, là thước đo về giá trị của mỗi người. Qua câu tục ngữ “Đói cho sạch, rách cho thơm” ta càng thầm nhuần tư tưởng đó của ông cha ta

Câu tục ngữ gồm có hai về vừa là đối lập, vừa là bổ sung ý nghĩa cho nhau “Đói cho sạch, rách cho thơm”.

Câu tục ngữ không chỉ muốn nói về chuyện ăn, cách mặc của mỗi người mà qua đó còn muốn nêu cao giá trị đạo đức, giữ gìn nhân cách của bản thân mỗi chúng ta. “Đói cho sạch”- “đói” ngoài ý nghĩa chỉ sự thiếu thốn, đói khát còn mang ý nghĩa là rơi vào hoàn cảnh khó khăn về vật chất. “Sạch” ngoài ý nghĩachỉ sự sạch sẽ, ở trong tục ngữ này đã có hiện tượng chuyển nghĩa. Không còn mang ý nghĩa thông thường đó nữa, mà ở đây tác giả muốn nói tới tâm hồn, sự trong sáng trong suy nghĩ, cư xử văn hóa. Qua đó, cha ông ta ngoài việc muốn nhắn nhủ con cháu không chỉ trong cách ăn mặc, còn muốn nhắc nhở con cháu về một cách sống đẹp, văn hóa, dù có phải đối mặt với thiếu thốn về vật chất, khó khăn trong chuyện tiền bạc nhưng vẫn phải giữ được một tâm hồn trong sáng, biết cư xử phải đạo, không được làm những việc bất lương. Trong xã hội ngày hôm nay, không thiếu những trường hợp khi rơi vào hoàn cảnh túng quẫn, coi nhân phẩm nhẹ hơn tiền tài, danh vọng…….mà làm trái với lương tâm mình mà làm những việc bất lương như ăn trộm, ăn cắp, ……….nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Những trường hợp như thế, dù không chịu sự trừng phạt của phát luật cũng sẽ chịu sự trừng phạt của xã hội và sự day dứt của lương tâm mình. Nhìn lại câu chuyện Thạch Sanh, chúng ta có thể nhận thấy rõ hình ảnh Lý Thông tham lam xảo quyệt, dùng đủ thủ đoạn để trục lợi cá nhân, bỏ qua lòng tự trọng của bản thân mình……để rồi cuối cùng phải chịu sự trừng phạt thích đáng. Cùng nhìn về chiều dài lịch sử, qua bao thế hệ cha ông ta, chúng ta có thể nhìn thấy những tấm gương những con người có nhân cách và đạo đức tốt đẹp, mà lịch sử dân tộc tôn vinh tới tận ngày hôm nay. Thật vậy, lịch sử chẳng bao giờ có thể quên họ, bởi họ là những tấm gương sáng ngời về đạo đức và nhân cách đáng khâm phục. Đó là nhà văn Chu Văn An, thầy không chỉ dạy kiến thức, truyền thụ đạo lý … cho biết bao thế hệ học sinh mà hơn hết cái mà thầy để lại cho bao thế hệ tương lai là nhân học của mình mà thầy đã dùng tâm huyết cả đời khắc sâu trong trái tim mỗi thế hệ, những bài học đạo lý về làm người đó còn sáng ngời tới tận ngày hôm nay

Vế thứ hai của câu tục ngữ nói “Rách cho thơm” muốn nói dù quân áo bên ngoài có rách nát, không lành lặn thì vẫn phải giữ được sự thơm tho, sạch sẽ. Ý nghĩa của từ “thơm” trong vế thứ hai cũng giống như từ “sạch”, ý chỉ tới những điều trong sạch đúng đắn. Câu tục ngữ sử dụng hai động từ chính là “cho” mà không sử dụng bất kỳ một động từ nào khác để thay thế như “thì” hay “nên”….. Bởi “cho” là giữ lấy, là sự tiếp nối về phẩm chất, đạo lý được truyền thụ lại từ thế hệ này qua thế hệ khác. Câu tục ngữ đúc kết những đạo nghĩa tốt đẹp của ông cha ta. Nó thể hiện chân lý bao đời nay của bao thế hệ người dân Việt mà chúng ta có thể nhận thấy qua những câu ca dao tục ngữ khác như “Giấy rách phải giữ lấy lề” hay như “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, nhằm hương chúng ta tới sống đẹp, sống đúng, đó là cách sống mà mỗi người cần hướng tới

Nhân cách của mỗi người được thể hiện qua hành động và việc làm. Chúng ta có thể dùng hành động, việc làm của mỗi cá nhân để tạo ra vật chất nhưng nếu để mất nhân cách thì không thể dùng vật chất nào có thể mua lại được. Chính vi thế, nhân cách là sự phát triển, tôi luyện qua thời gan và thử thách

Thật vậy, câu tục ngữ có ý nghĩa rất quan trọng đối với cá nhân mỗi chúng ta. Từ đó, giúp chúng ta sống hạnh phúc hơn, giữ vững đạo nghĩa tốt đẹp được ông cha ta gìn giữ suốt bao đời, trở thành người có ích cho xã hội

Phân tích câu 3 – Bài văn mẫu số 4

Đạo lí làm người của dân tộc ta được thể hiện khá rõ ràng trong kho tàng ca dao, tục ngữ. Nói về lối sống thanh cao, trong sạch, giữ gìn phẩm giá trong hoàn cảnh khó khăn, tục ngữ có câu: Đói cho sạch, rách cho thơm.

Người xưa mượn hai yếu tố thiết thực nhất trong cuộc sống hằng ngày của con người là ăn và mặc để thông qua đó thể hiện quan niệm sống của mình. Trong xã hội phong kiến trước đây, người lao động chân lấm tay bùn thường bị giai cấp bóc lột khinh thường, rẻ rúng. Bọn chúng cho rằng mọi sự xấu xa trên đời đều bắt đầu từ sự cùng khốn này: Bần cùng sinh đạo tặc, hay Đói ăn vụng, túng làm càn.Thực tế cũng có một số người bị tha hóa trước hoàn cảnh nhưng đó chỉ là rất ít, còn phần lớn người lao động chân chính vẫn giữ vững nếp sống lành mạnh, trong sạch truyền thống của cha ông.

Lúc đói bản năng tự nhiên của con người trỗi dậy rất mạnh để bảo tồn sự sống. Liệu có còn đủ lí trí để giữ cho sạch sẽ? Khi nghèo nàn, rách rưới, mấy người còn nghĩ tới thơm tho? Không ! Câu tục ngữ này không định đề cập đến nghĩa đen mà cao hơn thế, nó nêu lên một triết lí sống, một quan điểm sống, một nề tảng đạo đức của nhân dân ta.

Câu tục ngữ lấy đói và rách là hai biểu hiện cụ thể của hoàn cảnh khó khăn trong đời sống vật chất của con người để tượng trưng cho cuộc sống gian truân, vất vả. Nước ta là một nước nông nghiệp, trước đây hơn 90% dân số sống bằng nghề làm ruộng. Quanh năm họ dầu dãi nắng mưa, đổ mồ hôi nước mắt trên đồng ruộng để làm ra củ khoai, hạt lúa. Cực nhọc trăm bề nhưng nghèo đói vẫn hoàn nghèo đói bởi sưu cao, thuế nặng, bởi chính sách áp bức, bóc lột tàn khốc của giai cấp thống trị. Đời người nông dân nghèo, hỏi có mấy khi được ấm no, vui vẻ?

Sống trong cảnh đói rách kéo dài triền miên như vậy, nếu không giữ gìn phẩm cách, con người sẽ rất dễ bị tha hóa về đạo đức. Trong hoàn cảnh ấy, những lời khuyên nhủ, những bài học nhân sinh là hết sức cần thiết. Người lao động khuyên nhau, nhắc nhở nhau hãy sống cho trong sạch, đúng với bản chất thiên lương, sao cho khỏi cúi xuống thẹn đất, ngẩng lên thẹn trời và trước hết là để cho lương tâm mình không bị cắn rứt bởi tội lỗi xấu xa.

Quan điểm này đối lập với quan điểm sống tiêu cực của giai cấp boc lột; là sự tự khẳng định và đề cao quan điểm sống thanh cao của người lao động. Không một uy lực nào, một cám dỗ nào có thể làm cho những con người chân chính khuất phục.

Trong sạch trong lối sống, trong nếp nghĩ. Thơm tho trên phương diện danh dự, đạo lí làm người. Điều đó đã được kết tụ trong cách sống cao thượng của những bậc chính nhân quân tử như Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến,… Quan niệm sống ấy là quan niệm sống cao đẹp của nhân dân ta từ ngàn xưa truyền lại. Nó giống như những bông hoa sen vươn lên trên đầm lầy với vẻ đẹp thanh cao và mùi hương thơm ngát.

Phân tích câu 3 – Bài văn mẫu số 5

Trong cuộc sống hiện tại cũng như thời xưa, vẻ đẹp bên ngoài là vốn quý, là niềm tự hào của mỗi con người. Song phẩm chất bên trong còn quý giá hơn nhiều. Trong kho tàng tục ngữ, cao dao Việt Nam có rất nhiều câu tục ngữ thể hiện điều đó. Và một tiêu biểu, điển hình, phổ biến nhất đó chính là câu tục ngữ: “Đói cho sạch, rách cho thơm”.

Câu tục ngữ có hai vế, đối rất chỉnh. tác giả dân gian đã mượn những thứ gần gũi, thiết thực với đời thường để biểu lộ những tư tưởng, quan điểm của những người dân lao động. Câu tục ngữ này mượn hình ảnh “đói” và “rét” để nói lên hoàn cảnh nghèo khổ, thiếu thốn của cuộc sống bấy giờ. “Sạch” và “thơm” là cách sống trung thực, không tham lam, biết giữ gìn phẩm chất trong sạch, không sa vào tội lỗi. Hai chữ “cho” có nghĩa là giữ lấy. Hai động từ đó là hai động từ quan trọng nhất trong bài, thể hiện hành động, thói quen, những biểu lộ của người dân lao động. Phải biết giữ gìn phẩm giá, nhân cách đó chính là bài học của câu tục ngữ trên. Đó cũng chính là quan điểm sống của người dân lao động hoàn toàn trái nghịch với cách sống của giai cấp thống trị.

Thời phong kiến xưa, xã hội đầy rẫy những bất công, rối ren, giai cấp thống trị nghiệt ngã, bóc lột nhân dân ta dưới nhiều hình thức, coi thường, khinh rẻ những người dân lao động. Theo bản năng của con người, “con giun xéo lắm cũng quằn”, đến mức đường cùng thì tự nhiên phải biết chống lại bằng bất cứ hành động nào, có mấy ai nghĩ đến việc giữ gìn phẩm chất, thanh danh. Ấy vậy mà những người dân lao động, đối với họ điều đó là quan trọng nhất, là mục tiêu để hướng tới, là động lực thúc đẩy để sống. Dù có bần cùng, đói khổ đến đâu thì ý chí kiên cường của họ vẫn luôn chiến thắng, niềm tin của họ vẫn không bao giờ tàn lui. Từ xa xưa, nước ta vốn dĩ là một nước gắn liền với đồng ruộng, nhân dân ta lam lũ cùng nắng mưa, giai cấp thống thị vẫn vắt kiệt sức của họ bởi những sưu thuế nặng nề, chính sách áp bức đến tận xương tuỷ. Trong hoàn cảnh như vậy, con người mà không có lập trường thì rất dễ bị nhơ bẩn về đạo đức. Những người dân lao động chỉ biết dựa vào nhau, thốt nên lời những kinh nghiệm của cuộc sống để khuyên nhủ nhau sống sao cho khỏi hổ thẹn với trời đất, sao cho khỏi cắn rứt lương tâm, danh dự, ám ảnh bới những tội lỗi xấu xa mà mình đã gây ra.

Nói kết lại, đối với người lao động thời xưa, vật chất không có gì, họ chỉ biết sống dựa vào ý chí, niềm tin, sự nỗ lực, phấn đấu. Nhờ vào những yếu tố đó mà họ đã vượt lên được số phận, biết sống vui vẻ, lạc quan, yêu đời, không một sự bóc lột nào có thể tước đi được tinh thần, lý trí của họ. Điều đó đã được đúc kết qua quá trình lao động sản xuất, cô đọng được qua từng suy nghĩ của mỗi con người. Quan niệm sống ấy thật cao đẹp, nó không chỉ là kinh nghiệm mà nó còn là lời dạy dỗ, khuyên răn, chỉ bảo, áp dụng cho tất cả mọi người.

Phân tích câu 4– Bài văn mẫu số 1

Trong cuộc sống của con người để trở thành một con người hoàn thiện, ngoài việc học tập tri thức ở nhà trường và sách vở, chúng ta còn có rất nhiều việc để học như “Học ăn, học nói, học gói, học mở”.

Vậy trước tiên phải hiểu được thế nào là “Học ăn, học nói, học gói, học mở”? “Học ăn” là học cách ăn uống từ tốn lịch sự; “học nói” là nói năng lễ phép, thưa gửi đàng hoàng và đặc biệt là không được chêm lời hay cướp lời còn “học gói, học mở” là học sự khéo léo trong động tác, trong công việc. Vậy tại sao mình lại phải học những thứ tưởng chừng như bản năng của con người trong khi có quá nhiều thứ cần phải học. Bởi đánh giá một ai đó không chỉ dựa vào kiến thức, vẻ đẹp về hình thể mà còn dựa vào cách bạn ăn uống, cách bạn nói chuyện, cách bạn xử lý công việc có thật sự là ổn thỏa hay chưa.

Mọi người thường nghĩ việc ăn đơn giản là cung cấp năng lượng cho bản thân nhưng trên thực tế thì không phải như vậy. Việc ăn uống một cách bừa bài, không có chế độ ăn uống khoa học có thể sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cũng như tiến độ làm việc của họ. Đặc biệt nó còn phần nào thể hiện tính cách cũng như trình độ văn hóa của bạn. Nếu như bạn thấy ai vừa ăn vừa nói sẽ gây khó chịu đối với những người xung quanh hay với những người ham ăn không hiểu đạo lí “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, người khác sẽ đánh giá bạn là người không biết tiết chế bản thân.

Việc học nói cũng như vậy, có những lời nói có thể làm cho người nghe cảm thấy ấm lòng . Cũng có những lời nói vu vơ, tưởng chừng đơn giản nhưng đã vô tình làm tổn thương đến người khác. Lời nói là thứ mà bản thân mình có thể kiểm soát và điều khiển nó một cách dễ dàng vậy vội gì trước khi nói ra không uốn lưỡi bảy lần để xem rằng những lời mà mình định nói sắp tới đây có ảnh hưởng đến bản thân hay bất kì ai hay không. Lời nói như chiếc dao hai lưỡi, nó có thể giúp bản thân, giúp người khác nhưng đôi khi có thể sẽ trở thành tai họa vô cùng to lớn. Mỗi lời bạn nói ra không phải với bất kì ai cũng vậy.Với bạn bè có thể là sự vô tư, phóng khoáng; với gia đình có thể là sự lễ phép, là những lời bộc bạch nội tâm nhưng trong công việc luôn luôn phải nghiêm túc và đứng đắn. Lời ăn tiếng nói thể hiện được thái độ, trình độ văn hóa, nó không chỉ phản ánh riêng bản thân bạn mà còn phản ánh những người xung quanh bạn bởi: “Mưu tầm mưu, mã tầm mã”. Có thể với bạn nó không hẳn là như vậy nhưng với người khác bạn chính là người không được dạy dỗ về cách ăn nói , cách ứng xử. Ăn nói lễ phép được mọi người quý mến, ăn nói lịch sự được mọi người kính nể, ăn nói thật thà được mọi người tin tưởng.

Ngoài việc học ăn, học nói ra con người ta còn phải học gói, học mở túc là học cách ứng xử sao cho vẹn cả đôi đường. Trong xã hội hiện nay đòi hỏi cần phải có những người chủ động, phải biết đối phó tất cả những tình huống có thể xảy ra. Ngay trong tất cả các cuộc thi nhan sắc, không chỉ chiến thắng về vẻ đẹp hình thể mà còn phải trả lời thật tốt những câu ứng xử thật tốt về những vấn đề trong xã hội hiện nay. Thử hỏi nếu như không có nền tảng kiến thức thật tốt, không được học cách ứng xử thì sao có thể trả lời được. Cũng có rất nhiều nghệ sĩ vì không có cách ứng xử đúng mực nên đã bị cư dân mạng chỉ trích, khiến cho sự nghiệp khó có thể thăng tiến như trước. Suy cho cùng việc học ăn, học nói, học gói, học mở là cách để chúng ta có thể rèn luyện bản thân trở thành những con người hoàn hảo trong xã hội.

Hiện nay khi xã hội ngày càng phát triển, chúng ta có một cuộc sống hiện đại, thoải mái tuy nhiên chính vì có cuộc sống vô lo, vô nghĩ vì bản thân lúc nào cũng được chiều chuộng mà đã khiến một số bạn trẻ có xu hướng không để ý đến những người xung quanh, chỉ sống riêng cho bản thân mình, căn bản không biết ứng xử, ăn nói với mọi người sao cho đúng mực.

Như vậy, câu tục ngữ: “Học ăn, học nói, học gói, học mở ” là lời khuyên răn chúng ta về cách sống . Thực hiện tốt lời khuyên trong câu tục ngữ chúng ta sẽ ngày càng sống tốt hơn đẹp hơn và trở thành con người hoàn thiện hơn.

Phân tích câu 4– Bài văn mẫu số 2

Con người từ khi sinh ra đến lúc trưởng thành, và thậm chí sau này nữa, thì việc học tập, tiếp thu tri thức là việc không bao giờ ngừng nghỉ. Học để hoàn thiện bản thân, để có những thành quả trên con đường thực hiện ước mơ. Người ta không phải chỉ học chữ, mà còn phải học cả cách ứng xử. Ông bà ta có câu tục ngữ khuyên nhủ rằng: "Học ăn, học nói, học gói, học mở".

Học tập là việc mà mỗi một con người phải luôn cố gắng thực hiện, để tiếp thu kiến thức, hoàn thiện bản thân, cống hiến cho quê hương đất nước. Ngoài việc học tập tri thức trên ghế nhà trường, con người còn phải học tập cách ứng xử đúng mực. Chính vì thế, ông bà ta có câu: "Học ăn, học nói, học gói, học mở". Câu tục ngữ trên là một lời khuyên vô cùng đúng đắn.

Đi vào tìm hiểu nội dung câu tục ngữ, ta thấy lời khuyên của người xưa thể hiện ở ba điều: Con người cần học cách ăn uống thanh lịch, học cách nói năng nhã nhặn và cách ứng xử khéo léo, đúng lúc đúng chỗ. Về lời khuyên con người phải "học ăn", ta có thể thấy thật không sai. Ăn uống là cách mà con người thể hiện trình độ văn hóa và sự thanh lịch của bản thân. Các nước trên thế giới đều có văn hóa ẩm thực riêng biệt. Điều đó cho thấy vai trò quan trọng của việc học cách ăn uống cho lịch sự. Người nhẹ nhàng, nho nhã thì cách ăn uống sẽ lịch sự đáng yêu. Ông bà ta có câu: "Ăn trông nồi, ngồi trông hướng", tức là phải có ý tứ trong bữa ăn, tùy theo tình thế mà ứng xử, để người khác có cảm tình và thêm tôn trọng với bản thân ta. Để rèn giũa tính cách cho con trẻ, các bậc ông bà, cha mẹ cũng luôn nhắc nhở về cách ăn uống sao cho nhã nhặn. Tất cả những điều đó cho thấy quả thật cần "học ăn" để hoàn thiện thêm tính cách con người.

Học ăn rồi thì nhất định phải "học nói", bởi lời nói là công cụ giao tiếp vô cùng quan trọng của mỗi con người. Lời ăn tiếng nói giúp cho mối quan hệ giữa người và người trở nên thông cảm, gắn bó hơn. Lời nói khéo léo, hòa nhã khiến cho người nghe thêm hiểu vấn đề, và từ đó, hiệu quả lời nói thêm nhiều, đem tới thành công cho người giỏi nói năng. Tổng thống Mỹ Obama được mệnh danh là một nhà chính trị có tài hùng biện. Ông cho rằng: "Lời nói có thể thay đổi thế giới". Ông bà ta xưa cũng có lời khuyên rằng:

Lời nói không mất tiền mua

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Thế mới biết "học nói" là một việc quan trọng chẳng kém gì học tập các tri thức khác. Mà học nói thì phải bắt đầu từ học sử dụng tiếng Việt cho đúng cho hay. Và cũng cần rèn luyện nhân cách cho tốt, cho đẹp. Bởi quả thật là lời nói phản ánh tính cách của con người rất rõ nét.

Câu tục ngữ còn khuyên con người nên "học gói, học mở". Trong cuộc sống, sẽ có rất nhiều tình huống phức tạp xảy ra, đòi hỏi chúng ta phải biết cách ứng xử khéo léo thì mới có thể giải quyết được chúng một cách êm xuôi. Những mối quan hệ giữa người và người, bên cạnh sự trung thực, thì cũng cần đến sự tế nhị. Có những sự việc mà đứng trước nó, ta nên biết cách "gói" lại cho gọn, chấm dứt phiền phức. Chẳng hạn như những mâu thuẫn xảy ra trong đời thường, nếu có thể thì chúng ta cần gói ghém lại cho khéo, tránh khoét sâu mâu thuẫn, nhất là trong mối quan hệ bạn bè chung trường chung lớp. Cũng có những khi, ta phải khéo léo "mở" lòng để đón nhận những tâm tình của mọi người xung quanh, để hiểu được bạn bè người thân, giúp đỡ, chia sẻ cùng họ những buồn vui ở đời. Việc "học gói, học mở" ấy cũng không nằm ngoài những quy tắc ứng xử như lòng biết ơn "ăn quả nhớ kẻ trồng cây", sự hòa thuận trong gia đình "anh em hòa thuận hai thân vui vầy", hoặc là lòng tôn sư trọng đạo "nhất tự vi sư, bán tự vi sư"...

Tóm lại, là học sinh, thuộc lớp người trẻ của đất nước, học tập luôn là nhiệm vụ trọng tâm. Mỗi chúng ta cần có phương pháp học tập đúng đắn, toàn diện, học tri thức và cả học tập cách ứng xử trong cuộc sống, học để làm người tốt, học để hoàn thiện bản thân về mọi mặt. Chỉ có như thế, chúng ta mới có thể gặt hái thành công, trở thành người hữu ích.

Phân tích câu 4– Bài văn mẫu số 3

Con người chúng ta ngay từ khi mới lớn lên tôi cũng vô tư không để ý gì tới những giá trị tưởng chừng nhỏ bé trong cuộc sống như câu nói “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Sau này mới thấy thực sự thấm thía là vì sao con người phải học rất nhiều thứ từ lúc mới sinh ra cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay.

Học ăn chính là học cách ăn uống, ‘học nói’ là học cách giao tiếp. Còn “học gói” đó chính là những kiến thức bó hẹp đã được vạch rõ ràng cụ thể trong khung chương trình hay ở trong một lĩnh vực nào đó nhất định. “Học mở” chính là việc ngoài những kiến thức đã có sẵn trong sách vở bạn phải học mở rộng ra bên ngoài.

Và vì sao khi sinh ra con người lại phải học rất nhiều thứ như vậy? Con người là tổng hòa của các mối quan hệ trong môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Đâu tiên là học ăn. Có lẽ rằng đây là một trong những việc mà con người phải học đầu tiên, học ăn mới có thể cho chúng ta sinh tồn được trên thế giới này. Hồi nhỏ khi học ăn chúng ta cứ nghĩ nó là một phần thuộc bản năng như khi lớn lên chúng ta lại phải suy nghĩ lại. Ăn như thế nào mới là đúng? Ăn cũng thể hiện được người đó là một con người như thế nào. Khi một người có cách ăn uống từ tốn cũng phản ánh được phần nào tính cách của họ. Ngược lại ta như thấy được nếu người nào có những thói quen ăn uống xấu như nhai nhồm nhoàm, vừa ăn vừa nói cũng đã gây ra những ấn tượng không tốt cho mọi người xung quanh. Cho nên chúng ta cũng phải học ăn như thế nào mới đúng. Khi đã học ăn xong thì lại học nói. Học nói cũng rất quan trọng, đầu tiên là học sao cho nói tròn vành rõ chữ. Nói trôi chảy lưu loát sau đó cao hơn đó chính là học nói sao cho “vừa lòng nhau”. Quả thật học nói rất quan trọng, bởi khi giao tiếp ta có thể nhận được nhiều kiến thức, cảm xúc của mọi người.

Vì vậy, học ăn học nói rất cần thiết. Ông bà ta có câu bói rất hay đó chính là:

“Lời nói chẳng mất tiền mua

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.

Đúng thật là vậy, tùy hoàn cảnh cũng phải tùy đối tượng mà chúng ta nói chuyện, cư xử khác nhau. Nếu như với bạn bè, ta có thể hồn nhiên cười đùa vô tư, nói có hơi quá đáng một tí thì dường như cũng chẳng ai trách vì họ hiểu mình đang đùa. Nhưng nếu như bạn đi làm nếu nói kiểu đó bạn sẽ mất điểm trong mắt của sếp và nguy cơ mất việc là rất cao. Rồi quan trọng hơn nữa đó chính là đối với người lớn hơn, các tầng lớp khác nhau cũng phải có cách hành xử riêng. Và các bạn cũng đừng để một người nghèo buồn vì cách hành xử khinh người của bạn, hay cũng đừng để người có chức có quyền xem bạn là một kẻ nịnh hót. Nói thì dễ làm mới khó. Nếu chúng ta chịu để ý một chút, để ý từ việc nhỏ như cách giao tiếp của những người chúng ta quen biết với nhau chúng ta sẽ học được nhiều điều rất hay ho đó.

Có thể nhận thấy được rằng chính kỹ năng sống không đâu xa mà nằm ngay trong những việc hàng ngày. Ta như thấy được những sự nói năng cho lịch sự, đàng hoàng, đem lại sự tin tưởng cho người khác cũng là một bài học cho chúng ta. Khi đi học, bạn chắc chắn cũng có thể hồn nhiên vui đùa với bạn bè nhưng bạn không được áp dụng hoàn toàn cái đó vào môi trường làm việc của mình. Ta cũng có thể khẳng định được môi trường làm việc nhiều tiếng cười sẽ vui vẻ, thoải mái nhưng nó sẽ khác với môi trường học tập rất nhiều đó. Bạn cũng cần phải biết để nói như thế nào cho đúng hoàn cảnh bạn nhé!

Bên cạnh đó bạn cũng hãy sống thành thật, không dối trá nhưng khéo léo trong cách giao tiếp. Cách ứng nhân xử thế của bạn cũng được phải được đề cao.

Con người cần phải “học gói” đầu tiên. “Học gói” chính là học thật chuyên sâu kiến thức chuyên môn, học sao cho thông những kiến thức cơ bản và để tăng thêm kiến thức cho mình thì phải mở mang thêm kiến thức để có thể hoàn thiện bản thân mình.

Có lẽ ta cũng phải khẳng định rằng chính nền giáo dục luôn luôn quan trọng đối với con người chúng ta. Khi chúng ta có kiến thức thì không chỉ trong giao tiếp, trong lối ứng nhân xử thế con người cũng sẽ khôn khéo hơn. Khi có kiến thức giúp cho con người hoàn thành được nhiều việc một cách thật nhanh chóng.

“Học ăn, học nói, học gói, học mở” là một lời dạy thất quý báu. Câu này của ông bà ta đã có cách đây rất lâu rồi nhưng đến ngày nay nó vẫn còn nguyên giá trị, lời khuyên răn. Ở đâu, thời điểm nào nó cũng có ý nghĩa và giúp con người ta ứng xử tốt hơn trong xã hội hiện nay.

Phân tích câu 4– Bài văn mẫu số 4

Học tập là sự nghiệp quan trọng và kéo dài đến suốt đời của mỗi con người. Học không chỉ là khoảng thời gian từ lớp một đến hết lớp mười hai hay đại học, không phải chỉ là những kiến thức sách vở mà nó còn bao hàm nhiều kỹ năng khác nhau. Dân gian ta có câu: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”.

Khi nhắc đến “học ăn, học nói” có lẽ ai cũng cười và cho rằng hai điều này thì ai chẳng biết. Từ khi sinh ra ta đã có bản năng ăn uống, đói thì khóc để được cho ăn, rồi nói thì chúng ta có thể bắt chước mọi người xung quanh khi chúng ta tập nói. Vậy tại sao ông cha ta lại nói rằng cần “học ăn, học nói”. Trong bữa cơm hằng ngày có lẽ chúng ta đã từng nghe ông bà, cha mẹ nhắc nhở rằng “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng” để răn dạy chúng ta khi ăn uống cần phải có phép tắc và để ý tới xung quanh. Khi có khách khứa chúng ta cần ăn uống lịch sự, không được nói chuyện, cười đùa và để bát đũa phát ra tiếng động lớn trên bàn ăn. Đúng thế trong văn hóa của chúng ta thì bữa ăn có những quy tắc có thể riêng trong gia đình, hay theo vùng miền. Cách ăn uống còn là khía cạnh để người khác nhìn nhận và đánh giá về tính nết của con người. Không chỉ vậy, văn hóa dùng bữa còn thể hiện địa vị, phong cách của một người. Vì thế trên thế giới có rất nhiều thương gia, những người có địa vị cao thường phải học những khóa học về cách dùng bữa, cư xử trên bàn ăn để hợp với nghề nghiệp hay địa vị của bản thân.

Bên cạnh “học ăn” thì “nói” cũng là một vấn đề cần phải học. Trong cuộc sống có những người giao tiếp tốt, có những người bộc trực, nói năng thô lỗ. Cách chúng ta dùng lời nói để giao tiếp với mọi người xung quanh là cách thể hiện tính cách, phẩm chất đạo đức của bản thân. Qua lời nói khiến mọi người có thể đánh giá về trình độ học vấn, về cả con người của người nói. Có câu:

“Lời nói chẳng mất tiền mua

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”

Đúng vậy, con người ta có khi rất dễ bị ảnh hưởng bởi những chi tiết nhỏ trong đời sống, nhất là lời nói trong giao tiếp. Có những người chỉ vì lời qua tiếng lại mà dẫn tới xích mích, đánh nhau. Hay có những người chỉ vì không khéo ăn nói mà bị người khác ghét bỏ. Lời nói có giá trị rất lớn nếu chúng ta biết cách “lựa lời” cho phù hợp với hoàn cảnh. Dân gian ta có câu: “Mồm mép đỡ tay chân” chính vì thực tế trong xã hội có rất nhiều người mặc dù năng lực làm việc có hạn nhưng do khéo ăn nói nên được mọi người yêu quý và giúp đỡ. Tuy nhiên “học nói” ở đây không phải là nói những lời hoa mỹ, quá lên so với sự thật thậm chí là nói dối mà là cách lựa chọn từ ngữ cho phù hợp với hoàn cảnh, nói khéo dựa trên sự thật và sự trung thực.

Bên cạnh “học ăn, học nói” thì cha ông ta còn răn dạy chúng ta cần phải “học gói, học mở”. Vậy “gói, mở” là học gì? Ở đây không chỉ mang ý nghĩa là đóng gói và mở một vật nào đó giống như khi chúng ta học cách gói một món quà. Trong cuộc sống có rất nhiều thứ chúng ta phải sắp xếp, thu thập và không phải ai cũng làm tốt nó. Vì thế cần phải học hỏi, quan sát tiếp thu để có lối sống ngăn nắp, để tạo ra những sản phẩm đẹp, để người khác ưng ý. Người ta nói “Xấu che tốt khoe” chính là để nói đến vế sau của câu tục ngữ trên. Mỗi người cần biết ứng xử hợp lẽ, khôn ngoan trong việc che đi những khuyết điểm và nâng cao giá trị của mình bằng những ưu điểm của bản thân. Che khuyết điểm không đồng nghĩa với giấu dốt mà phải lựa chọn đúng đối tượng, đúng hoàn cảnh.

Mỗi chúng ta cần trang bị cho bản thân rất nhiều kiến thức và kỹ năng để phục vụ cho công việc và cuộc sống. Vì thế quá trình học tập là quá trình không thể thiếu, nó diễn ra mỗi ngày và thậm chí là suốt đời. Học không phải chỉ những kiến thức khoa học trong sách vở mà còn là cả những thứ quen thuộc tưởng chừng như nhỏ bé đó là “Học ăn, học nói, học gói, học mở”.

Phân tích câu 4– Bài văn mẫu số 5

Từ ngàn xưa, có thể nói ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giữa người với người. Trong ngôn ngữ thì tiếng nói có vai trò hết sức to lớn để mọi người giao tiếp với nhau. Có nhiều câu ca dao, tục ngữ khẳng định tầm quan trọng của lời nói như: Lời nói gói vàng; Nói ngọt lọt đến xương; Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau; Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe…Bằng kinh nghiệm đúc kết được trong quá trình ứng xử, giao tiếp, để nhấn mạnh sự cần thiết của việc học nói, ông cha ta đã khuyên nhủ con cháu: Học ăn, học nói, học gói, học mở.

Trong cuộc sống hằng ngày, có rất nhiều điều con người phải học. Ăn là việc tưởng chừng dễ nhất, nhưng thực ra không dễ chút nào. Cách ăn uống phần nào thể hiện tính cách con người, cho nên muốn tỏ ra là người có văn hóa, chúng ta phải học ăn. Những bậc cha mẹ lúc kén con dâu thường xem xét rất kỹ về công, dung, ngôn, hạnh, mà cụ thể là đường ăn nết ở, lời nói, dáng đi sao cho đoan trang, khéo léo, dịu dàng, vừa mắt, vừa ý mọi người.

Muốn trở thành người tốt chúng ta phải học nhiều điều. Học nói có ý nghĩa rất lớn để con người tự hoàn thiện mình. Trong thực tế, vốn ngôn ngữ và cách sử dụng ngôn ngữ của từng người có khác nhau. Nó thể hiện trình độ tư duy và năng lực làm việc của mỗi người.

Sự thật cho thấy, con đường nhanh nhất gây được thiện cảm với người mà mình giao tiếp thì không gì tốt hơn là lời nói. Mà muốn đạt hiệu quả cao trong giao tiếp thì trước hết người nói phải hiểu điều mình muốn nói và nói sao cho người nghe hiểu được điều đó. Thiếu vốn từ, người nói sẽ gặp khó khăn khi diễn đạt. Muốn nói năng được trôi chảy và chính xác, chúng ta phải học cách nói. Trước hết là phải nắm chắc vốn từ mình đã có bằng cách phải nhớ được nghĩa của từ và cách sử dụng từ đó.

Khi nói, ta phải chọn từ cho thích hợp. Khi giao tiếp, ta không chỉ dùng từ, dùng câu mà còn dùng đến đoạn, có khi dùng cả văn bản để trao đổi ý tưởng với mọi người. Để giúp mọi người học nói được tốt, câu tục ngữ đã dùng hình ảnh học gói, học mở vừa cụ thể, vừa dễ hiểu. Muốn gói một món đồ, ta cần biết gói gì trước, gói gì sau, cũng như khi mở một món đồ, ta cần phải biết mở cái gì trước, mở cái gì sau. Vậy khi nói, ta cũng phải nên nghĩ xem nên nói điều gì trước, nói điều gì sau, luôn cân nhắc thận trọng, không nên bộp chộp, vội vàng.

Ca dao xưa đã khéo léo dạy mọi người cách nói năng sao cho dễ nghe:

Lời nói chẳng mất tiền mua,

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Lựa lời là lựa chọn từ ngữ thích hợp với đối tượng giao tiếp. Việc lựa lời thể hiện khả năng sử dụng ngôn ngữ của mỗi cá nhân. Tiếng Việt giàu đẹp và phong phú về mặt ngữ nghĩa. Hiện tượng đồng âm khác nghĩa khá phổ biến hoặc cùng một sự vật hay một hiện tượng lại có nhiều cách gọi khác nhau. Vì thế khi giao tiếp với đối tượng nào, ta phải có cách nói phù hợp với đối tượng ấy. Khi nói với người bề trên phải rất cẩn trọng trong việc lựa lời để thể hiện thái độ lễ phép, kính trọng. Với người dưới, ta phải nói sao cho đứng đắn, dễ nghe, dễ hiểu. Với bạn bè, ta có thể sử dụng từ ngữ thân mật. Lời nói làm vừa lòng nhau là lời nói tạo ra được sự cảm thông và hiểu biết. Một điều kiện không thể thiếu trong giao tiếp.

Một lời nói hợp cảnh, hợp tình sẽ làm cho mối quan hệ thêm tốt đẹp và việc làm thêm hiệu quả. Một lời nói hớ hênh, vô ý sẽ làm hỏng hết mọi dự định, dân gian thường gọi là vạ miệng. Chọn được những lời nói thích hợp chính là ta đã làm tốt việc lựa lời.

Mỗi người có một vố ngôn ngữ và cách diễn đạt khác nhau cho nên mới có người khéo nói, người vụng nói, người nói ngọt, người nói xẵng. Tuy nhiên, muốn có khả năng lựa lời thì chúng ta phải học nói. Trước hết là học ở những người thân trong gia đình, rồi học ở thầy cô giáo, bạn bè ở trường, ở lớp, học ở ngoài xã hội. Học cái hay cái đẹp trong cách dùng từ ngữ chính xác; trong cách đặt câu đúng ngữ pháp. Học lối diễn đạt giản dị, tự nhiên mà vẫn thể hiện được đầy đủ thông tin cần diễn đạt tới người nghe. Từ nói đúng, chúng ta cố gắng rèn luyện để có thể nói hay, tức là cách nói diễn cảm có sức thuyết phục đối với người nghe. Để diễn tả hiệu quả của cách nói này, tục ngữ có câu: Nói ngọt lọt đến xương. Ý nghĩa của từ ngọt ở đây chỉ sự nhẹ nhàng, khéo léo trong diễn đạt, chứ không phải sự cố tình làm ra vẻ ngọt ngào với mục đích xấu để huyễn hoặc, lừa dối người nghe. Một lời nói êm tai nhưng giả tạo không thể coi là một hành vi giao tiếp đúng đắn.

Xưa kia, ông cha chúng ta khẳng định lời nói thể hiện phẩm chất, trình độ của con người qua câu ca dao: Người thanh tiếng nói cũng thanh, Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu. Dân gian cũng nói: Nhất thanh nhì sắc, có nghĩa là con người ta đẹp trước hết ở giọng nói, tiếng nói, còn nhan sắc được xếp ở sau. Trong ứng xử hàng ngày, nhân dân ta coi trọng lời chào hỏi: Lời chào cao hơn mâm cỗ, ngụ ý quý trọng tấm lòng hơn vật chất, mà tấm lòng trước hết được thể hiện qua lời chào hỏi.

Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, lời nói lại càng quan trọng. Hàng hóa tốt, cửa hàng đẹp, nhưng người bán không lịch sự, niềm nở, đon đả thì cũng không thu hút được người mua. Cộng đồng mới, xã hội mới càng đòi hỏi mỗi chúng ta phải biết cách nói năng lịch thiệp, tế nhị.

Muốn đạt được thành công trong cuộc sống, chúng ta phải không ngừng học hỏi để nâng cao vốn sống, vốn hiểu biết. Có như thế mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thời đại tiên tiến. Biết bao nhiêu điều phải học mà trong đó, học nói là điều quan trọng và cần thiết vì nó tạo thuận lợi cho chúng ta khi bước vào đời.

Phân tích câu 5 – Bài văn mẫu số 1

Dân tộc Việt Nam ta tự hào là dân tộc với biết bao truyền thống tốt đẹp, quý báu luôn được gìn giữ và phát huy từ đời này sang đời khác. Một trong những truyền thống quý báu đó chính là truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, đây không chỉ là nét đẹp trong đạo lý người học mà còn là nhân tố quan trọng khẳng định nhân cách con người. Câu tục ngữ "Không thầy đố mày làm nên" đã răn dạy và nhắc nhở cho chúng ta ghi nhớ đến vai trò, công lao to lớn của người thầy đối với cuộc đời mỗi người.

Câu tục ngữ tuy có phần ngắn gọn, đơn giản nhưng lại vô cùng súc tích, mang nặng ý nghĩa giáo huấn. "Thầy" ở đây chính là người đã dạy dỗ, giáo dục cho chúng ta, thầy có thể là thầy giáo hay cô giáo, hay đơn giản là người chỉ bảo cho ta, bởi nhắc đến người thầy thì "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư" - một chữ đã là thầy, nửa chữ cũng là thầy. "Làm nên" chính là tạo dựng được sự nghiệp, tạo nên cơ đồ, có công danh và sự nghiệp lớn, nói đơn giản đó chính là đạt được đến thành công, thu hái được hoa thơm trái ngọt. "Không thầy đố mày làm nên" ý muốn nói nếu như không có người định hướng đúng đắn, dẫn dắt và chỉ bảo cho ta từng bước đi, từ những bước đơn sơ ban đầu đến những bước ngoặt quan trọng, dẫn dắt ta đi đúng đường, đúng hướng thì ta sẽ không bao giờ có cơ hội nhìn thấy tương lai tươi sáng chứ chưa nghĩ đến chuyện đạt được tới thành công.

Câu tục ngữ khẳng định vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của người thầy trong cuộc đời mỗi người, trải qua bao thời đại, câu tục ngữ vẫn luôn đúng vì người thầy vẫn mãi mang trên vai những trọng trách cao cả, ý nghĩa. Người thầy trên trường lớp không chỉ dạy cho ta biết bao kiến thức, cho ta được tắm trong biển cả tri thức nhân loại, dạy ta từ con chữ, con số đến những kiến thức vi mô, vĩ mô. Những kiến thức đó để ta hòa nhập, bước vào đời, ứng dụng vào cuộc sống và phục vụ cho chính bản thân mình. Thầy còn là người cha, người mẹ thứ hai dạy cho ta điều hay lẽ phải, dạy ta những bài học đạo đức, chỉ bảo ta cách sống sao cho đúng đạo lý làm người. Những ước mơ của bao thế hệ người học sinh cũng do bàn tay thầy ươm mầm hạt giống, ngày ngày tưới tắm và chăm sóc, để rồi cho chúng ta có điều kiện và cơ hội hiện thực hóa ước mơ của mình. Với bất cứ người học sinh nào, thầy cô cũng định hướng ước mơ, tôn trọng và động viên, tiếp thêm sức mạnh cho các em.

Chúng ta có thể trở thành những người thành công, thành đạt, sự nghiệp vẻ vang, hiển hách chính là nhờ công lao vĩ đại của người thầy, chính vì vậy phải có ý thức kính trọng và biết ơn với thầy cô. Luôn ghi nhớ lời răn dạy của thầy cô để rồi nhắc nhở bản thân phải học tập và làm việc sao cho xứng đáng một người con ngoan, trò giỏi, không phụ lòng mong mỏi, kỳ vọng của thầy cô. Những người không biết tôn trọng thầy cô chính là những người vô đạo đức, vô văn hóa, đáng lên án, đặc biệt họ sẽ không bao giờ có được thành công trong cuộc sống.

Người thầy mãi là những tiếng gọi kính trọng và biết ơn nhất, vai trò của người thầy đối với thế hệ học sinh nói riêng và với tất cả mọi người chúng ta nói chung là không thể phủ nhận được. Chúng ta không chỉ nên kính trọng, biết ơn thầy cô mà phải tôn trọng nghề giáo, phải tập trung chú trọng hoàn thiện, ưu tiên cho sự phát triển của nghề giáo

Phân tích câu 5 – Bài văn mẫu số 2

Từ ngàn xưa, ông cha ta vốn có truyền thống "tôn sư trọng đạo". Theo quan niệm "Quân, sư, phụ" thì người thầy luôn giữ một vị trí rất quan trọng trong xã hội, nhất là đối với sự nghiệp của người học trò. Bởi lẽ đó tục ngữ mới có câu: "Không thầy đố mày làm nên". Câu tục ngữ nhằm khẳng định vai trò của người thầy trong công tác giáo dục và nhắc nhở con cháu phải biết ơn, biết kính trọng thầy.

Ngày nay, với một thời đại mới mà khoa học kĩ thuật và nhu cầu vật chất của con người, của xã hội đang phát triển mạnh thì ta cần hiểu lời dạy trên như thế nào cho đúng?

Câu tục ngữ giản dị nhưng ta cũng nên hiểu cho chính xác ý nghĩa của nó. "Làm nên" ở đây có nghĩa là có được sự nghiệp, thành đạt công danh. Như vậy, nếu không có người thầy thì người trò không thể nào thành đạt được. Câu tục ngữ như một lời thách thức "đố mày", đồng thời cũng là lời răn dạy mang tính khẳng định vị trí, vai trò của người thầy trong sự thành đạt, làm được việc của người trò.

Thật vậy, thầy là người cung cấp kiến thức, hướng dẫn mở mang trí óc cho ta biết để ta biết được những điều hay, điều lạ. Lúc còn bé thơ, khi lần đầu tiên đến trường, thầy là người cầm tay ta nén nót từng chữ cái, đánh vần từng con số rồi dạy cho ta đọc vần, đọc chữ... dần dần ta mới có được những kiến thức, những hiểu biết cao hơn, rộng hơn như ngày hôm nay. Công ơn ấy có thể sánh với công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ; bởi cha mẹ có công sinh ta ra và nuôi dưỡng ta khôn lớn còn người thầy có công "khai hóa" trí não ta, dẫn dắt ta đến một tương lai tươi sáng.

Trước kia, theo lối học khoa bảng, người học trò hoàn toàn phụ thuộc vào một người thầy. Thầy dạy gì, trò học nấy. Người thầy là người quyết định tài năng và sự thành đạt của người trò. Vì vậy mới có Nguyễn Dữ học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phạm Sư Mạnh học trò của thầy Chu Văn An.... đã làm rạng danh cho người thầy. Cho nên ông cha ta dạy: "Không thầy đố mày làm nên" là không sai.

Ngày nay, để phù hợp với thời đại tiến bộ của khoa học, việc học tập có nhiều thay đổi. Người học trò học nhiều môn học và được nhiều thầy giảng dạy, hướng dẫn hơn. Giờ đây, người thầy đóng vai trò chủ đạo, nghĩa là chỉ truyền đạt kiến thức, hướng dẫn cho người học trò học tập nghiên cứu. Và kiến thức ấy có được tiếp thu, và áp dụng thực hành tốt hay không là ở vai trò của người học trò. Như vậy, người trò trở thành người chủ động. Hay nói cách khác, người học trò phải tự thân vận động và đây mới là yếu tố quan trọng quyết định sự thành đạt của người học trò. Vì lẽ đó, cho nên người học trò phải biết chắt lọc, sáng tạo những kiến thức, những hiểu biết mà ta có được chính là do công lao của người thầy bồi dưỡng vun đắp nên. Và những kiến thức ấy là những viên gạch tiếp nối, tiếp nối xây nên những nấc thang để ta vững bước đi lên trên đường đời. Hiểu được điều này, ta càng thấm thía câu tục ngữ "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư" mà ông cha ta đã từng nhắc nhở bao đời nay. Vì vậy, bổn phận của người học trò là phải biết ơn thầy cô giáo. Đó là đạo lý làm người, là hành vi của người có nhân cách. Đây cũng là nền tảng để xây dựng một xã hội văn minh tốt đẹp.

Thế nhưng hiện nay, trong xã hội ta còn biết bao kẻ "ăn cháo đá bát". Họ đã quên công ơn của thầy cô giáo, những người đã từng dạy dỗ, rèn luyện họ nên người. Những hạng người ấy đáng để cho người đời chê trách và phê phán. Thậm chí còn có những kẻ đối xử tệ bạc với thầy cô như chửi mắng, hành hung làm xúc phạm đến danh dự, đến nghề nghiệp của thầy cô giáo. Phải chăng đây là hành động biết ơn của những hạng người vô liêm sỉ?

Ngày nay, người thầy cũng được hiểu theo nghĩa rộng hơn - những người "dạy nghề". Bởi lẽ đâu nhất thiết sự thành đạt "làm nên" của người học trò đều phải là "mảnh bằng" là "học vị", mà mỗi người học sinh phải tự hướng đời mình, tương lai mình bằng một nghề nghiệp thích hợp và ổn định. Và nghề nghiệp đó cũng cần phải có người hướng dẫn, chỉ dạy mới làm nên được. Như vậy, dù ở lĩnh vực nào vai trò và vị trí của người thầy vẫn còn quan trọng trong việc dìu dắt hướng dẫn người học trò đi đến kết quả tốt đẹp. Và kết quả ấy có rực rỡ vinh quang hay không là do bản thân nỗ lực của người học trò. Bên cạnh đó, gia đình, bạn bè, sách vở và xã hội cũng là những yếu tố không kém quan trọng để góp phần vào việc "làm nên" ấy.

Biết ơn thầy, yêu kính thầy là nghĩa vụ thiêng liêng của những ai đã trải qua cuộc đời làm người học trò. Đó là tình cảm không thể thiếu được ở mỗi người chúng ta. "Không thầy đố mày làm nên" mãi mãi là lời nhắc nhở, giáo dục sâu sắc về việc rèn luyện nhân cách đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay.

Phân tích câu 5 – Bài văn mẫu số 3

Trong cuộc sống đạo lý tôn sư trọng đạo luôn luôn được đề cao bởi lẽ như vậy là do người thầy người cô có công lao rất lớn đối với mỗi chúng ta, họ dạy chúng ta những bài học hay về kiến thức cũng như những kĩ năng làm người tốt, và có ích cho xã hội, chính vì vậy dân gian mới có câu: Không thầy đố mày làm nên.

Ở câu tục ngữ không thầy đố mày làm nên mang nghĩa đen là nói về không có người thầy thì không thể nên người được, qua đó ý nghĩa sâu rộng của câu nói này muốn nói về sự tôn sư trọng đạo và lòng biết ơn đối với người thầy của mình. Thầy đã dạy dỗ chúng ta trong những trang giấy rồi dạy chúng ta là một người có ích cho xã hội, mỗi người chúng ta luôn luôn phải ghi nhớ công ơn của người thầy. Câu tục ngữ trên đã xuất hiện từ xưa đến nay bởi lẽ hình ảnh của người thầy luôn vang vọng và mang một ý nghĩa sâu rộng tới mỗi người, mỗi chúng ta luôn luôn phải ghi nhớ công ơn đó, bởi không có người thầy dạy cho chúng ta những bài học hay thì chúng ta không thể trở thành những người có ích cho xã hội được.

Mỗi người chúng ta luôn luôn phải ý thức được trách nhiệm của mình đối với người thầy, nó mang một ý nghĩa riêng và điều đó đã tác động rất lớn đến mỗi con người, mỗi chúng ta đều có thể thấy vai trò của người thầy từ xưa đến nay, từ những bước chân lững chững tới trường chúng ta đã học được những bài học từ thầy cô, từ bài học làm quen với các con chữ đến những hình ảnh quen thuộc trong phép toán từ hình tròn hình vuông..., lên cao chúng ta được học phép cộng trừ nhân chia, thường thì để dễ hiểu cô đã lấy ví dụ rất linh hoạt về những thứ mà học trò có thể tưởng tượng, những bài học đó đã thấm vào trí óc của mỗi chúng ta, nếu không có thầy cô dạy dỗ chỉ bảo liệu rằng chúng ta có biết được những điều đó hay không.

Câu tục ngữ trên đã được trải nghiệm trong cuộc sống của chúng ta và nó hoàn toàn đúng, nó không chỉ mang lại cho chúng ta những bài học đường đời mà còn dạy dỗ chúng ta những bài học làm người sâu sắc, nhiều câu tục ngữ khác cũng nói về vị trí của người thầy trong mỗi chúng ta "muốn sang thì bắc cầu kiều muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy", hàng loạt những câu tục ngữ hay nói về vai trò của người thầy, mỗi chúng ta luôn luôn phải biết ơn và có những sự thành kính sâu sắc đối với người thầy đã từng dạy dỗ chúng ta nên người, nhờ sự dạy dỗ đó mà chúng ta mới có thể trở thành những người có ích cho xã hội này.

Nhiều bài học đã mang lại những giá trị lớn lao cho chúng ta, từ những bài học từ sách vở thầy cô còn dạy dỗ cả những kiến thức từ thực tế, và đạo lý làm người, chúng ta không chỉ học được những bài học từ sách vở mà còn được học đạo lý làm người đó là một điều mang ý nghĩa lớn lao đối với mỗi chúng ta, nên làm những điều đó để cuộc sống của chúng ta trở nên tốt hơn, người thầy luôn chèo lái con đò trở nặng tri thức cho chúng ta, muốn phát triển hơn chúng ta cần phải yêu quý và có những sự biết ơn sâu sắc. Chúng ta bắt gặp trong cuộc sống này rất nhiều những trường hợp và điều đó đã mang lại cho họ nhiều giá trị cho cuộc sống này, cuộc sống trải qua muôn vàn những khó khăn, chính vì vậy nếu chúng ta biết tôn trọng những thành quả mà thầy đã dạy dỗ chúng ta sẽ trở thành những con người thực sự có ích cho xã hội này.

Nhiều thế hệ học sinh khi ra trường họ vẫn nhớ công ơn mà người thầy người cô đã từng dạy dỗ, để tri ân điều đó những ngày lễ tri ân ngày nhà giáo Việt Nam, họ đến thăm hỏi và quan tâm tới thầy cô đã từng dạy họ những điều hay, để đến ngày hôm nay họ thực sự trở thành một con người có ích cho xã hội, điều đó không chỉ làm cho họ tự hào về chính mình mà còn thực hiện và phát huy được truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc, mỗi chúng ta đều phải noi gương điều đó. Ngoài những con người biết quý trọng và thành kính với người thầy đã từng dạy dỗ thì lại xuất hiện những con người không biết quý trọng điều đó, khi dạy dỗ xong họ coi thầy cô không ra gì đó là những con người làm tụt lùi xã hội này.

Để khắc phục điều đó chúng ta luôn luôn phải rèn luyện bản thân để mình có thể trở thành một con người có ích cho xã hội, chính những điều đó làm cho chúng ta ý thức được trách nhiệm của mình.

Câu tục ngữ trên có ý nghĩa sâu sắc đối với chúng ta, đó là những bài học quý báu được chúng ta phát huy và lưu truyền một cách mạnh mẽ, để có được những điều đó chúng ta cần tôn trọng và phát huy truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc.

Phân tích câu 5 – Bài văn mẫu số 4

Người Việt Nam chúng ta có chỉ số thông minh cao, tính cách siêng năng, cần cù và có truyền thông hiếu học. Dù ở hoàn cảnh khó khăn hay thuận lợi, họ đều trân trọng và đề cao việc học. Trong kho tàng tục ngữ đa dạng, phong phú của dân tộc Việt Nam, có rất nhiều câu không chỉ đồng tình, biểu dương việc học mà còn truyền đạt những kinh nghiệm quý báu về việc học. Một trong nhiều câu tục ngữ ấy là: Không thầy đố mày làm nên. Ý nghĩa câu tục ngữ trên như thế nào?

"Thầy" là người làm nghề dạy học trong nhà trường nhưng cũng có thể hiểu "thầy" là người có kiến thức sâu rộng, có nhiều kinh nghiệm, sẵn sàng truyền đạt cho người ít kinh nghiệm hơn. Vậy nên, không "thầy", không được dạy dỗ, hướng dẫn, gợi ý, không được học thì con người không thể làm thành công bất kì công việc gì hoặc thành công thì gặp không ít gian nan, vất vả.

Do đó, chúng ta thấy rằng nhân dân ta luôn đề cao việc học. Trước khi "làm nên" bất kì công việc gì, dù lớn hay nhỏ, con người phải không ngừng học tập ở thầy để có kiến thức, có kinh nghiệm, thành thạo về thao tác, kĩ năng. Việc học không giới hạn ở chữ nghĩa, sách vở mà còn mở rộng trên những lĩnh vực khác nhau để có sự hiểu biết toàn diện. Chính vì vậy, phải biết quý trọng công lao của người thầy và của những người không quản ngại nhọc nhằn, khó khăn để bảo ban, chỉ dạy cho chúng ta.

Nhìn chung, mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực khác nhau trong xã hội đều phải có thầy dạy. Con người cần tầm sư học đạo:

Muốn sang thì bắc cầu Kiều

Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy.

Hay muốn nấu một món ăn ngon, muốn trồng lúa tốt, muốn vườn cây được bội thu, muốn biết nghề may vá, muốn hát đúng nhịp điệu, muốn lái tàu, lái xe,... cũng cần các thầy có kinh nghiệm, có chuyên môn chỉ dạy. Tuy nhiên, lời dạy của câu tục ngữ trên vần có phần chưa thỏa đáng. Câu tục ngữ quá xem trọng vai trò của người thầy, tuyệt đối hóa vai trò, ảnh hưởng, tác dụng của người thầy mà chẳng đề cập đến vai trò của người học. Mặc dù người thầy là nhân tố trung tâm trong giáo dục, của mọi ngành nghề nhưng không có nghĩa là "không thầy đố mày làm nên". Thật vậy, vai trò của người học không kém phần quan trọng. Dù người thầy có giỏi đến đâu, tận tình đến đâu đi nữa mà người học không tích cực, chủ động, chẳng chịu mày mò, kiên trì nghiên cứu, tự học thêm thì cũng không "làm nên". Thực tế, có rất nhiều người học, được thầy truyền đạt "một" nhưng lại "biết mười", trở thành những nhà phát minh, sáng chế đại tài hoặc trở thành những con người nổi tiếng. Tấm gương tự học của nhà bác học vĩ đại Newton (Niu-tơn) rất đáng để chúng ta khâm phục, học hỏi. Sinh ra trong một gia đình nông thôn ở nước Anh, mãi đến năm mười hai tuổi, cậu bé Newton mới được ra thành phố đi học. Thoạt đầu, Newton chỉ là một cậu học trò bình thường, sức học thua các bạn cùng lớp rất nhiều. Thế nên Newton tự đề ra cho mình một kế hoạch tự học tích cực và cụ thể, quyết tâm thực hiện cho bằng được. Tất cả những bài tập thầy giáo ra, cậu miệt mài làm hết. Bài học nào cũng học thật kĩ, nắm thật chắc. Cậu lại đọc thêm nhiều sách, nhiều khi mải mê đến quên ăn, quên ngủ. Quả nhiên, chỉ mấy tháng sau, cậu đã giỏi nhất lớp, được thầy giáo khen ngợi. Nhưng đến năm mười lăm, mười sáu tuổi, Newton phải thôi học về nông thôn sống với mẹ. Muốn hướng về công việc làm ăn, bà thường sai Newton và người giúp việc vào thành phố mua bán hàng. Nhưng cậu không thích thú gì công việc này cả. Cậu để mặc người giúp việc mua bán, còn cậu chỉ mua mấy quyển sách rồi kiếm chỗ ngồi ở gốc cây, đọc say sưa đến nỗi có lần cậu chẳng nhận ra ông chú mình đang đứng bên cạnh theo dõi cháu làm gì! Thấy cháu có năng khiếu đặc biệt, ông chú đã khuyên bà mẹ Newton nên cho cậu học tiếp. Thế là năm mười bảy tuối, Newton đã được vào học trường đại học. Ở đây, Newton say mê nghiên cứu hầu hết công trình khoa học của các nhà bác học. Vì vậy, sau này ông có nhiều phát minh có giá trị lớn, được cả thế giới ca tụng. Chẳng hạn, ông là người đầu tiên sáng chế ra kính thiên văn giúp con người nhìn thấy các vì sao xa xăm đế nghiên cứu vũ trụ bao la vô tận... Newton đã trở thành nhà bác học nổi tiếng của thế giới như thế đấy!

Ở Việt Nam, Mạc Đĩnh Chi cũng là tấm gương sáng về tinh thần tự học. Ngày xưa, cách đây gần bảy trăm năm, có cậu bé Mạc Đĩnh Chi, con nhà nghèo, người đen đủi, xấu xí. Tuy còn nhỏ, nhưng ngày nào cậu cũng vào rừng kiếm củi giúp đỡ cho cha mẹ. Gần nhà Mạc Đĩnh Chi có một trường học, các bạn trong làng đến học đông vui. Không có tiền ăn học nhưng cậu bé rất ham được học. Mồi lần gánh củi qua trường cậu đứng ở cửa sổ học lỏm. Nhiều ngày như vậy, thầy đồ thấy cậu bé nhà nghèo mà hiếu học nên cho phép cậu bé vào học. Mạc Đĩnh Chi nhanh chóng trở thành học trò giỏi nhất trường. Buổi tối, Mạc Đĩnh Chi mới có thì giờ đọc sách vì ban ngày cậu còn phải làm việc giúp gia đình. Nhà lại không có dầu thắp, cậu bé đã nghĩ ra cách bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng làm đèn lấy ánh sáng. Miệt mài học tập với ngọn đèn đom đóm ấy, chẳng bao lâu, Mạc Đĩnh Chi trở thành người học rộng tài cao, thi đồ trạng nguyên (khoa thi năm 1304).

Trên thế giới, còn biết bao tấm gương sáng như vậy nữa, chẳng hạn Eđixon, Gorki, Pasteur,...

Nhìn chung, bên cạnh sự giáo dục của người thầy, tinh thần tự học, tự rèn luyện, người học còn chịu sự chi phối bởi rất nhiều yếu tố như: gia đình, bạn bè, xã hội, đồng nghiệp,...

Cổ nhân có nói: "Người không học cũng như ngọc không mài", vậy nên việc học sẽ giúp con người có kiến thức và hiểu biết để đứng vững vàng trước cuộc đời. Muốn được như vậy chúng ta không chỉ học ở thầy mà phải tự học, học ở bạn bè và những người xung quanh. Chúng ta phải tích cực học theo phương châm "Học! Học nữa! Học mãi" (Lênin), để góp phần làm chủ tương lai của chính mình.

Phân tích câu 5 – Bài văn mẫu số 5

Trong xã hội, người thầy mang một vai trò rất quan trọng trong việc tu dưỡng, rèn luyện, hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách của lứa tuổi học sinh. Điều đó cũng được ông cha ta quan niệm, khẳng định từ hàng nghìn đời nay. Chính vì vậy trong kho tàng tục ngữ, ca dao dân ca Việt Nam có câu: "Không thầy đố mày làm nên" để bộc lộ rõ nét điều đó.

Câu tục ngữ trên mang hình thức thách đố nhưng bản chất lại là câu khẳng định, nó còn mang cấu trúc kiểu phủ định, thuộc loại câu hỏi tu từ. Hai từ: "thầy" - "mày", từ "mày" không có ý nghĩa hạ thấp giá trị học sinh mà để đi liền với chữ "thầy" cho vần và dễ nhớ. Câu tục ngữ này nêu lên vai trò quan trọng của người thầy đối với nền giáo dục và học sinh, đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta phải biết ơn, kính trọng thầy cô giáo. Không chỉ vậy, câu tục ngữ này còn mang giá trị truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam từ rất lâu đời.

Thầy không chỉ là người dạy dỗ chúng ta về kiến thức mà còn là người dạy ta đạo đức, phẩm chất, giá trị mỗi con người. Học chữ, học làm việc, tất cả mọi cái học đều phải có thầy. Có thể nói thầy như thế hệ đi trước, trải qua biết bao kinh nghiệm trong cuộc sống, nay truyền thụ lại kiến thức cho học sinh, mở đường chỉ lối, giúp ta có con đường đúng đắn nhất để đi. Công lao đó không gì sánh nổi. Những ngày đầu tiên bước vào lớp, thầy đã dìu dắt, dạy dỗ, chỉ bảo. Thầy dạy học đếm, học viết, học đánh vần. Lên lớp cao, thầy dạy cho chúng ta những điều sâu sắc. Suốt quá trình học tập thì thầy là người luôn sát cánh bên ta, trợ giúp, nâng đỡ, chắp cánh cho ta bay vào tương lai. Không một người học sinh nào có thể thành đạt vào đời mà không có sự kèm cặp của thầy. Tất nhiên là nếu thầy dạy cho chúng ta mà chúng ta không biết tiếp nhận, không biết vận dụng thì công sức của thầy cũng chỉ là không. Chính vì vậy chúng ta cần phải biết rằng tâm huyết của thầy dành cho chúng ta là hết mình nên chúng ta cũng phải nỗ lực, cố gắng, chịu khó để không phụ lòng những công ơn đó. Công lao của thầy đối với sự nghiệp sau này của học sinh là vô cùng lớn, nó chính là mầm mống của sự thành đạt. Khi một người thầy hết lòng vì học sinh thì đó chính là niềm đam mê yêu nghề của thầy và cũng là tư tưởng lớn trong nền giáo dục.

Chúng ta có được ngày hôm nay cũng chính là do sự dìu dắt của thầy. Thầy đã truyền thụ kiến thức, rèn giũa những phẩm chất cao quý tốt đẹp trong mỗi con người chúng ta để chúng ta trở thành những viên kim cương sắc bén, đã được gọt giũa, luôn toả sáng trong đường đời, và cũng chính điều đó nhắc nhở chúng ta hãy biết kính trọng người thầy ở mọi lúc mọi nơi, hình ảnh của người thầy phải đi vào sự tôn kính trong mỗi chúng ta. Hãy biết vận dụng vốn kiến thức của thầy đã truyền thụ kết hợp với khả năng vốn có của bản thân để tạo nên một sự thành đạt rực rỡ trong cuộc đời của mình. Đó chính là những gì thầy mong muốn, gửi gắm niềm tin ở ta. Và nó cũng thể hiện lòng tôn kính một cách sắc nét nhất đối với thầy. Câu tục ngữ này mang giá trị trường tồn cùng thời gian và trong bất kì hoàn cảnh nào thì nghĩa của nó cũng luôn được chấp nhận, khẳng định. Không chỉ vậy, câu tục ngữ còn mang hình thức giản dị, âm điệu vui nhộn, nhưng ẩn chứa trong đó là biết bao nỗi niềm, tâm sự của ông cha ta.

Nói tóm lại câu tục ngữ này muốn nói với chúng ta một điều sâu sắc nhất. Đó chính là hãy hiểu được vai trò giá trị của người thầy, hãy biết suy nghĩ một cách toàn diện nhất để có những thái độ bộc lộ sự kính trọng đối với thầy, không chỉ là lời nói, mà còn bằng hành động. Hãy thể hiện rằng, chúng ta là những con người văn minh, biết đạo lí làm người và xứng đáng là người con đất Việt.

Phân tích câu 6– Bài văn mẫu số 1

Câu tục ngữ đã đưa ra một phương pháp học tập tối ưu, mang lại sự hiệu quả cao hơn. So với người thầy bạn không dám hỏi và một số vấn đề bạn không hiểu nhưng học với bạn thì bạn có thể hiểu theo cách của bạn bằng nội dung thầy hướng dẫn.

Trong cuộc sống, việc học không bao giờ dư thừa, có thể học tập ở mọi lúc mọi nơi, không chỉ ở trường học thầy cô mà còn phải học hỏi từ bạn bè. Câu tục ngữ Học thầy không tày học bạn ý mang nhiều nghĩa khác nhau, khái quát hơn.

Học thầy ở đây là học những điều hay lẽ phải những kiến thức mà người thầy truyền đạt một cách logic. Học thầy là 1 việc làm cần thiết, thầy là người có nhiều kinh nghiệm, kiến thức vững để truyền đtạ cho chúng ta, học từ thầy những kiến thức bổ ích cho mình.

Học bạn là học cũng theo sách vỡ, sự chỉ dẫn của thầy nhưng học bạn có thể hcj được nhiều thứ, như học cách đi ra bên ngoài, thế giới xung quanh. Bên cạnh đó ta có thể hỏi bạn những kiến thức mà mình chưa hiểu với sự giản giải của thầy. đó cũng là một ý kiến hay cho sự học hỏi từ bạn.

Học thầy ko tày học bạn nó ko hề có ý phủ nhận sự học tập từ thầy giáo mà chính là 1 lời khuyên hết sức đầy đủ và đúng đắn: Học ko chỉ học từ những kiến thức sách vở, từ những bài giảng, chừng đó chưa đủ mà cần phải học thêm từ bạn bè, chính bạn bè sẽ là người tận tâm chỉ bảo những điều mà ta khó nói với thầy cô, và bạn bè cũng là nguồn động lực giúp ta có thể vươn lên trong học tập.

Không chỉ vậy đó còn là một các để ta ích ũy được nhiều kiến thứ hơn. Mang một cách khái quát về những kiến thức mà thầy và bạn đã chia sẽ cùng bạn. câu tục ngữ đã mang một ý nghĩa sâu xa, chúng ta cần phải tiếp thu một cách có hiệu quả trong học tập, công việc cũng nhưng sự hướng dẫn của thầy giáo bên cạnh đó là sự giúp đỡ của bạn.

Phân tích câu 6– Bài văn mẫu số 2

Học tập là quá trình tiếp thu tri thức diễn ra trong thời gian dài và học từ nhiều đối tượng khác nhau. Chúng ta có thể học từ ông bà, cha mẹ, từ thầy cô… Vai trò của thầy cô trong sự nghiệp học hành rất quan trọng nhưng bên cạnh đó chúng ta còn có thể học hỏi từ những bạn bè đồng trang lứa. Giống như dân gian ta có câu: “Học thầy không tày học bạn”.

Nghĩa đen của câu tục ngữ trên có nghĩa là trong nhiều trường hợp thì học từ thầy chưa chắc đã hiệu quả bằng học từ bạn bè. Nhiều người sẽ nhầm tưởng rằng câu tục ngữ nhằm hạ thấp vị trí, vai trò của người thầy. Đây là một quan niệm sai trái bởi câu tục ngữ không hề có ý định hạ thấp hay xem nhẹ vai trò của người thầy mà muốn khẳng định ngoài học tập từ thầy cô chúng ta còn có thể học từ bạn bè xung quanh để mở rộng phạm vi kiến thức, phát huy những tri thức thực tế của bản thân để hoàn thiện mình.

Trong một lớp học mặc dù cùng có xuất phát điểm, cùng được học trong một môi trường nhưng không phải ai cũng có thể phát triển giống nhau, tốc độ tiếp thu của mỗi người cũng khác nhau. Chính vì vậy ngay trong một tập thể lớp cũng có sự phân hóa thành người học giỏi, học kém. Bên cạnh đó chưa chắc người học giỏi đã có những kiến thức xã hội, có những trải nghiệm nhiều bằng người học kém vì thế để bổ trợ cho nhau thì chúng ta cần phải học hỏi từ bạn bè. Hơn nữa học tập không chỉ là tiếp thu những tri thức sách vở mà còn tiếp thu cả những kỹ năng sống, những hiểu biết xã hội nên việc học từ bạn bè, từ những người xung quanh là cần thiết và đúng đắn. Bạn bè còn là người gần gũi với chúng ta hơn thầy cô bởi trong một tập thể đông học sinh và một thầy cô lại chịu trách nhiệm về nhiều học sinh khác nhau nên không thể nắm bắt tình hình và quan tâm hết đến mọi người được nên bạn bè là người quan trọng và thích hợp cho chúng ta học hỏi. Có khi nhiều bạn thường ngại ngùng trước thầy cô, không dám thắc mắc hay hỏi han nhưng với bạn bè thì lại thoải mái không bị tâm lý e ngại, lo sợ. Từ đó chúng ta có thể dễ dàng đưa ra những hạn chế, yếu kém của bản thân để sửa chữa và tiếp thu những cái hay, cái tốt từ bạn bè. Không phải ngẫu nhiên mà ở trường học thường hay thực hiện phong trào đôi bạn cùng tiến hay đoàn kết tương trợ nhau trong học tập. Bởi nhà trường, thầy cô là những người nhận thức rõ hơn ai hết tầm quan trọng của việc học tập từ bạn bè đồng trang lứa của học sinh. Khi chúng ta chơi với một người bạn chăm ngoan, học giỏi, chúng ta sẽ có ý thức học tập rèn luyện hơn để cho bằng bạn, bằng bè, không bị so sánh. Hay khi chúng ta mắc một bài toán khó chúng ta có thể dễ dàng mở lời nhờ bạn giảng giải. Mỗi người chúng ta cần có ít nhất một người bạn tri kỷ để cùng học tập, cùng vui chơi và cùng tiến bộ. Bên cạnh đó cũng có không ít học sinh có cái nhìn sai trái về phương pháp học tập. Họ tự coi mình là trung tâm vũ trụ, tự coi mình là giỏi hơn bạn bè và không cần phải học hỏi thêm gì từ bạn bè nữa cả. Có thể thấy đó là những kiểu người tự cao, tự đại, kiến thức hạn hẹp. Tri thức là vô biên không ai có thể khẳng định là biết hết, nắm hết mọi thứ trong tay, bạn có thể giỏi hơn người khác kiến thức trong sách vở nhưng những mặt khác như cách ứng xử, kỹ năng thực hành, hiểu biết xã hội chưa chắc đã hơn những người học kém. Vì thế chúng ta không nên quá tự phụ về bản thân.

Qua câu tục ngữ đã cho ta thấy cái nhìn về phương pháp học tập không chỉ ở thầy cô mà còn ở ngay chính bạn bè của mình. Bên cạnh việc học tập trong sách vở, học từ thầy cô thì chúng ta còn cần mở rộng phạm vi và đối tượng để có thể tiếp thu được nhiều kiến thức, kỹ năng nhất, phục vụ cho đời sống.

Phân tích câu 6– Bài văn mẫu số 3

Như chúng ta đã biết, trong xã hội vai trò của người thầy đối với nền giáo dục là rất lớn. Sự học tập, tìm hiểu ở thầy là cần thiết. Nhưng chúng ta không chỉ dừng lại ở đó mà hãy biết học hỏi ở nhiều nơi, nhiều chỗ, học hỏi ở mọi phương diện để có thể bồi đắp , tu dưỡng thêm vốn kiến thức của mình. Chính vì vậy, tục ngữ Việt Nam ta đã có câu: “Học thầy không tày học bạn” để nêu lên, giải thích, làm rõ vấn đề đó.

Ở trường, ở lớp thì thầy cô là người dạy dỗ, chỉ bảo cho chúng ta những điều hay lẽ phải, nhưng đó mới chỉ là cốt lõi, cái chính mà chúng ta cần tiếp nhận. Ngoài giờ học, trong cuộc sống, vui chơi, giải trí, chúng ta cần mở mang kiến thức, hiểu biết, hoàn thiện bản thân, có những việc thầy cô không thể trực tiếp mà chỉ bảo cho chúng ta. Trong những trường hợp đó thì bạn bè – những người gần gũi với mình sẽ có thể giúp đỡ mình. Những kinh nghiệm của bạn bè sẽ được trao đổi cho nhau vào những lúc vui chơi hay chính những câu chuyện hàng ngày. Hơn nữa, khi trao đổi, học hỏi với bạn bè cùng trang lứa thì chúng ta sẽ cảm thấy được thoải mái, tự tin, tránh e ngại mà có thể hỏi kĩ, đi sâu vào vấn đề để hiểu biết. Và chữ “không tày” có nghĩa là không bằng, đó chỉ đúng nghĩa trong những trường hợp như trên.

Nhưng không phải vấn đề nào ta cũng nhờ hay hỏi người khác, vì không ai có thể ở bên ta mãi để giúp ta. Khi đó ta phải biết cách tự học vì vậy tự học có vai trò không kém phần quan trọng đối với mỗi cá nhân. Tự học giúp chúng ta bổ khuyết nền giáo dục ở trường, bắt kịp những kiến thức phong phú, mới mẻ, đáp ứng được nhu cầu của thời đại. Dù làm ngành gì, nghề gì cũng cần tự học thường xuyên. Nếu không chúng ta sẽ trở nên lạc hậu, cũ mòn. Đồng thời, bên cạnh việc đem lại những kiến thức, việc tự học cũng đem lại sự hứng thú, yêu thích lĩnh vực mà mình theo đuổi.

Bên cạnh những người biết tự học thì vẫn còn một số người không tự mình cố gắng, chỉ thích dựa dẫm vào người khác. Họ nghĩ rằng chỉ cần học qua loa, học cho có để đối phó với thầy cô, với các kì kiểm tra. Họ không biết rằng khi ra đời, tiếp xúc với xã hội nếu không có tinh thần tự học họ sẽ dễ bị xã hội đào thải, sẽ không kịp thời bổ sung những kiến thức mới, khó mà đứng vững giữa thế giới đang ngày càng tiến bộ này. Những người này phải bị xã hội phê phán và chê trách, có vậy họ mới nhận ra điều đó sớm và cố gắng học hỏi, vì chỉ có bản thân họ mới có thể thật sự giúp họ.

Gia đình và nhà trường nên giáo dục con em mình từ nhỏ nên biết cách tự học và sống tự lập, không ỷ lại vào người khác. Vì đó sẽ là nền tảng vững chắc cho tương lai sau này của mỗi người. Bản thân em cũng sẽ luôn tự giác học tập, không phải đợi “nước đến chân mới nhảy” vì tương lai mình là do mình quyết định không thể đợi người khác đến giúp.

Nói tóm lại, chúng ta không chỉ học nhờ thầy, nhờ bạn mà còn phải có tinh thần tự học. Vì vậy tinh thần tự học là một phần không thể thiếu đối với mỗi người. Có “nó” ta sẽ có được chìa khóa của sự thành công, chỉ cần ta biết cách sử dụng đúng đắn.

Phân tích câu 6– Bài văn mẫu số 4

Ở nhà trường phổ thông và kể cả các nhà trường khác thì người có quan hệ gắn bó với ta về phương diện học tập, sau thầy cô giáo, chính là bạn học của ta. Vì lẽ đó, bạn học có vai trò rất quan trọng trong quá trình học tập của học sinh.

Xét về mặt quan hệ giao tiếp trong xã hội cũng như về mặt tâm lí, mọi học sinh đều có nhu cầu cao trong giao tiếp bạn bè. Khao khát được hoạt động chung với nhau, mong muốn được bạn bè tôn trọng, nhìn nhận và rất sợ bạn bè xa lánh, tẩy chay. Tục ngữ có câu: “chim bay có bầy”, “đi buôn có bạn”, “đi bán có phường”…thì nhu cầu về quan hệ bạn bè là nhu cầu chính đáng, đó là quyền hành động độc lập của học sinh. Nhà trường, các thầy cô giáo cần tạo điều kiện cho học sinh phát triển quan hệ giao tiếp, hợp tác trong tập thể, nhưng cần hướng dẫn, uốn nắn theo hướng phục vụ tốt cho mục tiêu giáo dục, trên tinh thần: “chọn bạn mà chơi”, tránh những trường hợp có ảnh hưởng xấu kiểu “gần mực thì đen”.

Xét về phương diện giáo dục – Bạn bè là người đồng hành thân cận với ta trên con đường học vấn, là chiến hữu cùng sát cánh với ta trên mặt trận chiếm lĩnh tri thức. Bạn và ta cũng phải luôn phấn đấu trong học tập, cùng phải vượt qua các thử thách trong việc rèn luyện bản thân, kiểm tra, thi cử… để cố gắng vươn lên trong học tập, cùng mong sao cho đi tới đích.

Xét về phương diện học tập. Bạn là người trợ thủ đắc lực, là người hợp tác chặt chẽ với ta trong công tác lao động trí óc, vận dụng kiến thức, khám phá tri thức mới, chia sẻ cùng ta những vướng mắc, ưu tư trong quá trình tìm kiếm đáp án, trong học tập.

Xét về phương diện tình cảm. Bạn học là người gần gũi với ta, dễ đồng cảm với ta vì có nhiều điểm tương tự: cùng trường lớp, cùng chương trình học tập, hỗ trợ nhau trong công việc hằng ngày tại lớp cũng như ở nhà. Vì thế, sự hợp tác không phải chỉ trong học tập, mà còn ảnh hưởng, còn tác động lên bản thân ta về tinh thần, về tình cảm, cùng ta chia sẻ quan điểm, niềm vui, nỗi buồn. Người học có thể tìm thấy ở bạn những điểm giống mình, một “cái ta” thứ hai, qua đó, quan hệ bạn bè ngày càng gắn bó. Bạn trở thành động lực kích thích ta, thúc đẩy ta, tạo niềm hứng khởi trong học tập, thi đua, học tập để cùng tiến bộ. Dù xét trên góc độ nào thì mối quan hệ bạn bè trong học tập, về cơ bản vẫn là mối quan hệ hợp tác.

Mặc dù đã xác định được việc học tập phải lấy tự học là chính nghĩa là cần tăng cường mạnh mẽ việc các thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và năng lực của mỗi học sinh. Tuy nhiên, trong học tập, không phải luôn luôn mọi tri thức, kĩ năng, phương pháp, thái độ đều được hình thành bằng việc hoạt động thuần túy cá nhân. Việc hợp tác học tập trong tập thể có những ưu điểm, những mặt tích cực của nó mà ta cần vận dụng trong quá trình học tập cụ thể là học với bạn.

Lớp học là môi trường giao tiếp giữa “thầy với trò”, “giữa trò với trò”, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa cá nhân trên con đường đi tới chân lý, đi tìm tri thức. Trong lớp học, thông qua các câu hỏi, các vấn đề mà thầy nêu ra, thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được điều chỉnh, khẳng định hay bị bác bỏ, vấn đề được làm sáng tỏ dần lên, qua đó, người học được nâng lên một trình độ mới, bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi cá nhân và của tập thể lớp. Mỗi người trong lớp sẽ học được từ các bạn khác trong cả lớp. Đó chính là điều mà cố nhân đã nêu ra: “Học thầy không tày học bạn”.

Mọi thành công của con người đều là sự kết hợp của kinh nghiệm, sự cố gắng của bản thân với tri thức lãnh hội được từ thầy, từ bạn, từ sách và từ cuộc sống. Ngày nay, chúng ta đang sống trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng thông tin, tri thức lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Con người đã biết sắp xếp, lưu trữ, tổ chức kiến thức và trí tuệ của loài người, và đưa lên mạng truyền thông và làm cho chúng có thể được khai thác sẵn sàng với bất cứ ai trên Trái đất này.

Việc học và rèn luyện trí tuệ, không phải là nhồi nhét cho đầy óc các kiến thức. Mong rèn luyện trí tuệ thì phải tự suy nghĩ: suy nghĩ trên tri thức của nhân loại,trên kinh nghiệm của người khác và trên thực nghiệm của bản thân, những tri thức, nguồn thông tin vô tận, người học cần thường xuyên khai thác để tiếp thu, tiêu hóa, vận dụng rồi xử lí để tổng hợp lại thành tài năng của chính mình.

Hãy nắm bắt lấy trí thức, đó là vũ khí sắc bén, vô cùng quý giá và hữu hiệu, sẽ giúp ta thành đạt trên con đường học vấn cũng như trên đường đời trong kỉ nguyên tri thức này.

Phân tích câu 6– Bài văn mẫu số 5

“Không thầy đố mày làm nên” là coi người thầy giáo có vai trò quyết định tuyệt đối trong quá trình học tập, trong sự rèn luyện thành người của người học sinh thi đúng là hơi quá. Tuy người thầy giáo có vai trò rất lớn trong sự thành đạt, làm nên của học trò mình nhưng không phải là quyết định tất cả. Chính nhờ thầy là bậc đàn anh đi trước truyền đạt lại mà học trò là người đi sau mới có được các kiến thức mới mẻ, mới hiểu ra bao điều hay lẽ phải. Thầy giáo hướng dẫn cho học trò từng bước đi lên vững chắc hơn, nhưng chỉ có sự làm việc của người thầy thôi chưa đủ. Bên cạnh sự tận tâm hướng dẫn của người thầy đòi hỏi có sự nỗ lực chủ quan của trò. Người thầy dù có hết lòng hết sức và truyền đạt hay cách mấy mà trò thiếu ý thức, không chịu cố gắng học tập thì cũng không sao làm nên được. Hơn nữa, chỉ học ở trường thôi chưa đủ. Học trò còn phải học hỏi thêm ở cuộc sống ngoài xã hội trong gia đình và cả bạn bè nữa.

Trái lại, nếu ta khẳng định: “Học thầy không tày học bạn” thì đúng là quá hạ thấp vai trò người thầy và đề cao quá đáng vai trò của bạn bè trong quá trình tiếp thu kiến thức và rèn luyện. Đúng ra, bạn bè chỉ có thể đóng vai trò giúp đỡ, hỗ trợ, trao đổi thêm để cùng tiến bộ chớ nếu không tày thì không ổn, là quá cường điệu. Vả lại, bạn bè chỉ giúp đỡ được nhau khi có sự bản ban và hướng dẫn của thầy giáo, khi bạn bè biết thương yêu, thông cảm và đoàn kết với nhau, có cùng chí hướng, cùng quyết tâm nỗ lực đi lên. Khi ấy học bạn mới mong có kết quả được. Trong việc học tập của mọi người đâu phải lúc nào hay bất cứ ai cũng có thể gặp được bạn tốt sẵn sàng giúp đỡ mình một cách chân thành, vô tư. Thành ra coi nhẹ vai trò, tác dụng của người thầy giáo và quá đề cao việc học tập ở bạn bè và kết luận rằng học bạn có kết quả hơn học thầy là không chính xác.

Thấu suốt ý nghĩa của hai câu tục ngữ trên ta không thể hoàn toàn tán thành câu nào, bỏ qua câu nào. Phải biết khéo léo vận dụng cả hai câu vào quá trình học tập của mình. Cả hai câu tục ngữ trên sẽ bổ sung cho nhau về mặt ý nghĩa và đem lại cho chúng ta bài học bổ ích trong việc rèn luyện để vươn lên của mình. Ta phải xác định vai trò của người thầy giáo dối với việc hướng dẫn dạy dỗ chúng ta. Muốn làm nên, nghĩa là thành đạt, chủ yếu là ta phải học ở thầy, nhưng về phía bản thân phải có sự nỗ lực phấn đấu không ngừng và đồng thời phải biết học hỏi thêm ở thực tế cuộc sống ở gia đình và đặc biệt là ở bạn bè là những người luôn gần gũi sát cánh bên ta trong việc học tập. Phải làm sao tạo được tình đoàn kết tương thân tương ái trong bạn bè để hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong học tập và rèn luyện. Có như vậy mới mong đạt được kết quả tốt đẹp được.

Tóm lại, cả hai câu tục ngữ trên nếu đứng riêng ra thì mỗi câu đều không được đúng hoàn toàn và nhìn bề ngoài có vẻ mâu thuẫn nhau. Nhưng nếu chúng ta đi cùng với nhau chúng ta sẽ nhận được từ chúng một lời khuyên đầy đủ nhất, đúng đắn nhất. Phải coi trọng việc học thầy, đồng thời cũng phải kính trọng thầy đúng theo tinh thần tôn sư trọng đạo của cha ông: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Bên cạnh đó, cũng phải biết thương yêu, đoàn kết, khiêm nhường học hỏi ở bạn bè và cùng giúp đỡ nhau tiến bộ.

Phân tích câu 7 – Bài văn mẫu số 1

Câu tục ngữ ngắn gọn, hàm súc như một lời nói chân thành, tự nhiên khuyên con người ta phải biết thương yêu đồng loại như yêu thương chính bản thân mình, đồng cảm và yêu thương người khác, coi nỗi đau của người khác như nỗi đau của mình để từ đó biết chia sẻ, cảm thông.

Tác giả dân gian khéo léo sử dụng biện pháp nghệ thật so sánh "thương người" với "thương thân" muốn nhấn mạnh nếu ta thương bản thân mình như thể nào thì hãy thương những người xung quanh ta như thế.

Như chúng ta đây thân thể của mỗi người, ai cũng biết chăm sóc, coi trọng nó. Mỗi khi ta bị đau do trầy xước, ngã hoặc chỉ là cơn đau nhẹ cũng khiến ta phải quan tâm, lo lắng.

Thấu hiểu được nỗi đau khi mình mắc phải sẽ giúp ta cảm thông với nỗi đau của người khác. Nếu như người xung quanh mình không may gặp khó khăn, hoạn nạn thì ta nên giúp đỡ, quan tâm họ như chăm sóc, yêu thương chính bản thân mình vậy.

Ai trong chúng ta cũng biết: sống trong xã hội không ai sống đơn độc một mình mà hợp thành một tập thể, một cộng đồng. Vì vậy ông ca ta đã đúc kết câu thục ngữ: "một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ".

Khi chỉ một con ngựa đau thì tất cả mọi con ngựa đều bỏ hết cỏ như muốn cảm thông cho con ngựa đau đó. Câu tục nghữ thể hiện rõ tinh thần đoàn kết, yêu thương nhau. Cũng giống như con người vậy, khi một thành viên trong tập thể gặp khó khăn thì toàn thể mọi người dốc hết sức mình giúp đỡ cho thành viên đó vượt qua.

Trong gia đình hai anh em có hòa thuận, bố mẹ mới vui lòng. Bởi những người anh, người em chẳng khác nào như chân với tay, họ là những người cùng huyết thống cùng uống chung dòng sữa của mẹ, được cha che chở, yêu thương.

Do vậy, khi có ai gặp hoạn nan, mọi người không nên dửng dưng ngó lơ cho qua chuyện mà lúc này "chị ngã em nâng" mói là việc cần thiết nên làm.

"Tương thân tương ái" là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta qua những năm tháng kháng chiến gian khổ trường kì và cam go. Cả nước đều chung một lòng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Hậu phương tăng gia sản xuất, chở vũ khí, hoàng hóa, thuốc men ra mặt trận, ngoài tiền tuyến xa xôi, đảm bảo đủ lương thực và nhu cầu cho các chiến sĩ.

Và không phụ lòng tin của nhân dân và nhất là tinh thần đoàn kết, yêu thương đồng bào máu mủ ruột thịt của mình, cả đất nước ta đã đi đến những thắng lợi vẻ vang.

Những việc làm ấy đã bộc lộ rõ tấm lòng "thương người như thể thương thân" mà ông cha ta đã dạy. Quả đúng như vạy, câu tục ngữ cho ta một bài học về đạo lí nhân nghĩa yêu thương người khác như thương yêu chính bản thân mình, hiểu và thông cảm cho nỗi đau của người khác, đó mới là việc làm tốt cho chúng ta noi gương và học tập.

Là một học sinh, chúng ta cần phát huy được truyền thống tốt đẹp ông cha ta đã truyền lại cho những thế hệ đi sau.

Phân tích câu 7 – Bài văn mẫu số 2

Nhân dân Việt Nam vốn từ xưa đã có tinh thần đoàn kết gắn bó vững mạnh, cùng với đó là những giá trị tinh thần được đúc kết từ hàng ngàn năm lịch sử. Những truyền thuyết về nòi giống “con Rồng cháu Tiên” hay những câu chuyện được đưa vào trong giáo dục cũng trở nên thiết thực và hữu ích cho thế hệ sau này. Câu tục ngữ “ thương người như thể thương thân” quả thân là một câu có sức răn dạy to lớn và là một trong số những câu tục ngữ nhằm dạy dỗ con cháu những bài học làm người quí giá

Không chỉ có một câu nói về tinh thần yêu nước thương nòi,mọi người cùng chung tay, đoàn kết yêu thương lẫn nhau mà còn một số câu ca dao cũng đúc kết tinh thần như vậy:

“ Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”

Hay những câu đã xuất hiện từ lâu, trở thành một chuẩn mực đạo đức và lối sống cho mọi người như:

“ một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”

Sống trong xã hội này,cùng là đồng loại không thể dửng dưng khi nhìn đồng loại của mình chịu thiệt thòi khó khăn hay cả ức hiếp được. Câu tục ngữ thương người như thể thương thân cũng có ý nghĩa tương tự như vậy.

Thương thân chính là biết yêu chính bản thân mình, xót xa cho số phận của mình khi rơi vào những hoàn cảnh khó khăn vất vả. Những lúc đó con người ta khốn đốn dễ rơi vào tình trạng nhạy cảm lo nghĩ và buồn tủi. Không một ai trong chúng ta không biết thương yêu bản thân mình, đôi khi sự yêu thương bản thân đó còn khiến chúng ta đi đến sự ích kỉ, chỉ muốn mọi lợi ích cho bản thân mình thôi.

Thương người chính cũng là thể hiện sự tôn trọng va trọng lợi ích của người khác như đối với chính bản thân mình. Họ là những người sống quanh ta; là anh em, cha mẹ, xóm giềng cùng chung quê hương, đất nước. Thương người như thể thương thân có nghĩa là ta yêu quý bản thân ta thế nào thì hãy chia sẻ, cảm thông, thương yêu người khác như thế. Nếu bản thân ta đã từng trải qua đớn đau, bệnh hoạn, ngặt nghèo thì khi thấy người khác lâm vào cảnh ngộ tương tự, ta hãy thương xót, cảm thông, giúp đờ, quan tâm đến họ như dôi với chính ta vậy.

Câu tục ngữ khuyên chúng ta sống với một tấm lòng trong sáng, một trái tim nhân hậu và giàu đức hi sinh mà tất cả những điều ấy là kết quả của một quá trình tu tâm, dưỡng tính lâu dài.

Xã hội là một thực thể bao gồm rất nhiều con người ,và rất mối quan hệ phức tạp nhưng thực chất nó lại khăng khít có mối quan hệ gắn bó với nhau.chúng ta không thể sống một cuộc sống lẻ loi,cô độc, vì muốn sống vui vẻ chúng ta vừa phaỉ chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn với người khác. Môt khi trút đưuọc tâm sự mọi người sẽ thấy dễ chịu hơn rất nhiều. Đó là môi quan hệ máu thịt thiêng liêng sống chết có nhau. Ngay từ thời xa xưa ông bà đã dạy dỗ bằng những lời ru êm dịu bên nôi: Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng, một mẹ chớ hoài đá nhau. Anh em như thể tay chân, Rách lành đùm bọc, khó khăn đỡ đần. Chị ngã, em nâng. Tay đứt ruột xót…

Với câu tục ngữ này chúng ta phải hiếu thảo với cha mẹ giống như chúng ta vẫn được dạy về đạo lí làm người đó. Công ơn cha mẹ dưỡng dục sẽ không bao giờ báo đáp hết, nhưng hãy nhớ về nguồn cội, sống và ghi nhớ công ơn của những người dưỡng dục ta nên người

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con…

Những điều nhân nghĩa ấy như dòng sữa ngọt ngào, dần dần thấm vào máu thịt, vun đắp, bồi dưỡng tâm hồn của mỗi chúng ta.

Bên cạnh đó thấm nhuần ý nghĩa của câu tục ngữ chúng ta càng phải biết cảm thông giúp đỡ những nguười khác, có hoàn cảnh khó khăn và vất vả hơn chúng ta. Chính vì “ một nắm khi đói bằng một gói khi no” những nghĩa cử của chúng ta là đang chính góp cho những số phận nghèo khổ, để tất cả mọi người được sống sung túc hơn. Mỗi cá nhân phải hòa nhập cộng đồng, cùng chia sẻ vui buồn, sướng khổ với mọi người. Tục ngữ có câu : Không ai nắm tay suốt ngày tới tối; hay:

Sông có khúc, người có lúc “ là ý nói trong cuộc đời, khó ai có thể thuận lợi, vuông tròn mọi lẽ. Cho nên trước hết mình phải sống tốt với mọi người thì mọi người mới đối xử tốt lại với mình.

Từ xưa đến nay, câu tục ngữ này được nhân dân ta thể hiện rất rõ nét.Thực tế cho thấy nhân dân ta đã sống theo quan điểm ấy tự lâu đời. Ở đâu có người gặp hoạn nạn, thiên tai là lập tức có hàng triệu tâm lòng hướng về an ủi, động viên, giúp đỡ cả tinh thần và vật chất. Phong trào người người, nhà nhà làm việc thiện hiện nay đã lan rộng trên khắp đất nước. Từ những vị lãnh đạo, các nhà doanh nghiệp đến bộ đội, cán bộ, công nhân, nông dân, học sinh, sinh viên… đều sẵn sàng đóng góp để xây dựng những ngôi nhà tình nghĩa, nhà tình thương, những mái ấm cho trẻ mồ côi bất hạnh, những trại dưỡng lão cho người già cô đơn…

Tuy nhiên bên cạnh những nghĩa cử cao đẹp như vậy, vẫn có những con người vẫn chỉ chăm chăm chăm sóc bản thân mình không lo tới cuộc sống và hoàn cảnh khó khăn của người khác. Họ sống thờ ơ, vô cảm với những số phận đang cần bàn tay giúp đỡ. Họ đáng bị xã hội lên án, họ nên được bạn bè giúp đỡ khuyên răn để có một lối sống tích cực hơn

Câu tục ngữ Thương người như thể thương thân đã đúc kết lại một trong những phẩm chất đáng quý của dân tộc Việt Nam; đồng thời là lời khuyên chí lí đối với mọi người, nhất là lứa tuổi thanh thiếu niên học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường. Hãy chung tay vì một xã hội giàu đẹp,đầy tình yêu thương và sự cảm thông chia sẻ.

Phân tích câu 7 – Bài văn mẫu số 3

Tục ngữ Việt Nam là kho kinh nghiệm ngàn đời, đúc kết từ trí tuệ người xưa. Cũng có câu tục ngữ được thốt ra từ trái tim nồng nàn của tiền nhân. Đó là câu : Thương người như thể thương thân.

Tục ngữ Việt Nam là kho kinh nghiệm ngàn đời, đúc kết từ trí tuệ người xưa. Cũng có câu tục ngữ được thốt ra từ trái tim nồng nàn của tiền nhân. Đó là câu : Thương người như thể thương thân.

Rộng hơn tình anh em bè bạn, bà con hàng xóm, những người đã cùng chúng ta tối lửa tắt đèn có nhau, tuy không cùng máu mủ nhưng ho lai là người có tình có nghĩa sâu nặng với ta. Những lúc trái gió trở trời, những khi cùng đường bí lối, họ đến với ta bằng những tấm lòng chân thành để chia ngọt sẻ bùi. Tình nghĩa ấy thật sâu đậm nào Khác gì anh em một nhà. Vì vậy, khi họ không may rơi vào hoàn cảnh khó khăn, lẽ nào ta ngoảnh mặt thờ ơ cho đành. Lúc này, thái độ nhường cơm sẻ áo, chị ngã em nâng là một việc làm mà ta phải thực hiện tốt. Ngay đến cộng đồng xã hội mà ta sống, những người dù ở miền ngược hay miền xuôi, dù ở nơi rừng núi hay đồng bằng cũng đều là anh em, bởi lẽ họ với ta cùng một dân tộc, có chung một mẹ Âu Cơ. Chính mối quan hệ gắn bó này tạo nên tình cảm tương thân tương ái giữa con người với con người trong xã hội. Tình cảm ấy đã bao đời nay trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Trải qua những năm tháng kháng chiến gian khổ, cả nước đều chung lòng đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để đi đến thắng lợi vẻ vang. Cũng đã biết bao lần toàn dân ta đã hưởng ứng tích cực lời kệu gọi một miếng khi đói bằng một gói khi no những khi lũ lụt, hoả hoạn. Những lúc ấy, có người đã dũng cảm quên đó ý, quên lạnh, cứu sông bao nhiêu mạng người để lại gương sáng cho đời sau .

Câu tục ngữ thương người như thể thương thân là một bài học sâu sắc về đạo lí làm người. Hãy thương yêu người khác như yêu thương chính bản thân mình. Điều đó mãi mãi nhắc nhở ta về lòng nhân ái, về tình người mà ta cần thực hiện tốt. Để phát huy truyền thống tốt đẹp ấy của ông cha, em hứa sẽ luôn giúp đỡ những người hoạn nạn trong cuộc đời.

Trong một nhóm người cũng như trong một xã hội, lời nói thật là quan trọng vô cùng: lời nói làm cho được lòng người hay mất lòng người trong nháy mắt. Người khôn bao giờ cũng muôn được lòng người, người tu càng muốn được lòng người hơn nữa ! Nhân tâm thật là quý báu, nhân tâm không thể mua bằng tiền, đúng theo lời ca dao

Nhân tâm ai bán mà mua

Ai cho mà lấy, ai đưa mà mừng ?

Thế mà nhân tâm chỉ mua và mua bằng lời nói. Người khôn dùng lời nói dịu dàng mà mua nhân tâm. Người hiền dùng lời nói nhân hậu mà thu phục nhân tâm. Người tu dùng lời nói từ bi mà qui hợp nhân tâm. Lời nói quả thật có công dụng và hiệu lực thắng thế hơn bạc tiền (…).

Phân tích câu 7 – Bài văn mẫu số 4

Trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam có rất nhiều câu phản ánh tình yêu thương, sự quan tâm, sẻ chia, giúp đỡ – một truyền thống quý báu của dân tộc. Một trong những số đó là câu tục ngữ ” thương người như thể thương thân”.

Trước hết ta phải hiểu thế nào là ” Thương người như thể thương thân” ?” thương người” là thương yêu, quan tâm, đùm bọc những người xung quanh, ” thương thân” nghĩa là yêu thương, chăm sóc chính bản thân mình. Hai cụm từ trên liên kết với nhau bởi sự so sánh ngang bằng: như thể. Chúng ta thường yêu thương, động viên, chăm sóc bản thân mình khi bị ốm đau, khi gặp khó khăn hay bất lực trong cuộc sống. Và ta cũng nên yêu thương, quan tâm tới người khác như chính với bản thân mình. Dân gian còn có nhiều câu tục ngữ hay ca dao mang nội dung tương tự để nhấn mạnh và tăng sức thuyết phục với bài học mà họ gửi gắm. Một trong số chúng là:

” Lá lành đùm lá rách”

” Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”

Vậy tại sao con người phải yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Thứ nhất, là người ai cũng mong muốn cuộc sống của mình được hạnh phúc, ấm no, đầy đủ, không cực khổ, nhưng không phải ai cũng đạt được như vậy. Có những người dù đãvô cùng cố găng nhưng họ vẫn gặp phải hết khó khăn này đến khó khăn khác, ít khi được điều mà mình mong muốn. Những lúc khó khăn mệt mỏi như vậy mà nhận được tình yêu thương, sự sẻ chia, giúp đỡ chân tìnhthì họ sẽ vơi đi bao nỗi ưu tư, phiền muội mà được tiếp thêm niềm tin và nghị lực để tiếp tục tiến về phía trước. Ngoài ra, khi ta giúp đỡ, cho đi tình yêu thương ta sẽ nhận được niềm vui, sự thanh thản, niềm tự hào với bản thân vì mình đã làm được những việc tốt, những điều có ích. Những việc làm nhân đạo như vậy góp phần xây dựng một cuộc sống văn minh, tiến bộ và tươi đẹp, giàu tính nhân ái, thêm nữa sự yêu thương, sẻ chia, giúp đỡ cũng góp phần xây dựng những mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người,nếu chẳng may ta gặp khó khăn, những người trước kia được ta giúp đỡ sẽ quay lại đùm bọc, giúp đỡ ta cùng ta vượt lên số phận. Nói như vậy không có nghĩa là cứ cho đi là phải nhận lại mà tình yêu thương chỉ góp phần xây dựng các mối quan hệ mà thôi. Quan trọng nhất, chúng ta cùng sống trên dải đất hình như S thiêng liêng, nói cùng tiếng mẹ đẻ, chung một tổ tiên, đều là con Lạc cháu Hồng, có cùng trang lịch sử đau thương nhưng rất đỗi hào hùng… Ta đều tự hào bởi 2 tiếng Việt Nam, đều máu đỏ da vàng, mang trong mình dòng máu nồng nàn yêu nước… Tất cả những điểm chung đó đều là những minh chứng xác đáng giải thích cho việc tại sao chúng ta phải yêu thương nhau bởi ta là những người anh em thân thiết tuy không cùng huyết thống hay họ hàng gì. Cuối cùng, một xã hội nến thiếu đi tình yêu thương thì sẽ vô cùng nghèo nàn, nhạt nhẽo, chỉ là một thế giới con người ích kỷ, ngày ngày chỉ đi qua nhau như những người xa lạ, chỉ biết khoanh tay trước sự đau khổ của người khác. Một xã hội không có trái tim, chỉ có sự lạnh lẽo, cô độc, chẳng khác nào một xã hôi chết.

Vậy thì chúng ta cần làm gì để phát huy truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc? Trước tiên, trong gia đình ta phải biết yêu thương, quan tâm giúp đỡ ông bà cha mẹ, đặc biệt là anh chị em, ta nên giúp đỡ gia đình từ những việc nhỏ nhất như nấu cơm, quét nhà… đến những việc lớn hơn. Đi học về phải chào mọi người, ăn cơm phải biết mời người lớn dùng bữa trước, khi ăn xong phải rót nước cho cả nhà, lúc ông bà, cha mẹ không khỏe thì hỏi thăm, em nhỏ nghịch dại nên khuyên bảo… Sau nữa ở trường lớp, cùng là bạn bè, học chung dưới một mái trường thì nên giúp đỡ, sẻ chia với những người bạn có hoàn cảnh khó khăn để cùng chung tay xây dựng, vun đắp ước mơ đến trường của các bạn. Hay trong một lớp, bạn học giỏi thì giúp đỡ những bạn học kém hơn mình để cùng nhau vươn lên trong học tập. Chúng ta cũng nên thường xuyên tham gia các quỹ nhân đạo, ủng hộ chữ thập đỏ do nhà trường tổ chức. Ngoài ra, ở ngoài xã hội, tương thần tương thân tương ái cũng có thể rèn luyện dễ dàng. Nhà nước ta có biết bao chính sách xây dựng những mái ấm tình thương, làng trẻ em SOS… để cưu mang những trẻ em mồi côi không nơi nương tựa, ta cũng dễ dàng tìm thấy những chương trình hay quỹ từ thiện trên ti vi, báo đài như vì bạn xứng đáng, lục lặc vàng, điều ước thứ bảy, trái tim cho em…tham gia những hoạt động từ thiện ấy là một cách hữu hiệu để phát huy truyền thống tương thân tương ái của cha ông.

Tóm lại, câu tục ngữ ” thương người như thể thương thân” đã đúc rút một bài học đúng đắn và vẫn còn giá trị to lớn trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Mỗi chúng ta cần giữ gìn và phát huy truyền thống ” lá lành đùm lá rách” của dân tộc để xây dựng một cuộc sống tươi đẹp, văn minh. Câu tục ngữ cũng giúp ta hoàn thiện nhân cách, phát triển tâm hồn.

Phân tích câu 8 – Bài văn mẫu số 1

Ở đời, đạo đức được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất của mỗi con người. Đạo đức sẽ thể hiện được tính cách, phẩm chất và giá trị đích thực của bản thân mỗi người. Đồng thời, trong đạo đức có rất nhiều phạm trù khác nhau để đánh giá bản chất của con người. Và lòng biết ơn, sự ghi nhớ ơn nghĩa của người khác đối với mình cũng là một phạm trù quan trọng của đạo đức. Đây được coi là một phẩm chất không thể thiếu trong cuộc sống. Đó cũng là lý do mà ông cha ta đã ghi lại câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” để răn dạy con cháu mai sau.

Câu tục “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là một câu tục ngữ phổ biến của văn học dân gian. Đây là câu nói thể hiện một triết lý nhân văn sâu sắc. Đó chính là đề cao sự biết ơn đối với những người đã từng giúp đỡ mình. Và cũng chính vì ý nghĩa và giá trị nhân văn này, câu tục ngữ đã được ông cha ta truyền lại từ ngàn xưa. Và luôn được người lớn sử dụng để dạy dỗ và nhắn nhủ cho con cái từ khi còn nhỏ.

Câu tục ngữ “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” ông cha ta đã mượn các hình ảnh quen thuộc đó là “ăn quả” và “trồng cây” để làm hình ảnh ẩn dụ cho lời nhắn nhủ của mình. “Ăn quả” ý nói là những “trái ngọt” đó là những thành quả tốt mà ta có được. Còn “trồng cây” ý nói về những người đã đổ mồ hôi, công sức để cho ra “trái ngọt” và những thành quả tốt đẹp đó. Như vậy, câu tục ngữ ý muốn nói, mỗi người đều phải mang trong mình tấm lòng biết ơn. Luôn phải ghi nhớ những công ơn mà người khác đã giúp mình. “Tri ân không cần báo đáp” nhưng người nhận thì luôn phải ghi nhớ để không làm việc hổ thẹn lương tâm.

Lòng biết ơn chính là một tư tưởng cao đẹp đã được đúc kết từ ngàn xưa, trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta được truyền lại cho các thế hệ mai sau. Đó là sự ơn nghĩa, nhân văn giữa con người với con người với nhau. Trải qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, ta mới có được cuộc sống như ngày hôm này. Sự tự do, ấm no và hạnh phúc của hiện tại, đã phải trả bằng công lao của những người đi trước. Do đó, ta luôn phải ghi nhớ công ơn của ông cha ta ngày xưa. Và đền đáp bằng cách cố gắng gìn giữ và phát triển đất nước ngày một tốt hơn.

Nhìn xung quanh, ta có thể dễ dàng nhận thấy, ông cha ta đã để lại cho ta rất nhiều “trái ngọt” cho các thế hệ mai sau được hưởng thành quả. Hàng nghìn công trình đã được để lại cho con cháu chúng ta. Tất cả, đều được trả giá bằng mồ hôi, công sức và tính mạng của người xưa. Sự tự do của đất nước ta có được là do xương máu của dân tộc trong hàng ngàn năm xây dựng và bảo vệ đất nước. Sự tiện nghi về giao thông như hiện tại là công sức làm việc của những bậc cha mẹ, cô chú, ông bà ta. Sự ấm no “ăn ngon mặc đẹp” ngày nay cũng là nhờ công lao động của các thế hệ trước. Do đó, chúng ta cần phải biết kính trọng và biết ơn những điều đó. Lòng biết ơn, sự kính trọng với thế hệ trước không chỉ thể hiện qua lời nói, mà phải được thể hiện qua những việc làm cụ thể. Những hoạt động, sự giáo dục cho chúng ta về sự hi sinh anh dũng của những vị anh hùng. Hay những hoạt động bảo vệ những di tích lịch sử. Hoặc những chiến sĩ miền biển đảo xa xôi đang hết mình bảo vệ đất nước… Tất cả những điều đó, chính là hành động mà con cháu của dân tộc Việt Nam đang làm để đáp đền ơn nghĩa và tiếp nối các thế hệ đi trước.

Còn với mỗi người chúng ta cần làm gì để thể hiện sự biết ơn của mình. Điều đầu tiên đó là học tập thật tốt, dùng kiến thức của mình sau này xây dựng, gìn giữ, bảo vệ và phát triển đất nước. Vì đây là đất nước mà ông cha ta ngày trước đã phải đổ mồ hôi, xương máu để giành lấy. Tiếp theo, đó là ghi nhớ công ơn của người khác đối với mình. Đặc biệt là luôn hiếu thảo với cha mẹ. Đây là đấng sinh thành, đã có ơn dưỡng dục, dạy dỗ ta trưởng thành. Đây chính là công ơn cao trọng nhất mà cả đời ta không được quên. Tiếp theo là lòng tôn sư trọng đạo, công ơn dạy dỗ là ơn nghĩa cao trọng mà thầy cô đã dành cho chúng ta, thầy cô bỏ công sức giảng dạy truyền đạt kiến thức cho các học sinh sinh viên vì vậy ai trong chúng ta cũng không được quên công ơn đó mà phải khắc ghi.

Tóm lại thì câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” chính là đạo lý làm người mà chúng ta nên khắc ghi, bài học về lòng tôn kính và sự biết ơn mà ông cha ta nhắn nhủ lại cho thế hệ mai sau. Chúng ta cần phải học tập, rèn luyện và phát huy phẩm chất đó. Hãy luôn giữ vững tâm hồn tốt, thể hiện thái độ biết ơn vì những gì chúng ta đã nhận được thành quả của ngày hôm nay bạn nhé.

Phân tích câu 8 – Bài văn mẫu số 2

Dân tộc Việt Nam ta là một dân tộc có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống văn hóa và đạo lý tốt đẹp, đại diện cho truyền thống đó là kho tàng các câu ca dao, thành ngữ, tục ngữ về đạo lý làm người. Một trong những câu tục ngữ nói về đạo lý ơn nghĩa của nhân dân ta từ xưa đến nay luôn được lưu truyền đó là câu "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây".

Các câu tục ngữ của nhân dân ta thường mang đặc điểm ngắn gọn, xúc tích, dễ hiểu, sử dụng hình ảnh gần gũi, quen thuộc. Và trong câu "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" cũng vậy, hình ảnh "ăn quả", "trồng cây" rất giản dị và mộc mạc. Nghĩa đen của câu tục ngữ chính là nhắc nhở con người ta khi ăn quả phải nhớ đến kẻ đã có công trồng cây, không có kẻ trồng cây làm sao có cây, có quả mà ăn, ví dụ như ăn xoài nhớ kẻ đã trồng xoài cho ta ăn. Mở rộng ra, "quả" ở đây chính là thành quả, thành tựu, "ăn quả" chính là hưởng thụ thành quả ấy, khi đó ta phải nhớ đến công lao của những "kẻ trồng cây" - những người đã bỏ ra công sức, mồ hôi nước mắt thậm chí cả xương máu để có được thành quả đó. Đó chính là đạo lý ơn nghĩa tốt đẹp, phải ghi nhớ và biết ơn những người đã giúp đỡ ta trong lúc khó khăn, người mang lại cho ta những điều quý giá trong cuộc sống.

Câu tục ngữ nhắc nhở con người chúng ta sống phải đề cao ơn nghĩa, phải biết đến cội nguồn, nguồn gốc của mình. Ai cũng có cha có mẹ, nhờ có cha mẹ sinh ta ra mà mới có ta trên cuộc đời, không có cha mẹ mãi mãi không có sự tồn tại của ta. Sống làm người mà không biết đến ơn nghĩa mẹ cha thì thực không đáng sống! Thời xưa, ông cha ta đã luôn coi trọng, gìn giữ và bảo vệ truyền thống này qua các nghi lễ, tập tục thờ cúng, ví dụ như tục thờ cúng ông bà tổ tiên, cha mẹ đã mất, điển hình như truyền thống giỗ Tổ Hùng Vương vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm để nhớ về công lao dựng nước của các vua Hùng. Bên cạnh đó còn có các nghi lễ cúng cảm tạ thần linh, tạ ơn trời đất một năm mưa thuận gió hòa cho người dân một vụ mùa bội thu...

Ngày nay, truyền thống "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" đã ngày càng được phát huy trên nhiều phương diện và mọi mặt đời sống, ví dụ như chúng ta có các ngày lễ kỷ niệm như: ngày Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 để nhớ về công ơn giáo dục của các thầy cô, ngày Thương binh liệt sĩ 27 tháng 7 để nhớ về những người anh hùng chiến đấu hi sinh mang lại nền độc lập cho dân tộc... Gắn liền với các ngày nghỉ lễ là những hoạt động đền ơn đáp nghĩa được diễn ra, như tổ chức đi thăm hỏi thầy cô, thăm hỏi và trao quà cho bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình có liệt sĩ, thương binh.

Như vậy, câu tục ngữ "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" đã không chỉ nhắc nhở chúng ta về một truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn là bài học làm người, bài học về sự biết ơn, nhắc nhở mỗi con người đều phải ghi nhớ, rèn luyện lòng biết ơn của mình. Bởi biết ơn chính là một trong những tiêu chí đầu tiên trong thước đo đánh giá phẩm chất và đạo đức con người.

Phân tích câu 8 – Bài văn mẫu số 3

Có thể nói rằng trong cuộc sống, đạo đức là một yếu tố rất quan trọng, nó thể hiện sự văn minh, lịch sự, nếp sống, tính cách. Chắc chắn rằng trong một phần nào có thể đánh giá được phẩm chất, giá trị bản thân con người. Và dường như ta lại thấy được rằng có rất nhiều mặt để đánh giá đạo đức, phẩm chất của con người. Những giá trị đạo đức đó được thể hiện qua sự biết ơn. Và câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” được đánh giá là một trong những câu tục ngữ hay nhất và đặc sắc nhất nói về điều này.

Câu tục ngữ thật ngắn gọn trên đều mang một triết lí nhân văn sâu xa. Đó là cần phải biết ơn những người đã mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mỗi chúng ta.

Câu tục ngữ này dường như cũng đã mượn hình ảnh "ăn quả" và "trồng cây" ý muốn nói, khi được hưởng thụ những trái ngọt, trái thơm, cần nhớ tới công sức, mồ hôi nước mắt của người đã làm ra nó. Quả thực những điều đó được ẩn dụ nhằm khuyên răn thái độ của mỗi con người xử sự làm sao cho đúng, và đã là cho phải đối với những người đã giúp đỡ mình để không phải hổ thẹn với lương tâm của chính mình. Một trái chín thơm đó đâu phải làm ra được một cách dễ dàng chứ? Người trồng họ phải mất biết bao công sức mới có thể có được cho nên người ăn quả phải nhớ công lao của họ.

Hành động đó dường như cũng đã thể hiện một tư tưởng cao đẹp, một lối ứng xử đúng đắn. Quả thật ta nên biết được rằng chính lòng biết ơn đối với người khác đó chính là một truyền thống tốt đẹp của ông cha ta từ xưa tới nay. Đó là lối sống ân nghĩa mặn mà, thuỷ chung sâu sắc giữa con người với con người trong gia đình, trong xã hội với nhau. Ta như biết được rằng tất cả những gì chúng ta đang hưởng thụ hiện tại không phải tự dưng mà có. Đó dường như cũng chính là công sức của biết bao lớp người. Đó có thể là từ những bát cơm dẻo trên tay cũng do bàn tay người nông dân làm ra. Rồi cả khi là những tấm áo ta mặc, chiếc giày ta đi cũng đều bởi những bàn tay khéo léo của người thợ cùng với sự miệt mài, cần cù trong đó.

Khi chúng ta sinh ra chúng ta đã mang ơn người sinh thành đó chính là cha mẹ. Chúng ta phải thầm biết ơn cũng như phải cảm ơn cha mẹ vì đã cho bạn có mặt trên cuộc đời này. Cha mẹ luôn là người yêu thương chúng ta vô điều kiện đã nuôi nấng chúng ta lên người.

Và vẫn còn rất nhiều, rất nhiều những công trình vĩ đại nữa mà thế hệ trước đã làm nên nhằm mục đích phục vụ thế hệ sau. Tất cả những điều đó chính là những công sức lớn lao, sự tâm huyết của mỗi người dồn lại đã tạo nên. Và đây chính là những thành quả thật đáng khâm phục để ngày nay chúng ta cần biết ơn, phục hồi, tu dưỡng, phát triển những di sản đó. Quả thật ta nên hiểu được rằng chúng những lòng biết ơn, kính trọng không phải chỉ là lời nói mà còn cần hành động để có thể thể hiện được hết ân nghĩa của ta. Đó có thể chính là bài học thiết thực về đạo lí mà mỗi con người cần phải có. Lòng nhớ ơn dường như luôn luôn mang một tình cảm cao đẹp, nó như đã thật thấm nhuần tư tưởng nhân văn. Nó giáo dục chúng ta cần biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ và đó còn có cả những anh hùng vĩ đại đã hi sinh, lấy thân mình, mồ hôi, nước mắt và xương máu để bảo vệ nền độc lập cho đất nước, giữ vững bình yên vùng trời Tổ quốc. Họ đã cho chúng ta có những năm tháng sống vui sống khoẻ và có ích cho xã hội, phần để thực hiện đúng trách nhiệm, bổn phận của chúng ta, phần vì không hổ thẹn với những người ngã xuống giành lấy sự độc lập.

Tất cả chúng ta có ai hiểu được rằng, một sự biết ơn được thể hiện như một đoá hoa mai ửng hé trong nắng vàng, đó chính là một lòng kính trọng bộc lộ như một ánh sao đêm sáng rọi trên trời cao. Những cử chỉ cao đẹp, những hành động dù chỉ là nhỏ nhất cũng đều mang một tấm lòng cao thượng và chúng ta cũng cần phải biết ơn họ. Ta như thấy được rằng chính những người có nhân nghĩa là những người biết ơn đồng thời cũng biết giúp đỡ người khác mà dường như cũng không chút tính toán do dự. Có thể thấy được rằng chính những hành động đó đã khơi dậy tấm lòng của biết bao nhiêu con người, rồi thế giới này sẽ mãi là một thế giới giàu nhân nghĩa và hạnh phúc.

Câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” thực sự là một bài học như đã khéo léo truyền tải vào đó những lời dạy đáng ghi nhớ cho chính chúng ta. Chúng ta hãy nhớ đến những công lao của các thế hệ đi trước và cả những người đã giúp chúng ta có được thành công như ngày hôm nay. Có như vậy cuộc sống mới thực sự trở lên có ý nghĩa biết bao, đáng sống biết bao.

Phân tích câu 8 – Bài văn mẫu số 4

Từ xa xưa, lối sống ân nghĩa thủy chung của dân tộc ta là một niềm tự hào của con người Việt Nam. Vì vậy mà ông cha ta muốn truyền lại lối sống ấy cho thế hệ tương lai qua câu tục ngữ: "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây".

Ta cùng đi tìm hiểu về câu tục ngữ thì trước hết, ta phải hiểu ý nghĩa của nó. Có lẽ không ai là không biết nếu muốn có trái thơm quả ngọt để ăn thì chúng ta phải trồng cây, chăm sóc, bón phân và tưới nước hàng ngày, để cây lớn lên và tươi tốt. Và người trồng cây là người đã đổ mồ hôi sôi nước mắt để chăm bón cây hàng ngày cho đến lúc cây ra quả, để chúng ta được thưởng thức vị ngọt lịm của những trái chín. Có lẽ, người xưa muốn nhắn nhủ chúng ta khi ta được thưởng thức trái ngọt, đừng mải mê với vị ngọt mà quên mất trong đó cũng có vị đắng của những giọt mồ hôi, của vất vả và gian lao của những người cho ta quả ngọt ấy. Qua câu tục ngữ, ông cha ta muốn nhắn nhủ với chúng ta một lối sống ân tình thủy chung, khi ta được sống hạnh phúc sung sướng đừng quên đi những ngày tháng khổ đau vất vả, khi ta tận hưởng bao điều tốt đẹp chớ quên đi người đã tạo ra thành quả đó.

Trong chiều dài của lịch sử dân tộc, nhân dân ta dù khó khăn gian khổ vẫn giữ vững nếp sống tình nghĩa ấy. Có biết không để chúng ta được sống một cuộc sống công bằng văn minh, biết bao lớp người đã hy sinh không tiếc thân mình bảo vệ bờ cõi. Các anh không tiếc đời xanh, xả thân giữ lấy từng tấc đất, biết bao máu xương đã chôn vùi nơi biên ải, biết bao người chiến sĩ mà ta không biết mặt biết tên đã ngã xuống nơi sa trường. Tất cả vì sự độc lập của dân tộc, vì để có được cuộc sống ấm no cho chúng ta ngày hôm nay. Các bạn có biết để chúng ta trở thành một con người khỏe mạnh, sống hạnh phúc, cha mẹ đã vất vả bao năm tháng để nuôi chúng ta. Trồng cây và trồng người, cả hai đều rất khó khăn, nhưng con người không hề nản lòng, người ta dùng cả cuộc đời mình để trồng cây và trồng người. Có lẽ để ta đứng trên những tòa nhà trọc trời, nhìn khắp mọi nơi trên thành phố thì biết bao nhiêu người công nhân đã phải lao động không ngừng, đặt nền móng, đắp từng cục gạch từ dưới mặt đất. Những điều đó tuy đã là chuyện quá khứ nhưng ta không nên quên, bởi không có quá khứ sẽ không có hiện tại, không có người kiến tạo sẽ không có cuộc sống của chúng ta như ngày hôm nay.

Vậy chúng ta phải làm gì để xứng đáng với câu nói của cha ông? Ta hãy nhớ kĩ những năm tháng khó khăn của một thời đã qua, nhớ những giọt mồ hôi lăn dài trong quá khứ. Xin đừng lãng quên và coi nhẹ nó, hãy sống với nỗi nhớ và sự biết ơn, nối tiếp truyền thống bao đời của dân tộc ta. Hơn nữa, chúng ta phải cố gắng và nỗ lực thật nhiều để dựng xây và làm giàu thêm nữa những giá trị đẹp đẽ để không uổng công sức của những người đi đầu, tạo lập ra những giá trị đó.

Trong xã hội hiện nay, vẫn có rất nhiều những kẻ vong ơn bội nghĩa mà ta cần phải lên án. Những kẻ quen với lối sống hưởng thụ, quen lối ăn chơi trên sự khó nhọc của người khác và tệ hơn họ không hề biết ơn mà còn coi thường sự khó nhọc ấy. Nếu những kẻ đó biến mất, xã hội sẽ công bằng và dân chủ hơn rất nhiều.

Tóm lại, "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" là câu tục ngữ rất ý nghĩa, nó trở thành một bài học răn dạy ta sống nghĩa tình và thủy chung.

Phân tích câu 8 – Bài văn mẫu số 5

Chúng ta đang sống xã hội hiện tại, nó đang phát triển văn minh và tốt đẹp. Các bạn biết không để chúng ta được sống trong môi trường tốt đẹp thì đã rất nhiều sự cống hiến và hy sinh từ thuở sơ khai. Vì vậy mà ông cha ta có câu: "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" nhằm nhấn mạnh lối sống thủy chung tình nghĩa.

Ăn quả nhớ kẻ trồng cây là câu tục ngữ được lưu truyền rất nhiều trong dân gian. Khi con người được ăn những trái thơm quả ngọt thật ngon miệng và thoải mái, hãy nhớ rằng những trái thơm quả ngọt đó không tự nhiên xuất hiện mà phải có người bỏ công sức ra trồng cây và chăm chút, mặc ngày nắng mưa bão bùng, không quản mệt nhọc cày sâu cuốc bẫm, chăm chút từng tấm lá, bông hoa để cây phát triển thật tốt, đơm hoa kết trái để chúng ta có thể được thưởng thức. Và cũng qua câu tục ngữ, dường như, ông cha ta muốn nhắn gửi đến chúng ta lối sống ân nghĩa thủy chung, khi chúng ta sống sung sướng thoải mái thì đừng bao giờ quên công sức của những người đi trước, uống nước phải nhớ nguồn.

Con người ta luôn đặt ra những câu hỏi về cội nguồn của vạn vật. Có lẽ chuyện mây trời thật xa xôi, ta hãy nhắc đến những điều thực tế trong cuộc sống. Chúng ta đã bao giờ nghĩ đến khi ta sắp chết vì đói mà có một bát cơm nóng cũng làm ta thỏa nguyện, lúc đó ta mới thật sự hiểu được và trân trọng người nông dân đã đánh đổi mồ hôi lấy những hạt gạo trắng thơm. Cũng như mỗi chúng ta, ai sinh ra và lớn lên đó là nhờ công sinh thành của cha mẹ. Hãy ngồi ngẫm nghĩ vì sao ta lại có trên đời, vì đâu mà ta có được cuộc sống hạnh phúc như ngày hôm nay. Có lẽ tất cả là nhờ "Công cha nghĩa mẹ" như "núi thái sơn", như "nước trong nguồn". Bậc cha mẹ đã hy sinh, chịu bao vất vả để nuôi ta lớn khôn từng ngày. Trong quãng thời gian ta trưởng thành, cũng đừng quên đi hình bóng người thầy cô - " người lái đò" tận tụy đã giúp ta đến với bến bờ tri thức, vững bước trên con đường thành công.

Nhưng trong cuộc sống hiện nay, nhiều bạn học sinh không nghe lời cha mẹ với lời thầy cô, vẫn liên tục mắc những sai lầm khiến cha mẹ và thầy cô giáo phải buồn rất nhiều. Trái lại, cũng có rất nhiều học sinh ngoan, chăm chỉ, học giỏi. Mỗi chúng ta hãy ghi nhớ rằng nếu không có người trồng cây thì chúng ta cũng sẽ không có trái ngọt để hưởng, không có những người vất vả gian lao sẽ không có những thứ tốt đẹp như ngày hôm nay. Trong xã hội thì vẫn còn những kẻ sống bạc tình, bội nghĩa đi ngược lại với câu tục ngữ mà ông cha ta đã truyền lại, làm hoen ố tinh thần dân tộc, khiến xã hội trở nên tồi tệ. Vậy nên mỗi người hãy cố gắng nỗ lực trau dồi bản thân, hãy soi vào những điều tốt đẹp của quá khứ để tạo nên những điều tốt đẹp cho hiện tại và cả trong tương lai. Hãy lưu giữ lối sống ân tình thủy chung ấy trong tâm hồn ta bởi đó là truyền thống, là nét đẹp trong tâm hồn của người Việt Nam.

Truyền thống ấy thể hiện lòng biết ơn, thể hiện đạo lí sống ân tình thủy chung. Vậy nên, chúng ta - thế hệ tương lai như chúng ta hãy giữ vững lẽ sống ấy và trở thành những con người tốt đẹp.

Phân tích câu 9 – Bài văn mẫu số 1

Như ta được biết tinh thần đoàn kết là nguồn sức mạnh vô cùng to lớn. Điều này được thể hiện rõ trong quá trình đấu tranh và lao động sản xuất của người dân. Vì thế cha ông ta có câu:

“Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”

Trước hết ta phải hiểu nghĩa của câu tục ngữ. “Một cây” chỉ số ít sự đơn lẻ yếu ớt không làm thành rừng cây ngọn núi. Còn “ba cây” chỉ số nhiều tạo lên sức mạnh làm thành rừng cây. Còn “chụm lại” thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng lòng quyết tâm. Từ ý nghĩa đó, câu tục ngữ là hình ảnh ẩn dụ nói về tinh thần đoàn kết đồng lòng của con người, của dân tộc. Cha ông ta đã đúc rút ra câu tục ngữ hoàn toàn đúng. Vì trong một công việc dù đơn giản hay khó khăn mà chỉ có một người tự lo, tự làm thì sẽ mất nhiều thời gian công sức mới hoàn thành, thậm chí không thể làm nổi vì không đủ sức lực và trí tuệ để vượt qua. Nhưng ngược lại nếu một công việc dù khó khăn đến mấy mà nhiều người đồng lòng đoàn kết quyết tâm thực hiện thì chắc chắn sẽ thành công bởi nó là sức mạnh trí tuệ của tập thể phát huy cao độ nhất.

Tinh thần đoàn kết đi đến chiến thắng được thể hiện rất rõ trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Từ xa xưa, nhờ có tinh thần đoàn kết mà cha ông ta đã dời non lấp biển mở mang bờ cõi làm nên những cánh đồng màu mỡ. Lịch sử đấu tranh từ thời bà Trưng, bà Triệu rồi các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập rồi đến chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã cho ta thấy sức mạnh của sự đoàn kết. Và sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định “Đoàn kết là sức mạnh vô địch”

Ngày nay trên con đường phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa hàng triệu con người Việt nam vẫn đang chung tay góp sức, vượt qua những khó khăn: ủng hộ người nghèo, ủng hộ miền trung gặp thiên tai lũ lụt, chúng ta chung tay xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh nêu cao truyền thống đại đoàn kết dân tộc.

Tuy nhiên trong xã hội vẫn không ít những kẻ luôn gây rối, phá hoại, thành quả lao động, cách mạng gây chia rẽ bè phái cộng động dân tộc, những kẻ phản động đó cần phải trừng trị.

Tuy nhiên đoàn kết gắn bó cũng không phải là kết bè, kết phái để chống đối tổ quốc, tập thể, bảo vệ quyền lợi cá nhân chống đối lại lợi ích tập thể.

Như vậy đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc ta nó được phát huy hiệu quả trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Là học sinh chúng ta cần đoàn kết bạn bè để cùng nhau vươn lên trong học tập, tu dưỡng đạo đức, rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp.

Phân tích câu 9 – Bài văn mẫu số 2

Ông cha ta ngày xưa đã dặn:

“Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.

Câu tục ngữ nhằm răn dạy chúng ta phải biết đoàn kết, đồng tâm hiệp lực, giúp đỡ nhau để làm nên được những việc lớn. Vậy “một cây” là gì? “Ba cây” là gì? Tại sao “một cây làm chẳng nên non” còn “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”?

Thông qua câu tục ngữ, ta có thể hiểu “một cây” là một người, một bộ phận nhỏ bé của xã hội. Còn “ba cây” là nhiều người ,là toàn xã hội. “Một cây làm chẳng nên non”có nghĩa là một người thì khó có thể làm nên được việc. “Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” là có nhiều người cùng làm thì việc sẽ hoàn thành. Cả câu có nghĩa là: Chỉ có một người thì không thể làm nên việc gì, còn nếu có nhiều người chung sức thì việc dù lớn đến mấy cũng sẽ thành công. Câu này được sử dụng nhằm kêu gọi mọi người hãy đoàn kết cùng chung sức làm việc.

Câu tục ngữ đã được thể hiện từ ngàn xưa. Minh chứng là nhân dân ta đã cùng nhau đứng lên chống lại giặc phương Bắc xâm lược thời Lý, Trần. Rồi chúng ta lại cùng nhau đánh thắng cả những cường quốc về quân sự như Anh, Nhật, Mĩ. Ta còn thấy câu tục ngữ này vẫn còn đúng trong thời đại ngày nay. Điển hình như việc Đồng báo miền Trung đang phải chống chọi với cơn lũ lớn nhất trong lịch sử. Nếu chỉ có một số lượng nhỏ người dân chúng ta đóng góp cứu trợ thì chỉ giúp được rất ít đồng bào đang oằn mình trong cơn lũ dữ. Nhưng nếu như cả nước chúng ta cùng hợp sức ,chung tay giúp đỡ thì mọi đồng bào sẽ được hỗ trợ, cứu giúp. Cũng như việc chúng ta chấp hành pháp luật vậy. Lấy ví dụ như khi nhà nước ban hành luật bắt buộc mọi người phải đội mũ bảo hiểm. Nếu khi ấy chỉ có một bộ phận nhỏ người dân nghiêm chỉnh chấp hành thì tỉ lệ giao thông liệu có giảm? Nhưng khi mọi người đã biết cùng nhau chấp hành bằng việc đội mũ bảo hiểm thì số vụ tai nạn đã giảm đáng kể. Ta cũng có thể thấy được tinh thần đoàn kết thông qua việc giữ gìn văn minh. Cụ thể là việc xả rác nơi công cộng. Nếu chỉ có một người dân có ý thức bỏ rác vào thùng thì đường phố sẽ đầy rác, mất vệ sinh, từ đó có thể gây ra nhiều loại bệnh nguy hiểm đến con người. Nhưng khi tất cả đều có ý thức thì đường phố sẽ sạch đẹp, văn minh.

Ta có thể thấy tinh thần đoàn kết là rất cần thiết để xây dựng một xã hội, đất nước lớn mạnh, giàu đẹp. Vậy mà vẫn có những cá nhân, tập thể nhỏ lẻ muốn phá vỡ sự đoàn kết ấy. Họ là những người không thực hiện , không tuân theo những quy tắc của xã hội, đi ngược lại những quy định của nhà nước ,cộng đồng như xả rác bừa bãi, không chấp hành pháp luật, không tuân thủ luật lệ giao thông. Họ còn là những người chỉ biết đến bản thân ,không có lòng thương yêu đồng loại ,không biết giúp đỡ người khác… Không những thế nhiều người còn lập ra tổ chức phản động nhằm chống đối chính quyền, chia rẽ đất nước , dân tộc. Những hành động ấy của họ thật đáng chê trách.

Chúng ta có thể thể hiện tinh thần đoàn kết dù chỉ bằng những việc nhỏ nhặt như trong môi trường học đường thì giúp đỡ bạn bè học tập, tham gia các phong trào do trường lớp, địa phương tổ chức như chiến dịch “Mùa hè xanh”. Ngoài xã hội thì ta có thể chung tay giúp đỡ các cụ già neo đơn, những hoàn cảnh còn khó khăn, giúp đỡ đồng bào bị thiên tai lũ lụt. Những việc làm ấy dù nhỏ nhoi, ít ỏi nhưng cũng một phần nào chia sẻ, giúp đỡ được cộng đồng.

Tinh thần đoàn kết thông qua câu tục ngữ:

“Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.

thật là lớn lao và ý nghĩa. Mỗi chúng ta hãy cùng nhau chung tay góp sức xây dựng một xã hội đầy ắp tình người. Vì “một cây” sẽ chẳng bao giờ làm nên được một thế giới tốt đẹp hơn.

Phân tích câu 9 – Bài văn mẫu số 3

Ca dao là một trong những viên ngọc sáng của kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Ca dao Việt Nam phong phú về nội dung, đẹp về hình thức. Bên cạnh mảng ca dao trữ tình, trào phúng,… còn có những bài ca dao về đề tài khuyên bảo, dạy dỗ của người đời về tinh thần đoàn kết. Đây là câu ca dao mà ta thường nhắc nhở nhau:

Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.

Vậy câu ca dao trên mang ý nghĩa gì?

Suy ngẫm về câu ca dao này, chúng ta thấy hiện lên hai tầng nghĩa quen thuộc: nghĩa đen và nghĩa bóng. Tầng nghĩa đen khẳng định sự lẻ loi, đơn độc của một cái cây nếu nó đứng một mình. Bản thân cái cây đó thật nhỏ bé. Nhưng nếu có nhiều cây sẽ tạo nên một khu rừng. Thế nhưng hiểu ca dao theo nghĩa đen thì rất nông cạn. Tầng nghĩa bóng có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều. Câu ca dao khuyên chúng ta phải biết đoàn kết để tạo nên sức mạnh, để có thể chinh phục thiên nhiên, chống ngoại xâm, khắc phục khó khăn, cải tạo cuộc sống… để có cuộc sống ấm no, phong phú về vật chất lẫn tinh thần.

Thực tế, lịch sử dân tộc Việt Nam bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước đã chứng minh điều đó.

Từ thời dựng nước, đất nước ta luôn gặp nạn ngoại xâm. Những người dân Việt Nam đã biết kết hợp sức người để chống lại bè lũ cướp nước tới cùng. Dưới sự lãnh đạo của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Lê Lợi… nhân dân ta đoàn kết, lần lượt đuổi giặc Tống, Mông – Nguyên, Minh… ra khỏi đất nước.

Từ năm 1858, giặc Pháp nổ phát súng đầu tiên vào Đà Nẵng, mở màn cuộc xâm lược của bọn thực dân châu u vào Việt Nam. Nhân dân ta đoàn kết với các bạn Lào, Campuchia đánh đuổi Pháp ra khỏi Đông Dương.

Cuộc kháng chiến chống Pháp gần một trăm năm vừa kết thúc thì cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước bùng nổ. Lần đầu tiên nhân dân ta phải đương đầu với những phương tiện và vũ khí tối tân nhất thế giới. Cuối cùng, nhờ sự đoàn kết của nhân dân hai miền Nam – Bắc cũng như sự giúp đỡ của nhân dân các nước tiến bộ trên thế giới, chúng ta đã chiến thắng. Cả thế giới đều nể phục tinh thần đoàn kết và sự anh dũng của nhân dân Việt Nam.

Sau đó, non sông chung một màu cờ, nhân dân ta tiếp tục đoàn kết hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ thiếu ăn, ngày nay chúng ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng ở tốp đầu thế giới. Chúng ta đã xây dựng đường dây tải điện 500KV Bắc – Nam, đưa ánh sáng đến tận vùng xa xôi, hẻo lánh nhất của Tổ quốc. Chúng ta khôi phục quốc lộ 1A, xây dựng cầu Mĩ Thuận, cầu Rạch Miễu… nối liền vùng đồng bằng sông Cửu Long với các vùng khác trong cả nước, mang lại hiệu quả kinh tế cao trong nhiều lĩnh vực… Và còn biết bao công trình khác nữa mọc lên theo quá trình phát triển và hội nhập của đất nước.

Tóm lại, chúng ta không thể nào nói hết được sức mạnh của tinh thần đoàn kết. Vậy nên, đọc câu ca dao, em suy nghĩ và rút ra nhiều bài học kinh nghiệm cho bản thân. Trong cuộc sống, chúng ta khó có thể sống và làm việc một cách đơn độc. Nếu làm việc nhỏ, cũng phải suy nghĩ chín chắn. Khi làm việc lớn, phải bàn bạc với những người lớn tuổi, giàu kinh nghiệm. Ngoài ra, em thấy cần vận dụng câu ca dao đúng tình huống. Chẳng hạn, khi làm bài kiểm tra, chúng ta không nên “đoàn kết” cùng các bạn mà phải biết tự làm bài hết khả năng của mình. Khi muốn giúp người khó khăn, già yếu neo đơn, em vận động mọi người đoàn kết tham gia. Đêm nằm suy nghĩ, em càng thấm thía lời dạy của Bác Hồ kính yêu:

Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công.

Và em cũng không quên nhân sinh quan cao đẹp mà nhà thơ Tố Hữu gửi gắm mọi người trong bài thơ Tiếng ru:

Một ngôi sao chẳng sáng đêm

Một thân lúa chín chẳng nên mùa vàng

Một người đâu phải nhân gian

Sống chăng một đốm lửa tàn mà thôi.

Phân tích câu 9 – Bài văn mẫu số 4

Đã tự bao đời nay cha ông ta đã biết được để có thể tồn tại cũng như để phát triển được thì con người phải biết đoàn kết với nhau. Khi chúng ta đoàn kết thì sẽ tạo ra được sức mạnh to lớn để có thể vượt qua mọi khó khăn và thử thách. Nên ông cha ta đã có câu tự ngữ nói về điều đó là “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”

Một cây làm chẳng nên non,

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.

Đoàn kết thực sự sẽ tạo ra sức mạnh, giúp con người chúng ta làm nên những công việc lớn lao. Thực tế cuộc sống đã cho thấy rằng khi con người chiến đấu và lao động của dân tộc cần phải có sự đoàn kết mọt lòng thì mới có thể thành công được.Non sông đất nước Việt Nam có được tự do như ngày hôm nay chính là nhờ vào sự đoàn kết của dân tộc ta ngày trước. Đó chính là sự thương yêu đùm bọc lẫn nhau của nhân dân ta từ Nam chí Bắc, và quả thực cũng đã có mấy chục triệu người chung một lòng, dân ta như cùng chung một chí hướng đánh giặc. Cũng đã phải trải qua mấy chục thế kỉ, đất nước ta nhiều lần bị các triều đại phong kiến phương Bắc như Tống, Nguyên, Minh, Thanh… xâm lược nước ta. Ta cả bè lũ bán nước chúng dường như cũng đã muốn cướp đất nước ta, bắt nhân dân ta làm nố lệ. Chúng luôn luôn ỷ quân đông, thế mạnh mà đã có những mưu đồ thống trị lâu dài nhưng dân tộc ta đã đoàn kết vùng dậy đấu tranh, làm nên chiến thắng. Quân Nguyên – Mông nức tiếng hùng mạnh và hung bạo nhất, chúng đi đến đâu cỏ không mọc được đến đấy, và đồng thời cũng như đã từng thu phục bao nhiêu chư hầu, nhưng ba lần xâm lược nước ta là ba lấn đại bại. Lúc này đây thì quân dân nhà Trần đoàn kết nhất trí, đồng thời cũng đã đồng tâm giết giặc. Ngay từ các vị bô lão trong hội nghị Diên Hổng năm nào thì đến thiếu niên Trần Quốc Toản. Ngay từ danh tướng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cho ngay cả đến chàng trai đan sọt làng Phù ủng… Tất cả đều đổng lòng Sát Thát, tất cả dường như cũng đã tạo lên sức mạnh tổng hợp để có thể làm nên chiến thắng oanh liệt muôn đời.

Cho đến thế kỷ XX đất nước ta cũng lại phải đấu tranh đánh giặc Pháp và giặc Mỹ. Đất nước đau thương hình chữ S không rộng người không nhiều rồi lại vũ khí thì thô sơ. Nhưng chúng ta vẫn dành được chiến thắng vang dội trước các cường quốc.

Rồi chính trong cuộc sống lao động, đoàn kết cũng giúp ta có sức mạnh phi thường. Khi các cơn lũ ập đến với đồng bào miền Trung để lại những hậu quả to lớn, nhưng nhờ sự đoàn kết, tương thân tương ái đã giúp cho đông bào miền Trung nhanh chóng khắc phục được phần nào đau thương. Chúng ta đoàn kết để có thể tạo lên sức mạnh to lớn.

Ta như thấy được câu ca dao giản dị nhưng chứa đựng bài học sâu sắc về sự đoàn kết. Đoàn kết dường như chính là cội nguồn của sức mạnh, nó đồng thời cũng là yếu tố hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh sinh tổn và phát triển của con người. Bác Hổ vĩ đại của dân tộc ta cũng đã từng căn dặn chúng ta rằng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

Để có thể nối tiếp truyền thống đoàn kết của cha ông, chúng em đã xây dựng tinh thẩn đoàn kết trong tổ, trong lớp, trong trường. Ta như thấy được chính tình đoàn kết đã tăng thêm sức mạnh cho chúng em, và cũng như đã giúp chúng em dạt được những kết quả tốt nhất trong học tập.

Phân tích câu 9 – Bài văn mẫu số 5

Trong quá trình dựng nước và giữ nước, nhân dân ta thực hiện tốt bài học đoàn kết nên đã liên tục vượt qua trở ngại để giành độc lập dân tộc. Tinh thần đoàn kết ấy trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc và hơn thế nữa đã được đúc kết thành một chân lí giàu hình ảnh qua hai câu:

"Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn núi cao"

Phải chăng bài học quý báu ấy đã được thực tế cuộc sống và lịch sử chứng minh để có thể mãi mãi là phương châm tốt đẹp cho chúng ta?

Người xưa đã quan sát thực tế, mượn hình ảnh thiên nhiên để so sánh với con người. Thực vậy, một cây đứng riêng lẻ, dù có to đến đâu, vẫn rất đơn chiếc so với một rừng cây và tất nhiên, càng nhỏ bé đối với thiên nhiên bao la, đối với vũ trụ mênh mông. Do vậy, trước gió bão to lớn cây đó có thể bị bẻ gãy. Trái lại, ba cây mọc gần nhau, cành lá tạo thành một khoảng rộng hơn có thể nương tựa nhau trước sức gió mạnh, rễ cũng đan xen để cùng bám chặt đất nên khó bị bật rễ. Tất cả tạo thành một sức mạnh mới, một sức mạnh bề thế, vững chắc, tương tự như hòn núi cao.

Qua các hình ảnh quen thuộc và cách ví von có phần cường điệu nói trên, câu ca dao gợi một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là sự hợp quần, là tinh thần đoàn kết của tập thể con người. Nếu sự gắn bó của loài cây kia tạo nên sức mạnh thì tại sao con người lại không đoàn kết, gắn bó với nhau, tạo thành một sức mạnh tổng hợp để dễ dàng thành công? Đó chính là lời khuyên nhủ chân tình, là ý nghĩa thiết thực mà người xưa muốn gửi gắm đến chúng ta.

Trước hết, trong thực tế cuộc sống, sức mạnh tập thể đã nhiều lần giúp ta vượt qua trở ngại về vật chất lẫn tinh thần. Một con đê núng thế cần rất nhiều bao đất, cần rất nhiều bàn tay, công sức của toàn thể nhân dân. Một con bệnh ngặt nghèo cần được tập thể bác sĩ hội chẩn, tìm phương cứu chữa. Nhiều bộ óc và tài năng tập hợp lại mới có những kết quả tốt đẹp và chính xác về công trình khoa học lớn lao…

Tinh thần đoàn kết không những giúp cho ta vượt qua những trở ngại trong cuộc sống, trong lao động để đi đến thành công mà còn rất cần thiết trong công cuộc đấu tranh giành độc lập trước hiểm họa ngoại xâm. Lần giở những trang sử hào hùng của dân tộc, ta càng hiểu rõ tinh thần đoàn kết của dân tộc ta rất đáng tự hào. Đó là sức mạnh tạo nên chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chiến thắng quân Nguyên – Mông…

Ta cũng không quên câu chuyện kể về một người cha gọi các con mình lần lượt đếnvà đưa cho một bó đũa rồi bảo từng người bẻ bó đũa ấy. Từ người anh lớn nhất đến đứa em út đều không ai bẻ gãy được! Bây giờ người cha liền tách bó đũa ra để bẻ từng chiếc một. Và ông giảng giải: "Các con đều thấy, chia lẻ ra thì yếu, hợp lại thì mạnh. Vậy các con phải biết đùm bọc lấy nhau".

Ngay từ trong gia đinh, nếu ta yêu thương, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, cả gia đình được thuận hòa, hạnh phúc, ở xóm làng, nếu biết một lòng đoàn kết tất cả sẽ yên vui, những tệ nạn xấu xa như ma túy, trộm cắp khó lòng xâm nhập. Nếu người dân cả nước biết phát huy tinh thần đoàn kết trong mọi lĩnh vực thì hoạn nạn nào không được khắc phục, khó khăn nào không thể vượt qua?

Tóm lại, đến đây, hẳn chúng ta đều công nhận giá trị quý báu của lời dạy "Ba cây chụm lại…". Đoàn kết là sức mạnh vô địch là phương châm sống và hành động để tồn tại và hạnh phúc.