Bài ca nhà tranh bị gió thu phá
I. Đôi nét về tác giả Đỗ Phủ
- Đỗ Phủ (712-770) là nhà thơ hiện thực nổi tiếng vào đời Đường ở Trung Quốc, tự là Tự Mĩ, hiệu Thiếu Lăng, quê ở tỉnh Hà Nam
- Ông từng làm quan trong một thời gian ngắn nhưng gần như suốt đời sống trong cảnh đau khổ, bệnh tật
- Năm 759, ông cáo quan, đưa gia đình về vùng Tây Nam, một thời gian sống ở Thành Đô, phủ Tứ Xuyên.
- Ông để lại cho đời 1500 bài thơ
- Bút pháp hiên thực cũng như tinh thần nhân đạo cao cả của ông đã ảnh hưởng khá sâu rộng đến thơ ca Trung Quốc đời sau
II. Đôi nét về tác phẩm Bài ca nhà tranh bị gió thu phá
1. Hoàn cảnh ra đời
- Bài thơ được sáng tác năm 760. Khi được bạn bè và người thân giúp đỡ, Đỗ Phủ dựng được một nhà tranh bên cạnh khe Cán Hoa ở phía tây Thành Đô. Đỗ Phủ vừa ở nhà mới được mấy tháng thì căn nhà đã bị gió phá nát.
- Bài thơ là một tác phẩm nổi tiếng của Đỗ Phủ
2. Bố cục (4 phần):
- Phần 1 (khổ 1): Cảnh ngôi nhà bị gió thu phá
- Phần 2 (khổ 2): Cảnh những đứa trẻ cướp tranh
- Phần 3 (khổ 3): Nỗi khổ của gia đình trong đêm
- Phần 4 (khổ 4): Ước vọng của nhà thơ
3. Giá trị nội dung
Bài thơ đã thể hiện một cách sinh động nỗi khổ của chính bản thân Đỗ Phủ vì căn nhà bị gió thu phá nát. Điều đáng quý hơn là, vượt lên trên nỗi bất hạnh cá nhân, nhà thơ đã bộc lộ khát vọng cao cả: ước mơ có được ngôi nhà vững chắc ngàn vạn gian để che chở cho tất cả mọi người nghèo trong thiên hạ
4. Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ cổ thể
- Sự sắp xếp các chi tiết theo trình tự hợp lí
- Kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm
III. Phân tích tác phẩm
a) Dàn ý
Dàn ý phân tích mẫu số 1
I. Mở bài
- Giới thiệu khát quát về tác giả Đỗ Phủ (giới thiệu một số nét cơ bản về tiểu sử, sự nghiệp sáng tác…)
- Giới thiệu về bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)
II. Thân bài
1. Cảnh ngôi nhà bị gió thu phá
- Kết hợp kể và tả
- Gió mùa thu tháng tám làm cuốn mất những lớp tranh của ngôi nhà
- Hình ảnh những mảnh tranh bị gió thu cuốn:
+ Bay sang sông rải khắp bờ
+ Treo tót rừng xa
+ Quay lộn mương sa
⇒ Khung cảnh xơ xác, tiêu điều, tan tác.
⇒ Tâm trạng của tác giả: buồn, lo lắng, bất lực trước hình ảnh ngôi nhà sau trận gió lớn
2. Cảnh những đứa trẻ cướp tranh
- Kết hợp tự sự và biểu cảm
- Hình ảnh những đứa trẻ cướp tranh:
+ Khinh tác giả già yếu
+ Xô cướp giật
+ Cắp tranh đi tuốt vào lũy tre
⇒ Loạn lạc, cùng cực, cuộc sống suy đồi ngay cả đối với những đứa trẻ
- Tâm trạng của tác giả:
+ Môi khô, miệng cháy không gào lên được
+ Ấm ức, bất lực trước hiện thực
⇒ Nỗi đau nhân tình thế thái
3. Nỗi khổ của gia đình trong đêm
- Kết hợp tự sự, miêu tả và biểu cảm
- Khung cảnh thiên nhiên:
+ Gió lặng
+ Mây tối mực
+ Đêm đen đặc
+ Mưa dày hạt chẳng dứt
- Nỗi khổ của gia đình trong đêm:
+ Chăn lâu năm không đủ ấm
+ Nhà dột không chừa chỗ nào
+ Loạn lạc
⇒ Nỗi khổ thiếu thốn về vật chất và vì chiến tranh loạn lạc. Đây không phải là nỗi khổ của riêng gia đình tác giả mà là nỗi khổ của những gia đình Trung Quốc trong xã hội bấy giờ
- Câu hỏi tư từ cuối khổ thơ cho thấy nỗi lo lắng khôn nguôi của tác giả trước cuộc sống của gia đình ông, trước nỗi khổ của nhân dân
4. Ước vọng của tác giả
- Biểu cảm trực tiếp
- Ước có một ngôi nhà “rộng muôn ngàn gian” vô cùng vững chắc cho mọi người nghèo khổ trong thiên hạ
- Tác giả đặt nỗi khổ của nhân dân lên trên nỗi khổ của bản thân mình: “Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!”
Dàn ý phân tích mẫu số 2
II. Mở Bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm
+ Tác giả Đỗ Phủ: Là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất của lịch sử văn học Trung Quốc (cùng với Lý Bạch); vừa làm quan vừa làm thơ
+ Tác phẩm "Bài ca nhà tranh bị gió thu phá": Chính là hiện thực cho hoàn cảnh, số phận cũng như cuộc đời của Đỗ Phủ cùng gia đình ông.
II. Thân Bài
- Phân tích cảnh ngôi nhà bị gió thu tàn phá:
+ Khung cảnh ngôi nhà trước trận gió: Gió giật thổi bay mái tranh,...
+ Tâm trạng của tác giả: Lo lắng và bất lực
- Phân tích cảnh những đứa trẻ cướp mái tranh
+ Hành động của những đứa trẻ: Cướp giật, khinh lão già như tác giả
+ Sự bất lực của nhà thơ: Già yếu, ấm ức không làm gì được
- Phân tích hoàn cảnh và nỗi khổ của gia đình tác giả trong đêm mưa rét
+ Nỗi khổ của gia đình tác giả: Nhà dột, chăn rách,...
+ Phản ánh thực trạng xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ: Loạn lạc, thiếu thốn và đói khổ vì chiến tranh
- Phân tích nỗi lòng và ước nguyện cao đẹp của nhà thơ
+ Ước nguyện của nhà thơ: Ước có căn nhà rộng muôn ngàn gian
+ Tấm lòng nhân ái, cao thượng của nhà thơ
III. Kết Bài
- Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ
+ Nội dung
+ Nghệ thuật
b) Phân tích tác phẩm
Phân tích tác phẩm Bài ca nhà tranh bị gió thu phá – Bài văn mẫu số 1
Đỗ Phủ là một trong những nhà thơ hiện thực vĩ đại của văn học Trung Hoa với những sáng tác chạm sâu vào trái tim người đọc. Thơ ông là những bức tranh sinh động, chân thực về xã hội phong kiến, về những mảnh đời cơ cực và về những khát khao có cuộc sống bình dị nhất. Ông hiểu và thấu nỗi đau của muôn kiếp vì chính bản thân mình cũng đã trải qua. “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” được sáng tác khi ông đã nếm trải biết bao nhiêu cay đắng ở đời, phản ánh được hiện thực khốc liệt và tình yêu thương đồng loại của Đỗ Phủ.
Những năm tháng Đỗ Phủ phải sống trong cảnh nghèo khó, cơ cực. Cuộc sống gia đình ông túng thiếu, sống trong một mái nhà tranh bên cạnh khe Cán Hoa phía Tây Thành Đô.
Những ngày mưa mùa thu gió lùa đã khiến cho mái nhà tốc mái. Có lẽ đây chính là cảm hứng, cũng chính là hiện thực để cho ông viết lên những dòng thơ này.
Đoạn thơ đầu tiên viết về một trận cuồng phong tháng tám:
Tháng tám, thu cao, gió thét gào
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta
Tranh bay sang sông rải khắp bờ
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa
Mảnh thấp quay lộn vào mương xa
Chỉ với mấy câu thơ nhưng đã khái quát được hiện thực tàn khốc từ thiên nhiên, những cơn gió tháng tám đã lật tung mái nhà tranh nghèo. Thật cám cảnh cho mái nhà tranh rách nát của Đỗ Phủ, ông đành bất lực nhìn thiên nhiên tàn phá. Một hiện thực đầy xót xa mà người đọc nhận ra chính là thiên nhiên cứ vô tình với cuộc đời nhiều đắng cay của một người vẫn mải miết cống hiến cho đời những vần thơ thật đẹp.
Đây cũng chính là thời điểm loạn lạc mà nhân dân Trung hoa phải đối mặt và trải qua. Binh biến loạn lạc, người dân mất nhà mất cửa, mất người thân, đạo đức suy thoái nghiêm trọng. Đỗ Phủ bất lực nhìn xã hội đang rơi vào ngõ cụt:
Môi khô, miệng cháy gào chẳng được
Quay về chống gậy lòng ấm ức
Nhà thơ già dẫu có “gào” khô cả môi cũng không ai thấu, không ai hiểu, đành ngậm ngùi “chống gậy lòng ấm ức”. Nỗi xót xa hiển hiện ngay trong từng câu từng chữ càng khiến người đọc không kìm được cảm xúc. Xã hội tàn khốc, lòng người lạnh lẽo làm sao cứu vãn nổi. Và tác giả như trào ra sự căm tức và oán hận:
Ngoài biên máu chảy thành biển đỏ
Mở cõi nhà vua ý chưa bỏ
Hiện thực chiến tranh tàn khốc đang phô bày ra trước mắt nhưng nhà vua nào đâu có thấu, có hiểu. Những năm tháng chinh phạt đã khiến cho cuộc sống của nhân dân thêm lầm than và rơi vào ngõ cụt không thể cứu vãn.
Cảnh mưa gió ngày thu tàn phá căn nhà khiến cho Đỗ Phủ không thể chợp được mắt, thương vợ, thương con và thương chính bản thân mình:
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê
Đêm dài ướt át sao cho trót
Câu thơ như cứa vào lòng người nỗi khắc khoải, xót xa cho một kiếp người, kiếp nghèo long đong lận đận.
Nỗi đau đớn, tủi nhục của một người tài giỏi nhưng lận đận, tù tùng, cái nghèo cứ bám riết lấy. Ông tự trách bản thân mình vô dụng không thể đỡ dần, giúp đỡ cho vợ con. Đất nước chiến tranh loạn lạc, nhân dân lầm thân. Một bức tranh hiện thực xã hội Trung Hoa nhiều xót xa và nước mắt. Bằng ngòi bút chân thực, ông đã vẽ lên trước mắt người đọc hiện thực xã hội nhiều ám ảnh.
Và rồi ông càng mong muốn, càng khát khao được ấm no và mong và nhân dân qua khỏi cơ cực, nhọc nhằn:
Ước được nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan
Gió mưa chẳng núng vững vàng như thạch bàn
Than ôi bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát chịu chết rét cũng được.
Đây là một khổ thơ giàu giá trị nhân đạo, là tấm lòng cao cả, vị tha và đầy yêu thương của nhà thơ nghèo Đỗ Phủ dành cho nhân dân Trung Hoa.Niêm ao ước có căn nhà rộng “muôn ngàn gian” để giúp cho nhân dân đỡ lạnh, đỡ khổ trong những ngày mưa gió. Ước muốn nhỏ nhoi ấy đã nói lên tấm lòng yêu thương vô bờ bến của ông dành cho những người nghèo khổ như ông. Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là ông không “ước’ cho mình, chỉ ước cho mọi người. Câu thơ cuối thực sự khiến người đọc nghẹn ngào:
Riêng lều ta nát chịu chết rét cũng được
Dù nghèo đói, dù cơ cực nhưng ông vẫn tràn đầy lòng vị tha. Dù chịu cánh “chết rét” ông cũng can tâm để mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân.
Bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” của Đỗ Phủ đã phản ánh được hiện thực của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ, đồng thấy người đọc thấy được tấm lòng nhân ái, vị tha của ông đối với cuộc đời, với mọi người.
Phân tích tác phẩm Bài ca nhà tranh bị gió thu phá – Bài văn mẫu số 2
Đời Đường - Trung Quốc trong khoảng những năm 618 - 907 thi ca nghệ thuật phát triển vô cùng mạnh mẽ và thu được những thành tựu rực rỡ. Với hơn 2.300 thi sĩ và khoảng hơn 48.000 bài, thơ Đường được liệt vào hàng thơ ca ưu tú nhất của nhân loại. Trong số đó không thể không kể đến Đỗ Phủ (712- 770) nhà thơ giàu lòng yêu nước thương dân, được tôn vinh là "thi thánh". Tính hiện thực và tinh thần nhân đạo là chủ đề xuyên suốt trong thơ. Bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá là một trong những bài thơ như vậy.
Bài thơ này được xem là một trong những bài thơ hay nhất trong số 100 bài tiêu biểu của Đỗ Phủ được sáng tác vào những năm cuối đời sống ở Thành Đô. Cùng thời gian đó loạn An Lộc Sơn vẫn chưa dứt, bài thơ lấy gốc sâu xa từ điệu dân ca cổ. Đã có rất nhiều nhà thơ có cách viết thế ca này: Thu Phô ca (Lý Bạch), Trường hận ca (Bạch Cư Dị).
Mở đầu bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá như kể lại về trận gió thu. Đây không phải là cơn gió heo may mát lành mà đây là một trận bão tố, cơn lốc vào tháng tám Gió thét gào.
Tháng tám, thu cao, gió thét gào,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa
Mảnh thấp quay lộn vào nương sa.
Căn nhà lợp tranh yếu ớt bị cơn thu phong lật tung cuộn bay khắp nơi. Có tấm tranh bay rải khắp bờ sông. Có tấm bay tận rừng xa, có tấm rơi nơi mương nước. Việc lặp lại từ tranh đến 2, 3 lần chứng tỏ trận bão tố rất ghê gớm. Căn nhà được bạn bè giúp đỡ để nương thân qua ngày giờ đây tan thương.
Ngước nhìn từng tấm tranh theo gió bay đi mà lòng xót xa, bất lực. Tiếng thơ như lời than thở, khóc lóc cho cảnh sống khổ cực của thi nhân.
Sự đau đớn xót xa được thể hiện sâu sắc hơn ở khổ thơ kế tiếp. Nhà thơ phải chứng kiến sự phá phách căn nhà của mình cùng với trận bão tố mà nhà thơ gọi là "đạo tặc".
Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức,
Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,
Cắp tranh đi tuốt vào lũy tre
Môi khô miệng cháy gào chẳng được
Quay về, chống gậy lòng ấm ức.
Chiến tranh liên miên, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, loạn lạc. Đạo đức suy đồi đến cùng cực. Lũ trẻ hàng xóm không ai dạy dỗ, không chỗ học hành chúng ngang tàng kéo đến cướp tranh nhà Đỗ Phủ. Chúng không còn biết lễ giáo, lễ phép gì nữa. Chúng khinh nhà thơ "già yếu", trơ tráo lạnh lùng trước tiếng kêu than “Môi khô miệng cháy” của tác giả. Vậy là sau thiên tai, gia đình nhà thơ lại gặp nạn "Đạo tặc". Trước mắt nhà thơ là lũ quần đồng, hạ lưu, kẻ cướp. Đó chính là sản phẩm của một xã hội đang trên đà xuống dốc. Người người sống với nhau gian tham, xã hội thì đảo điên; tấm lòng nhà thơ đau đớn vô cùng, nhìn cuộc đời, con người trong xã hội mà lòng ấm sức, căm hận biết bao. Muốn gào lên, thét lên mà không nói thành lời.
Vậy là căn nhà bị gió phá, lũ đạo tặc phá. Nó làm sao đủ sức chống lại những trận cuồng phong, mưa rét đêm thâu. Trời mưa rả rích đêm thâu mà mái nhà bị gió thu phá nát. Gió lặng, mây đen phủ kín bầu trời. Mưa tầm tã suốt đêm thâu, nhà dột không ngủ được. Đoạn thơ nêu lên một hiện thực đau lòng và khốn khổ của nhà thơ trong đêm mưa.
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa mưa chẳng dứt.
Tuổi già, sức yếu, bệnh tật... lại phải ngồi dưới mưa, trong thâm tâm Đỗ Phủ thương mình thì ít nhưng thương cho vợ con, gia đình thì nhiều. Nỗi đau như dồn nén lại thành một khối, trút một con người bất hạnh, đau khổ gần cả cuộc đời. Nhà thơ như thấy mưa lâu hơn, nhiều hơn, đêm như dài hơn và nỗi buồn thương không dứt.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê
Đêm dài ướt át sao cho trót?
Thật là phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí. Tai hoạ với nhà thơ là một đêm thu trời mưa nhà dột. Thân già, sức yếu ngồi co ro trong mưa rét, nhìn vợ con đang nằm dưới mưa lòng sao không đau quặn. Cái nghèo nó đeo đẳng mãi, chăn cũ lâu năm con đạp rách, nhà dột... Sự cùng cực của một gia đình tàn tạ dưới thời loạn lạc, li tán.
Trong đêm mưa rét mất ngủ ấy, nỗi lòng nhà thơ vẫn tin yêu vào cuộc sống, chất nhân văn vẫn dâng trào lo cho đời cho dân cho nước.
Ước được nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan
Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!
Than ôi! bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!
Trong nỗi đau thương phũ phàng của cuộc đời, con người ta rất dễ rơi vào sự khủng hoảng tinh thần. Đôi khi gục đầu cam chịu, than thân trách phận nhưng với Đỗ Phủ thì hoàn toàn khác, ông ngồi trong đêm mưa lạnh cóng, có người sẽ nghĩ rằng ông sẽ ước có mái lều, tấm chăn, bát cơm... cho vợ con và bản thân ông khỏi vất vả. Thật bất ngờ trong niềm mong ước của ông, ước mơ có một ngôi nhà kỳ vĩ: “Muôn ngàn gian” vô cùng vững chắc. Ngôi nhà ấy không phải để che cho ông và gia đình mà “Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan”. Ông thương cho những người nghèo khổ không chỗ trú thân, che nắng che mưa cho dân. Thật là một tấm lòng nhân hậu. Yêu thương bao la Thường xuyên lo cho dân nghèo, than thở đến nóng gan, cháy ruột” dù cuộc đời đầy rẫy nhưng vất vả, loạn lạc. Và vì vậy ông rất đồng cảm cho cảnh ngộ muôn dân tan nát gia đình vì chiến tranh, đói khổ vì nghèo túng, bệnh tật. Đau xót cho dân cho nước, ước mơ đất nước thái bình, nhân dân no ấm nên ông quên đi cái khổ cực của bản thân. Có thể nói Đỗ Phủ có tình thương lớn của một nhà nho chân chính sống và ứng xử theo phương châm “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Qua bài thơ trên ta thấy Đỗ Phủ mang nặng tấm lòng nhân ái bao la của một con người trải qua nhiều bất hạnh giữa thời loạn lạc. Ông mong mỏi, và khao khát hạnh phúc cho muôn dân. Bài thơ chất chứa chất nhân văn cao cả của bậc vĩ nhân quên đi bản thân mình mà lo cho dân cho nước.
Phân tích tác phẩm Bài ca nhà tranh bị gió thu phá – Bài văn mẫu số 3
Bài thơ: Mao ốc vị thu phong sở phá ca (Bài ca nhà tranh bị gió thu phá) của Đỗ Phủ biểu hiện một tâm hồn cao đẹp ở một hoàn cảnh khá thú vị.
Tháng tám, thư cao, gió thét già,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta.
….
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt,
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!
Đây là bài thơ tự do, câu dài, câu ngắn phóng túng phù hợp với đề tài miêu tả một trận gió to, nhà bị tốc mái, gọi là thơ "cổ thể" - thể thơ xuất hiện trước thơ Đường. Do trình độ hạn chế nên chúng ta chỉ đọc bản dịch thơ của nhà thơ Khương Hữu Dụng. Và cũng vì thế, chúng ta chủ yếu tìm hiểu bố cục, hình ảnh, chứ không đi sâu phân tích, đánh giá các từ ngữ cụ thể trong nguyên tác chữ Hán như đối với ba bài thơ trước.
Bài thơ gồm bốn phần với những bút pháp khác nhau, khá linh hoạt:
- Phần một:
Tháng tám thu cao, gió thét già,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta.
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa,
Mảnh thấp quay lộn vào mương sa.
Năm câu đầu miêu tả cảnh gió làm tốc mái nhà, những tấm cỏ tranh dùng lợp nhà bay sang bờ sông bên kia, treo trên ngọn cây rừng, nhào xuống lòng mương nước. Cảnh tượng thật kinh hoàng. Thơ tả là chính, song vẫn toát ra nỗi khiếp sợ hốt hoảng của nhà thơ - miêu tả, biểu cảm.
- Phần hai:
Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức,
Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,
Cắp tranh đi tuốt vào lũy tre
Môi khô miệng cháy gào chẳng được,
Quay về, chống gậy lòng ấm ức!
Năm câu tiếp vừa kể việc, vừa bộc lộ nỗi xót xa, đau đớn - tự sự kết hợp biểu cảm. Hai hình ảnh đối lập được kể ra, thật đáng thương lắm: Trong khi lũ trẻ thôn nam đua nhau cướp những tấm tranh, chạy đi, thì một ông già, nhà thơ Đỗ Phủ tay chống gậy, miệng thét gào thảm thiết chẳng đòi lại được, cuối cùng đành mang "lòng ấm ức" trở về nhà. Nỗi đau vì cơn gió dữ mùa thu mỗi lúc một tăng.
- Phần ba:
Giây lát, gió lặng, mây tối mực,
Trời thu mịt mịt đêm đen đặc.
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa, mưa chẳng dứt.
Từ trải Cơn loạn ít ngủ nghê Đêm dài ướt át sao cho trót? Tám câu tiếp theo miêu tả trận mưa phũ phàng hành hạ nhà thơ. Mưa mỗi lúc một "dày hạt", nhà thì dột, chăn mền ướt sũng "lạnh tựa sắt", con thơ quấy khóc... Đoạn thơ vừa miêu tả vừa kể chuyện về cuộc đời trôi nổi rồi buông lời thở than, biểu cảm. Hai câu thơ cuối "Từ trải cơn li loạn ít ngủ nghê - Đêm dài ướt át sao cho trót ?" buông ra, khái quát cảnh đời và nỗi đau thân phận đến thê thảm của một kiếp người tài hoa mà bất hạnh. Hình ảnh đêm dài vừa tả thực cái đêm đen mưa gió lúc bấy giờ vừa ẩn dụ cho tình hình đất nước và cuộc đời nhà thơ vào những năm ông phải lưu lạc, li hương vì cảnh nội chiến. Câu thơ cuối cấu trúc dạng câu hỏi, hỏi tu từ "Đêm dài ướt át sao cho trót ?". Do đó, câu thơ vừa giãi bày nỗi đắng cay của nhà thơ vừa ngầm lên án giai cấp thống trị bấy giờ quá hèn kém để xảy ra nạn binh đao khiến nhân dân không sao tránh khỏi được kiếp sống lầm than, ướt át, tối tăm.
Như vậy, qua ba phần trên của bài thơ gồm mười tám câu thơ, tác giả bài Mao ốc vị thu phong sở phá ca vừa tả, vừa kể về một trận gió mưa mùa thu tàn phá căn nhà của mình, vừa ẩn dụ cho bức tranh xã hội đầy li loạn thời kì Trung Đường bấy giờ. Từ đó, nhà thơ cất lên tiếng nói xót xa cho thân phận mình nói riêng, cho kiếp người nói chung trước thiên tai và những tai ương do con người gây ra. Mỗi dòng thơ như một dòng nước mắt cứ tuôn ra, tuôn ra mãi...
- Đến phần bốn:
Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn!
Kết bài thơ, bất ngờ thay, nhà thơ không tiếp tục thở than mà trái lại, ông bình tĩnh, suy ngẫm để rồi cất lên tiếng nói lạc quan, giãi bày niềm khát vọng lớn lao, cao đẹp. Đỗ Phủ "Ước được nhà rộng muôn ngàn gian" để che khắp thiên hạ, kẻ sĩ cũng như người nghèo đều được sống hạnh phúc. Hai câu kết đoạn, cũng là kết bài thật bất ngờ. Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt, Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được! Đoạn thơ thứ tư, nhất là hai câu kết này thể hiện tấm lòng vị tha (chỉ nghĩ đến người khác, không nghĩ riêng cho mình) và tinh thần nhân đạo (thương người, mong mọi người hạnh phúc) rất đáng quý của Đỗ Phủ. Ước mơ ấy tuy mang màu sắc ảo tưởng, lãng mạn nhưng rất chân thực, bắt nguồn từ cuộc sống có thực và bản tính nhân hậu của một thi sĩ luôn luôn gắn bó với đời, luôn quan tâm và mong muốn nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Kết hợp nhiều phương thức biểu đạt, Bài ca nhà tranh bị gió thu phá của Đỗ Phủ đã thể hiện một cách sinh động nổi khổ của bản thân do căn nhà bị gió thu phá nát. Điều đáng quý hơn là vượt lên trên bất hạnh cá nhân, nhà thơ đã thổ lộ khát vọng cao cả: Ước sao có được ngôi nhà vững chắc ngàn vạn gian để che chở cho tất cả mọi người nghèo trong thiên hạ. Đặt tên cho bài thơ của mình là "bài ca", phải chăng Đỗ Phủ muốn cất cao tiếng hát vì con người, khích lệ con người vượt trên mọi đau khổ của cuộc đời hiện tại để hướng tới một tương lai tươi sáng? Đỗ Phủ đích thực là nhà thơ hiện thực mang tâm hồn lãng mạn cao quý, xứng đáng được người đời tồn là bậc "Thánh Thi".
Phân tích tác phẩm Bài ca nhà tranh bị gió thu phá – Bài văn mẫu số 4
Đỗ Phủ là cây đại thụ của nền văn học cổ điển Trung Hoa, ông sống vào giai đoạn cực thịnh sau đó là suy vong của đời Đường, nên đã chứng kiến tận mắt chiến tranh liên miên, thiên tai địch hoạ, bao cảnh thương tâm, khổ cực của dân chúng dưới chế độ phong kiến đương thời. Tất cả những cảnh ngộ éo le ấy trong đó có bản thân nhà thơ đều được ghi lại đầy đủ và rõ nét trong hầu hết thơ của ông. Ngoài giá trị hiện thực lịch sử to lớn, còn thể hiện cái nhìn yêu thương đối với nhân dân lao động. Bài Bài ca nhà tranh bị gió thu phá đã phản ánh được điều này.
Bài thơ này được xếp vào những bài thơ hay nhất của ông. Vào những năm cuối đời sau khi đã nếm trải đủ những tủi cực, đắng cay của cuộc đời bôn ba thiên hạ. Ông trở về sống ở Thành Đô, gia cảnh của ông vẫn cực khổ bần hàn, nghèo túng. Được bạn bè giúp đỡ, ông đã có một căn nhà tranh bên cạnh Khe Cán Hoa phía Tây Thành Đô. Căn nhà tranh ấy là đối tượng miêu tả trong sự chống đỡ, vật lộn với trận thu phong.
Tháng tám, thu cao, gió thét già,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa
Mảnh thấp quay lộn vào mương xa.
Đoạn thơ là bức tranh về một trận thu phong vào tháng tám Gió thét già. Qua cách kể của tác giả ta hình dung trận gió thu rất mạnh, trong phút chốc những tấm tranh kia bị lật tung bay khắp mọi nơi. Có mảnh tốc bay cao, bay thấp, bay xa, bay gần rải khắp bờ, treo tót ngọn cành cây, quay lộn vào mương… Thật là trớ trêu cho cảnh ngộ của ông già Đỗ Phủ, ngước mắt nhìn theo những tấm tranh bị gió cuốn mà lòng xót xa và bất lực. Vậy là thiên nhiên vô tình cũng chẳng buông tha cho người áo vải bao năm tháng bôn ba mưu sinh giờ đây mới có được ngôi nhà tranh trú mưa trú nắng.
Những năm đó loạn An Sử vẫn còn rất khốc liệt, đời sống nhân dân vô cùng cơ cực, li tán, chết đói đẫy rẫy. Nhà nhà, người người bị ném vào cuộc chiến tranh phi nghĩa. Có những gia đình mà đến hơn một nửa bị chết trong khói lửa sa trường.
Van rằng: Có ba trai
Nghiệp thành đều đi thứ
Một đứa gửi thư nhắn
Hai đứa vừa chết trận
Đứa chết đành thôi rồi
Đứa còn đâu chắc chắn.
(Viên Lại ở Thạch Hào)
Có ba trai phải tòng quân, hai đứa chết trận, đứa còn biết sống chết ra sao. Rồi cả bà lão đã gần đất xa trời cũng phải ra chốn Hà Dương. Nghèo khổ, túng bấn cả con dâu không còn quần áo lành lặn. Hiện thực xã hội là như vậy. Một xã hội mà đảo điên, loạn li như vậy thì chắc chắn đạo đức suy đồi xuống cấp nghiêm trọng. Căn nhà đã bị gió thu phá sạch, lũ trẻ thôn Nam nghịch ngợm quá mức kéo nhau đến cướp tranh đi mất. Nhà thơ già yếu, chân chậm mắt kém làm sao đuổi được.
Môi khô, miệng cháy gào chẳng được
Quay về, chống gậy lòng ấm ức!
Cảnh ngộ cười ra nước mắt, chống gậy quay về ngôi nhà tuềnh toàng mà lòng đau đớn, xót xa. Những bước chân mỏi mệt, đắng cay và bất lực, tràn lên tận cuống họng mà không nói thành lời. Trong lòng tác giả đang oán hận và trách móc, có chăng lũ trẻ tinh nghịch, đói nghèo thất học tràn lan. Lấy ai nuôi dạy chúng khi:
Ngoài biên máu chảy thành biển đỏ,
Mở cõi nhà Vua ý chưa bỏ…!
Hay:
… Cửa son rượu thịt ôi,
Ngoài đường, xương chết buốt!
Sự trớ trêu trong cảnh ngộ của Đỗ Phủ không chỉ là thu phong tốc mái căn nhà tranh mà về đêm thêm một tai hoạ mới. Mưa thu dầm dề, sùi sụt, dai dẳng kéo dài suốt đêm, kéo theo cái lạnh càng thêm lạnh. Nhà dột lung tung khác chi ở ngoài trời. Chăn, mền cũ, bị con quẫy đạp rách. Mãi chưa sáng… mưa mãi không tạnh… làm sao nhà thơ có thể ngủ được. Ông trằn trọc suốt đêm trong mệt nhọc, đói rét, lo lắng, buồn rầu, thương vợ, thương con.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê,
Đêm dài ướt át sao cho trót.
Đêm dài như dài thêm, ông già cũng chỉ đành cay đắng, ấm ức và bất lực ngồi đếm từng nhịp trống canh. Ta thấy hiện lên trên khuôn mặt nhà thơ sự đau khổ, cay đắng. Một kẻ sĩ có học thức mà công danh thì lận đận, cuộc đời thì long đong, túng bấn khổ cực. Ông trách mình đã chẳng giúp gì cho vợ con và gia đình trong cảnh nghèo khổ ấy. Băn khoăn trăn trở hơn là kẻ sĩ mà chẳng giúp gì được cho đời, chiến tranh liên miên, dân chúng loạn lạc cực khổ. Càng nghĩ ông càng phê phán và lên án chiến tranh, lên án xã hội phong kiến gây bao cảnh đời vất vả như chính gia đình tác giả. Nỗi khổ về vật chất và tinh thần của Đỗ Phủ cũng là cái khổ chung của nhân dân lao động, của các nhà nho, trí thức thời đó. Sự khốn cùng của gia đình tác giả là chứng tích cho một thời kỳ lịch sử xã hội Trung Quốc hay đó chính là xã hội thời Đường thu nhỏ lại. Chỉ đơn thuần là nhà bị gió phá, mưa dột nghèo túng nhưng bài thơ có giá trị hiện thực to lớn, phản ánh nhiều mặt đang nóng bỏng của xã hội Trung Quốc lúc đó. Những nỗi đau của dân đen ông cũng đã từng chứng kiến nếm trải để rồi từ hiện thực của gia đình, xã hội, nhà thơ thể hiện khát vọng hoà bình, dân chúng ấm no:
Ước được nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn!
Than ôi! bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!
Cùng với giá trị hiện thực sâu sắc của bài thơ, khổ thơ cuối thể hiện sâu sắc khát vọng cao đẹp, ước mơ cao cả, vị tha. Nhà mình thì dột nát, sắp đổ đến nơi, biết bao giờ dựng lại được? Vậy mà ông luôn nghĩ tới tương lai, không hề nghĩ cho mình, gia đình, lại nghĩ đến ngôi nhà chung, to cao, rộng rãi, vững chắc muôn nghìn gian, bất chấp mưa nắng, vững như thạch bàn dành cho muôn nghìn dân đang đói rách, cơ cực bần hàn trú ngụ. Dù đau khổ chất chồng, nhưng không dập tắt được nhân tính, không làm mất được niềm tin, con người không bị hoàn cảnh đè bẹp mà ngạo nghễ vượt lên trên hoàn cảnh. Thương người là nhân, yêu người là ái. Lòng nhân ái của Đỗ Phủ thật cảm động và thiết thực cụ thể. Điều cao cả và đáng kính trọng hơn nữa là ở chỗ mơ ước ấy mang tinh thần vị tha tới mức xả thân vì người khác. Ông vui lòng chịu chết cóng, chết rét để có được ngôi nhà trong mơ ấy.
Thực tế xưa nay không có ngôi nhà rộng muôn ngàn gian như thế. Khổ thơ được sáng tạo bằng biện pháp tu từ so sánh và thậm xưng đế diễn tả ước mơ to lớn và cảm hứng lãng mạn dạt dào, làm sáng bừng lòng nhân ái bao la của một con người từng trải qua bao bất hạnh giữa thời loạn lạc. Vì vậy nhà thơ mong mỏi ai ai cũng được sống cuộc sống yên ấm hạnh phúc.
Dù đã qua đi hơn mười hai thế kỷ nhưng bài thơ này vẫn giữ được cho mình chỗ đứng trong trái tim mỗi chúng ta bởi vì giá trị hiện thực và tính nhân đạo bao la luôn toả sáng trong đó.
Phân tích tác phẩm Bài ca nhà tranh bị gió thu phá – Bài văn mẫu số 5
Nói đến những nỗi khổ bất hạnh mà con người phải chịu dưới chế độ của xã hội phong kiến, chúng ta không thể không nhắc tới nhà thơ Đỗ Phủ – một nhà thơ nổi tiếng thời Đường. Trong thơ của ông hiện rõ bức tranh chân thực về cuộc sống của những mảnh đời cơ cực, bần hàn, bất hạnh trong xã hội phong kiến. Đặc biệt là trong bài thơ “Căn nhà tranh bị gió thu phá nát”.
Để viết nên được một bài thơ như vậy chính nhờ tác giả đã nếm trải những cay đắng và khổ sở ấy. Gia đình ông vốn sống trong cảnh nghèo khó, thiếu thốn về vật chất và phải sống trong nhà tre tạm bợ bên suối. Mở đầu bài thơ là hình ảnh mái nhà tre trong trận cuồng phong tháng Tám:
“Tháng tám, thu cao, gió thét già…
Quay về, chống gậy lòng ấm ức!
Đoạn thơ đã miêu tả sự tàn khốc của những cơn dông gió tàn phá ngôi nhà tranh, mái nhà tranh của nhà thơ bị lật tung bay đi mất, đã không kịp nhặt còn bị những đứa trẻ ăn cướp, bất lực vì không làm gì được. Đây chính là một bức tranh thiên nhiên nhưng lại vô cùng tàn khốc và dữ dội, nhà thơ đang lúc tuổi già sức yếu, “môi khô miệng cháy” không thêt gào để lấy lại những miếng tranh đã bay đi, đành bất lực mà đứng nhìn. Đó dường như là thảm cảnh của một xã hội tàn khốc, loạn lạc khiến cho người đọc không khỏi xót xa. Trong đoạn thơ tiếp theo, tác giả đã diễn tả sự thiếu thốn trong ngôi nhà của mình. Trận cuồng phong đã kéo phăng đi những mái tranh, để trơ trọi ra một ngôi nhà đơn sơ, chỉ có chiếc giường, chiếc chăn rách nát, mái nhà đã “dột chẳng chừa đâu”:
“Giây lát, gió lặng, mây tối mực…
Đêm dài ướt át sao cho trót?”
Phân tích bài thơ Căn nhà tranh bị gió thu phá của tác giả Đỗ PhủMột ngôi nhà chẳng có một thứ gì đáng giá, ngoài bầy con đang nheo nhóc. Đó là một tình cảnh trên cả đáng thương, nếu là một người bình thường có lẽ đã uất hận mà đổ lỗi cho số phận, cuộc đời. Nhưng tác giả lại khác, nhà thơ chấp nhận mà không hề oán tránh, than vãn. Tác giả chỉ thêm phần thương vợ thương con và thương cho chính bản thân mình. Đó chính là nỗi lòng của một con người tài giỏi nhưng khi về già lại chịu cảnh sống bần hàn, nghèo nàn và lận đận, đất nước thì loạn lạc. Trong hoàn cảnh như vậy, con người ta lại càng muốn mong ước, chỉ là những mong ước giản dị, được ấm no và hòa bình cho chính nhà thơ cũng như toàn thể dân nghèo:
Ước được nhà rộng muôn ngàn gian…
Riêng lều ta chịu rét cũng được”
Tác giả đã cho người đọc thấy được lòng nhân đạo sâu sắc, cao cả và vị tha của một nhà thơ trữ tình dành cho người dân nghèo. Ông đồng cảm với những người nghèo khổ như ông và cam tâm chấp nhận sống khổ nếu đổi lại nhân dân được ấm no.
Bài thơ “Căn nhà tranh bị gió thu phá nát” của Đỗ Phủ đã phơi bày hiện thực tàn khốc của xã hội Trung Hoa lúc bầy giờ, thể hiện khát khao và mong ước giản đơn của nhà thơ cũng như người dân Trung Hoa.