Tác giả, Tác phẩm văn 7 – Những câu hát than thân

Những câu hát than thân

I. Đôi nét về tác phẩm Những câu hát than thân

1. Giá trị nội dung

Những câu hát than thân có số lượng lớn và rất tiêu biểu trong kho tàng ca dao, dân ca Việt Nam. Ngoài ý nghĩa than thân, đồng cảm với cuộc đời nghèo khổ, cay đắng của người lao động, những câu hát này còn có ý nghĩa phản kháng, tố cáo xã hội phong kiến

2. Giá trị nghệ thuật

- Thể thơ lục bát

- Sử dụng hình ảnh nhỏ bé, đáng thương làm hình ảnh so sánh, ẩn dụ

II. Phân tích tác phẩm

a)    Dàn ý

Dàn ý phân tích mẫu số 1

I. Mở bài

- Giới thiệu về thể loại ca dao, dân ca (khái niệm, đặc trưng về nội dung và nghệ thuật…)

- Giới thiệu về “Những câu hát than thân” (khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật)

II. Thân bài

1. Bài 1

- Hình ảnh cuộc đời con cò lam lũ, vất vả:

   + Từ láy giàu sức gợi hình, gợ cảm: “lận đận”

   + Thành ngữ gợi sự vất vả, lam lũ: “lên thác xuống ghềnh”

   + Hình ảnh đối lập: nước non – một mình, lên thác – xuống ghềnh, thân cò – thác ghềnh, bể kia đầy – sông kia cạn

⇒ Hình ảnh con cò vất vả long đong. Đồng thời, mượn hình ảnh con cò, tác giả muốn nói lên cuộc đời long đong, cơ cực của con người trong xã hội phong kiến

- Câu hỏi tu từ cùng đại từ phiếm chỉ “ai” diễn đạt nỗi oan trái mà cò gặp phải và sự gieo neo, khó nhọc, cay đắng của người lao động xưa. Đồng thời, thể hiện thái độ bất bình với kẻ làm cho cuộc sống của người nông dân trở nên cơ cực, vất vả, lênh đênh

⇒ Bài ca dao là lời than thân, trách phận của người nông dân trong xã hội cũ với cuộc sống long đong, lênh đênh, vất vả. Đồng thời, qua đó, tố cáo xã hội phong kiến bất công, là nỗi bất bình phản kháng của kẻ bị áp bức.

2. Bài 2

- Điệp từ “thương thay”:

   + Tô đậm thêm nỗi thương cảm, xót xa cho cuộc đời, số phận nhiều cay đắng, buồn tủi của người nông dân

   + Kết nối và mở ra những nỗi thương cảm khác

- Hình ảnh ẩn dụ:

   + Con tằm: thương cho thân phận suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lao động

   + Lũ kiến: thương cho những thân phận nhỏ nhoi, suốt ngày vất vả, lam lũ ngược xuôi nhưng vẫn nghèo túng

   + Hạc: cuộc đời phiêu bạt lận đận và những cố gắng không có hi vọng của người lao động

   + Con cuốc: thương thân phận thấp cổ bé họng, nỗi khổ đau không đòi được lẽ công bằng của người lao động

⇒ Nỗi khổ nhiều bề của người nông dân

⇒ Bài ca dao là lời than thân, trách phận của người nông dân về cuộc sống vất vả, nghèo khổ.

3. Bài 3

- Mở đầu bằng cụm từ “thân em” vốn quen thuộc trong ca dao, dân ca khi nói về thân phận của những người phụ nữ trong xã hội xưa

- Hình ảnh so sánh đặc biệt – trái bần, gợi nhiều suy nghĩ:

   + Phản ánh tính chất địa phương

   + Gợi nên cuộc sống lênh đênh, chìm nổi, vô định, không biết trôi dạt về đâu của người phụ nữ trong xã hội phong kiến

⇒ Bài ca dao diễn tả xúc động, chân thực cuộc đời cay đắng, lênh đênh, chòm nổi của người phụ nữu trong xã hội phong kiến. Họ không có quyến quyết định cuộc đời mình và bị lệ thuộc vào người khác.

III. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của “những câu hát than thân”

   + Nội dung: than thân, đồng cảm với cuộc đời nghèo khổ, cay đắng của người lao động, những câu hát này còn có ý nghĩa phản kháng, tố cáo xã hội phong kiến

Dàn ý phân tích mẫu số 2

1. Mở bài

- Giới thiệu về thể loại ca dao, dân ca (khái niệm, đặc trưng về nội dung và nghệ thuật…)

- Giới thiệu về “Những câu hát than thân” (khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật)

1. Bài 1

"Nước non lận đận một mình,

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

Ai làm cho bể kia đầy,

Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?"

- Hình ảnh cuộc đời con cò lam lũ, vất vả:

Sử dụng biện pháp nhân hóa để tái hiện cuộc đời khó khăn, vất vả của con cò

Từ láy giàu sức gợi hình, gợi cảm: “lận đận” - thể hiện cuộc sống bấp bênh, gặp nhiều khó khăn, vất vả, hết khó khăn này lại đến cơ cực khác, không được sung sướng, bình yên

Thành ngữ gợi sự vất vả, lam lũ: “lên thác xuống ghềnh” - chỉ những hành động rất khó khăn, vất vả, thậm chí là có phần nguy hiểm → Ấy vậy mà, một mình thân cò mảnh mai, yếu đuối lại phải vượt qua những khó khăn, gian khổ ẩy.

- Hình ảnh con cò chính là hình ảnh ẩn dụ của những người lao động nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội ngày xưa:

Họ phải làm những công việc khó khăn, gian khổ nhất trong xã hội

Họ phải làm việc quần quật suốt ngày ít khi được nghỉ ngơi, thế nhưng lại thường phải chịu thiếu thốn

Suốt cuộc đời họ chịu sự đàn áp, bóc lột, chi phối của giai cấp khác, khiến số phận lênh đênh, chìm nổi

→ Qua đó, khắc họa hình ảnh cuộc đời tội nghiệp của những con người lao động thời kì phong kiến

- "Ai" là đại từ phiếm chỉ dùng để chỉ những kẻ đã gây nên cuộc sống cơ cực, khốn khổ của những người lao động xưa - và những kẻ này mọi người đều rõ - đó chính là những bọn tham quan, địa chủ độc ác

→ Thế nhưng, câu ca dao phải dùng đại từ phiếm chỉ bởi vì phân cấp giai tầng trong xã hội xưa rất khắt khe, nếu chỉ đích danh những kẻ độc ác ấy thì số phận của những người lao động không biết sẽ đi về đâu.

- Câu hỏi tu từ "Ai làm cho bể kia đầy - Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?" là một câu hỏi không phải được đặt ra để tìm kiếm câu trả lời → Mà nó như một lời than thở đầy đắng cay, xót xa, tủi khổ của những số phận bất lực, không biết phải làm thế nào để thoát kiếp "thân cò lận đận".

- Hình ảnh "cò con" chính là hình ảnh ẩn dụ cho thế hệ sau này của giai cấp lao động nghèo trong xã hội xưa, từ bé đã sống trong cảnh tiếu thốn rồi khi lớn lên cũng phải sống trong vất vả, khó khăn, đói no bấp bênh như những "thân cò" của cha của mẹ.

⇒ Câu ca dao mang trong mình những giá trị nhân văn sâu sắc:

Thể hiện sự thương xót trước số phận tội nghiệp, khốn khổ, bấp bênh đến bất lực của những người lao động trong xã hội phong kiến ngày xưa

Tố cáo, lên án những kẻ độc ác, tham lam, đã chà đạp, bóc lột những con người lao động tội nghiệp ấy

2. Bài 2

"Thương thay thân phận con tằm

Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ

Thương thay lũ kiến li ti,

Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi

Thương thay hạc lánh đường mây,

Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.

Thương thay con cuốc giữa trời,

Dầu kêu ra máu có người nào nghe."

- Bài ca dao sử dụng mô tip quen thuộc của ca dao dân ca, dó là "thương thay". Mô tip này thường được dùng để thể hiện:

Sự thương tiếc, xót xa đối với đối tượng được trình bày

Sự suy ngẫm, than thở về chính số phận bất hạnh của bản thân

- Mô tip "thương thay" còn được lặp lại 4 lần tạo nên nhịp điệu uyển chuyển, khiến cho cảm xúc thương tiếc, xót xa bao trùm lên cả bài ca dao.

- Bài ca dao sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ khác nhau để chỉ người lao động:

+ Con tằm:

Cả cuộc đời con tằm chỉ ăn lá dâu, chờ đến đủ lớn sẽ rút ruột nhả tơ, làm nên những tấm lụa quý cho con người

Như người lao động cả đời làm việc vất vả, nhưng cũng chỉ ăn những thứ tấm thường nhất, dùng những thứ đơn sơ nhất, còn những sơn hào hải vị, vật dụng quý giá, tốt đẹp chỉ để dâng cho các người giàu, quan lại, quý tộc dùng mà thôi.

+ Con kiến:

Từ láy "li ti" kết hợp với đại từ "lũ" → thể hiện được thân phận nhỏ nhoi, hèn mọn, dưới đáy cùng và không có tiếng nói, quyền lợi gì của người lao động trong xã hội xưa không khác gì những con kiến.

"Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi" → con kiến cũng như người lao động phải làm quần quật quanh năm suốt tháng, hiếm khi được nghỉ ngơi, hưởng thụ thành quả của mình → Hơn nữa, những người lao động còn phải đóng sưu nộp thuế cho địa chủ, tham quan nên được hưởng chẳng bao nhiêu. Chính vì thế, muốn có ăn họ phải lao động suốt ngày suốt tháng.

+ Con hạc:

Hạc là loài chim luôn muốn tìm kiếm vùng đất bình yên, phù hợp để sinh sống, nó sẽ bay đi tìm miền đất ấy cho đến khi gặp được mới thôi.

Cũng như người lao động luôn muốn tìm một mảnh đất yên bình, thư thả, được sống ấm no, hạnh phúc, không bị bóc lột, chà đạp.

→ Thế nhưng "chim bay mỏi cảnh biết ngày nào thôi" - là hình ảnh khắc họa rõ nét sự tuyệt vọng, bất lực của họ trên con đường tìm kiếm ấy:

Những chú chim bay mãi không tìm được mảnh đất phù hợp

Những người lao động làm việc quần quật cả đời, khát khao cả đời cũng không tìm được miền đất không bị bóc lột, không phải chịu đói khổ.

+ Con cuốc:

Con cuốc kêu đến rát cổ họng, ra cả máu cũng không có ai quan tâm, để ý

Như những người lao động chịu bao bất công, khốn khổ nhưng kêu gào ra sao cũng không có ai cứu vớt cả. Bởi bọn tham quan, địa chủ độc ác đâu thèm để ý → Thân phận những người lao động ở đáy cùng xã hội, kêu khóc cũng không có tác dụng gì, chỉ có thể cắn răng mà chịu đựng tiếp thôi.

⇒ Như vậy, qua tất cả những hình ảnh đó, bài ca dao đã truyền tải đến người xem:

Sự trân trọng, nâng niu những phẩm chất tốt đẹp của người lao động (chăm chỉ, kiên trì, chịu thương chịu khó...)

Sự xót xa, thương tiếc cho số phận tội nghiệp, bất hạnh của người lao động trong xã hội phong kiến ngày xưa.

Tố cáo, lên án bọn tham quan, địa chủ độc ác luôn chà đạp, bóc lột những người lao động tội nghiệp, đồng thời phê phán xã hội bất công với những người lao động nghèo, dồn họ vào tình thế kêu trời trời không thấu, kêu đất đất chẳng hay.

3. Bài 3

"Thân em như trái bần trôi,

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu"

- Câu ca dao sử dụng mô típ quen thuộc của ca dao, dân ca Việt Nam đó là mô tip "thân em" → Việc sử dụng mô tip như vậy giúp hé mở nội dung câu ca dao mang tính chất thở than về số phận bấp bênh, chìm nổi, tội nghiệp của những người phụ nữ trong xã hội xưa.

- Hình ảnh so sánh: so sánh thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa với trái bần:

+ Trái bần:

Một loại quả mọc thấp ở ven sông, vị chua và chát - một loại quả tầm thường, không có gì nổi bật

Khi già thì rụng thẳng xuống sông, trôi dập dềnh theo sóng nước về bất kì nơi đâu, không đoán trước được "gió dập, sóng dồi biết tấp vào đâu".

→ Thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa:

Được đặt ở vị trí thấp hơn đàn ông - xã hội phong kiến ngày xưa đánh giá rất thấp những người phụ nữ, vì thế phụ nữ không có tiếng nói, không được thể hiện bản thân mình

Phụ nữ luôn sống lệ thuộc vào nam giới "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử" - họ không bao giờ được tự ý quyết định điều gì về cuộc đời mình

→ Vì vậy, cuộc đời họ sẽ sướng hay khổ, trôi dạt về nơi đâu, được gặp những gì... đều sẽ do người khác sắp đặt

→ Người phụ nữ luôn sống trong lo âu, thấp thỏm vì không biết ngày mai, rồi tương lai sẽ như thế nào, sẽ sống ra sao.

⇒ Từ đó, câu ca dao đã thể hiện được:

Sự lo lắng, bất an của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa về tương lai cuộc đời mình

Thể hiện sư lên án, phê phán xã hội luôn xem nhẹ, không tôn trọng những giá trị, quyền lợi của người phụ nữ

(Tham khảo bài phân tích câu ca dao Thân em như trái bần trôi... tại đây)

III. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của “những câu hát than thân”

Nội dung: than thân, đồng cảm với cuộc đời nghèo khổ, cay đắng của người lao động, những câu hát này còn có ý nghĩa phản kháng, tố cáo xã hội phong kiến

Nghệ thuật: thể thơ lục bát, hình ảnh so sánh, ẩn dụ…

b)   Phân tích tác phẩm

Phân tích bài 1 – Bài văn mẫu số 1

"Nước non lận đận một mình,

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

Ai làm cho bể kia đầy,

Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?"

Một tiếng than thân đầy lệ và nhiều ai oán. Thân cò và cò con là ẩn dụ nói về thân phận người phụ nữ nông dân và con cái họ. Hai thế hệ, hai kiếp người đau khổ. Người đàn bà nhà quê sống lẻ loi cô đơn "một mình", làm ăn lận đận" vất vả giữa cuộc đời. Có khác nào "thân cờ", lúc thì "ăn đêm", lúc thì "đi đón cơn mưa tối tăm mù mịt", lúc thì "lên thác xuống ghềnh". Thành ngữ "lên thác xuống ghềnh" chỉ sự khó khăn vất vả. Cuộc đời "lận đận một mình", "lên thác xuống ghềnh" của "thân cò" đâu chỉ ngày một ngày hai mà đã "bấy nay" trải qua bao năm tháng giữa chốn "nước non" mênh mông:

"Nước non lận đận một mình,

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay".

Lời ai oán của "thân cò", của người mẹ đau khổ cất lên như thấm đầy lệ:

"Ai làm cho bể kia đẩy,

Cho ao kia cạn, cho gầy cỏ con?"

"Bể đầy", "ao cạn" là hai biểu tượng nói về cảnh ngang trái, loạn lạc. "Ai" là đại từ nhân xưng phiếm chỉ. "Ai làm" là lời ám chỉ, tố cáo bọn thống trị đã gây ra cảnh ngang trái, loạn lạc, làm cho nhân dân đau khổ điêu linh, "cho gầy cò con". Đời mẹ đã "lận đận", đời con càng đói rét, bị bóc lột đau thương.

Chữ "cho" được điệp lại ba lần: "Ai làm cho..., cho ao kia, cạn, cho gầy cò con" như tiếng nấc, như lời nguyền đay nghiến lên án tội ác bọn vua quan thống trị. Các tính từ: "Đầy", "cạn", "gầy" bổ sung ý nghĩa, nội dung cho nhau, làm cho giọng điệu tiếng hát thân thân càng trở nên não nùng, ám ảnh.

Phân tích bài 1 – Bài văn mẫu số 2

Ca dao Việt Nam là kho tàng văn học vô giá, ngoài nội dung thể hiện tình yêu quê hương đất nước, tình cảm gia đình... ca dao Việt Nam còn bộc lộ niềm đồng cảm sâu sắc với số phận bất hạnh của người nông dân trong xã hội phong kiến. Qua những bài ca dao đó, chúng ta cảm nhận được sự thống khổ mà người nông dân trong xã hội lúc bấy giờ phải gánh chịu, đồng thời còn cảm nhận được sự tố cáo của người dân về chế độ thối nát tàn bạo, coi thường mạng sống của dân.

Người nông dân là những người chịu nhiều thiệt thòi nhất trong các tầng lớp xã hội. Họ chỉ biết lam lũ một nắng hai sương, làm việc quần quật suốt ngày không ngừng nghỉ, thân phận người nông dân hèn mọn, bé nhỏ biết bao, như thân cái cò, cái kiến, con rùa, con hạc...

"Nước non lận đận một mình

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay".

Con cò trong câu ca dao mang hình ảnh của người nông dân cô đơn, cùng cực. Cuộc đời vất vả của con cò được diễn tả bằng hình ảnh đối lập: một mình lận đận giữa nước non, lên thác xuống ghềnh, vượt qua những nơi khó khăn, nguy hiểm. một mình thân cò bé nhỏ mà phải đương đầu với những khó khăn quá lớn. Việc vất vả đó kéo dài: "bấy nay" chứ không phải một ngày hai ngày. Những hình ảnh đối lập, những nơi nguy hiểm, những ao, thác, ghềnh, biển cho thấy con cò đã phải trải nhiều nơi chốn, nhiều cảnh huống, chỉ một mình nó thui thủi, vất vả đến mức gầy mòn. Cuộc đời lận đận được diễn tả khá sinh động, ấn tượng.

Người nông dân trong xã hội lúc bây giờ đều có chung một số phận, quả là trăm người trăm cảnh. Bên cạnh những thân phận cái cò, cái vạc còn có những cái kiến, con rùa, con hạc...

"Thương thay thân phận con rùa

Xuống sông đội đá lên chùa đội bia".

"Thương thay thân phận con tằm

Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ

Thương thay lũ kiến li ti

Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi

Thương thay hạc lánh đường mây

Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi

Thương thay con cuốc giữa trời

Dầu kêu ra máu có người nào nghe".

Mọi loại vật được ví von đều chung một nỗi khổ và đều cần phải được đồng cảm, thương xót. Có một nhóm bài ca dao bắt đầu bằng cụm từ "Thương thay". Mỗi lần "thương thay" là nhắc đến một con vật với một cảnh ngộ khác nhau nhưng lại cùng chung thân phận người nông dân vất vả, lam lũ. Điều đó tô đậm nỗi thương cảm, xót xa cho cuộc sống khổ sở nhiều bề của người lao động. Những nỗi thương thân của người nông dân thể hiện qua các hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Thương con rùa "xuống thương sông đội đá lên chùa đội bia" là thương người nông dân với cuộc đời luẩn quẩn của thân phận tôi đòi. Thương con tằm là thương cho thân phận bị bòn rút sức lực phục vụ kẻ khác. Thương lũ kiến tí ti là thương cho thân phận bé nhỏ suốt đời phải làm lụng kiếm miếng ăn. Thương cho con hạc là thương cho cuộc đời phiêu bạt, khốn khó, mỏi mệt không có tương lai (biết ngày nào thôi). Thương cho con cuốc là thương thân phận thấp bé, dù có than thở đến kiệt sức thì cũng không có người động lòng, thương xót... Nỗi thương xót như muốn kéo dài triền miên qua hình ảnh của những con vật bé nhỏ, tội nghiệp. Mỗi con vật, mỗi nỗi khổ, mỗi cảnh ngộ đáng thương khác nhau làm nên nỗi khổ nhiều bề của thân phận người lao động.

Trên đây với chỉ là số ít trong số những bài ca dao viết về người nông dân, người nông dân đã phải chịu muôn vàn nỗi khổ. Càng thương xót cho những người đồng bào lao khổ của mình, ta càng căm giận những thế lực đen tối chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của họ. Vì vậy, không chỉ than thân cho những người nông dân trong xã hội phong kiến, ca dao còn gợi niềm căm tức đối với xã hội đầy rẫy bất công đó:

"Ai làm cho bể kia đầy,

Cho ao kia cạn cho gầy cò con?"

Sử dụng đại từ phiếm chỉ "Ai", bài ca dao đã hướng mũi tên công kích đến xã hội phong kiến suy tàn đã đày đọa thân phận bé nhỏ của những người nông dân. Xã hội đó đã làm nên chuyện bể dầy, ao cạn, cho cuộc đời biến đổi bể dâu khiến thân cò thêm lận đận, thêm gầy mòn. Câu hỏi tu từ đã gián tiếp tố cáo xã hội phong kiến bất công đó.

Yêu thương và căm hờn là hai dòng cảm xúc khôn nguôi khi đọc những bài ca dao viết về thân phận người nông dân trong xã hội phong kiến. Đọc ca dao để cảm xúc của mỗi chúng ta được sống với tấm lòng của ông cha ta từ ngàn năm trước. Đọc ca dao để mỗi chúng ta biết sống có ích cho ngày hôm nay.

Ca dao tục ngữ Việt Nam thật phong phú và đa dạng, phản ánh mọi mặt trong đời sống của con người. Ca dao đã góp phần phản ánh chân thực cuộc sống của nhân dân và lên án cái xã hội thối nát đó đã đẩy con người xuống tận cùng của xã hội, một xã hội phải được loại bỏ.

Phân tích bài 1 – Bài văn mẫu số 3

Dưới chế độ phong kiến, nhân dân ta bị áp bức rất nặng nề. Người nông dân nói chung và người phụ nữ nói riêng tuy lao động cực nhọc mà vẫn cơ hàn đói rách. Có bao cảnh đời, bao bi kịch thương tâm, ca dao dân ca cũng có biết bao khúc hát ai oán thương tâm xúc động. Có thể than chính cho số phận hoặc than vàn cho số phận đồng loại.

Nước non lận đận một mình

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay

Ai làm cho bể kia đầy

Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?

     Bài ca dao là tiếng than thân tràn lệ. Thân cò và cò con trong bài ca dao này là ẩn dụ nói về người phụ nữ nông dân và con cái của họ. Hai thế hệ, hai kiếp người đau khổ. Người đàn bà nhà quê sống lẻ loi một mình quanh năm côi cút làm ăn toan lo nghèo khó, vất vả giữa cuộc đời. Suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời mà vẫn cơm không đủ ăn áo không đủ mặc.

Con cò mà đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao...

     Ngày làm chẳng đủ ăn thì phải kiếm ăn cả đêm. Thật vất vả khổ cực bao nhiêu, đời sống của họ là những khó khăn triền miên.

Con cò đi đón cơn mưa

Tối tăm mù mịt ai đưa cò về

     Tần tảo sớm hôm nuôi gia đình con cái nhưng ông trời có lẽ không công bằng, bởi nếu công bằng thì trước những lời ai oán đó ông trời sao không xúc động?

     Lên thác xuống ghềnh - chỉ sự vất vả gian nan trong cuộc đời, lận dận mệt mình. Không phải là ngày một, ngày hai mà là bấy nay, kiếp người đằng đẵng bao năm giữa chốn nước non mênh mông này.

Nước non lận đận một mình

Thân cò lèn thác xuống ghềnh bấy nay

     Trong khung cảnh nước non mênh mông bao la ấy, cái cò chỉ có một mình. Cảnh đời nghèo khổ về vật chất và tinh thần khiến cho họ chỉ biết kêu, kêu mà chẳng biết kêu ai. Nghèo vẫn hoàn nghèo họ cố tìm cách thay đổi cảnh ngộ mà không sao thoát khỏi:

Cây khô xuống nước cũng khô

Phận nghèo đi đến nơi mô càng nghèo

    Cái vòng luẩn quẩn, bế tắc ấy người nông dân muốn vượt ra ngoài nhưng không thể thoát được. Do vậy mà lời ai oán của thân cò - người mẹ đau khổ cất lên như thấm đẫm nước mắt.

Ai làm cho bể kia đầy

Cho ao kia cạn, cho gầy cò con

    Cảnh đời ngang trái, loạn lạc bể đầy, ao cạn. Ai làm là lời ám chỉ, tố cáo bọn thống trị gây ra bao cảnh ngang trái làm cho gầy cò con. Đời mẹ đã gian nan lận đận, đời con càng đói rét đau thương. Lời thơ như tiếng nấc, như lời nguyền đay nghiến lên án bọn thống trị tham quan. Thân phận nhỏ bé như con tằm, con kiến. Mà con tằm, con kiến thì:

Con kiến mà leo cành đa

Leo phải, cành cụt leo ra leo vào...

     Cuộc đời là cái vòng luẩn quẩn, họ hoàn toàn không làm chủ được bản thân, cuộc đời. Ai làm cho họ khổ, thật bi đát họ chỉ biết than thân trách phận kêu trời. Niềm cay đắng, bị áp bức bóc lột biết bao giờ cho hết nỗi oan khiên. Đời cái cò gian lao điêu đứng rồi đời cò con cũng điêu đứng lao đao. Trong họ niềm khao khát cháy bỏng được sống hạnh phúc, được thoát khỏi nghèo nàn cho chính họ và kiếp sau của họ. Bài ca dao chứa chan tình nhân đạo và giá trị tố cáo phản kháng sâu sắc. Đây cũng chính tiếng nói tập thể của những người dân lao động trong xã hội áp bức bất công. Đọc bài ca dao chúng ta càng đồng cảm hơn với những con người khốn khổ một thời trong xã hội ấy.

Phân tích bài 1 – Bài văn mẫu số 4

Đêm dài nô lệ của dân tộc đã qua. Những kiếp người cơ hàn, những cảnh đời bi kịch khốn cùng vì cướp bóc, áp bức dưới chế độ phong kiến cũng không còn. Nhưng vẫn còn đó, những câu ca dao, bài ca dao phản ánh hiện thực đau lòng của một thời. Ai oán và bi thương, lòng ta không khỏi rưng rưng khi đọc những lời than vãn cho mình, cho người, cho số phận của đồng loại cùng chung chịu kiếp con cò - qua rất nhiều bài ca dao. Một trong số đó là bài ca dao than thân chan chứa đau đớn, xót xa:

Nước non lận đận một mình

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay

Ai làm cho bể kia đầy

Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?

Bài ca dao là tiếng than thân tràn lệ. Thân cò và cò con trong bài ca dao này là ẩn dụ nói về người phụ nữ nông dân và con cái của họ. Hai thế hệ, hai kiếp người đau khổ. Người đàn bà nhà quê sống lẻ loi một mình quanh năm côi cút làm ăn toan lo nghèo khó, vất vả giữa cuộc đời. Suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời mà vẫn cơm không đủ ăn áo không đủ mặc.

Con cò mà đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao

Ngày làm chẳng đủ ăn thi phải kiếm ăn cả đêm. Thật vất vả khổ cực bao nhiêu, đời sống của họ là những khó khăn triền miên.

Con cò đi đón cơn mưa

Tối tăm mù mịt ai đưa cò về

Tần tảo sớm hôm nuôi gia đình con cái nhưng ông trời có lẽ không công bằng, bởi nếu công bằng thì trước những lời ai oán đó ông trời sao không xúc động?

Lên thác xuống ghềnh - chỉ sự vất vả gian nan trong cuộc đời, lận đận một mình. Không phải là ngày một, ngày hai mà là bấy nay; kiếp người đằng đẵng bao năm giữa chốn nước non mênh mông này.

Nước non lận đận một mình

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay

Trong khung cảnh nước non mênh mông bao la ấy, cái cò chỉ có một mình. Cảnh đời nghèo khổ về vật chất và tinh thần khiến cho họ chỉ biết kêu, kêu mà chẳng biết kêu ai. Nghèo vẫn hoàn nghèo, họ cố tìm cách thay đổi cảnh ngộ mà không sao thoát khỏi:

Cây khô xuống nước cũng khô

Phận nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo

Cái vòng luẩn quẩn, bế tắc ấy người nông dân muốn vượt ra ngoài nhưng không thể thoát được. Do vậy mà lời ai oán của thân cò - người mẹ đau khổ cất lên như thấm đẫm nước mắt.

Ai làm cho bể kia đầy

Cho ao kia cạn, cho gầy cò con

Cảnh đời ngang trái, loạn lạc bể đầy, ao cạn. Ai làm là lời ám chỉ, tố cáo bọn thống trị gây ra bao cảnh ngang trái làm cho gầy cò con. Đời mẹ đã gian nan lận đận, đời con càng đói rét đau thương. LỜI thơ như tiếng nấc, như lời nguyền đay nghiến lên án bọn thống trị tham quan. Thân phận họ nhỏ bé như con tằm, con kiến. Mà con tằm, con kiến thì:

Con kiến mà leo cành đa

Leo phải cành cụt leo ra leo vào..

Cuộc đời là cái vòng luẩn quẩn, họ hoàn toàn không làm chủ được bản thân, cuộc đời. Ai làm cho họ khổ, thật bỉ đát họ chỉ biết than thân trách phận kêu trời. Niềm cay đắng, bị áp bức bót lột biết bao giờ cho hết nỗi oan khiên. Đời cái cò gian lao điêu đứng lao đao. Trong họ niềm khao khát cháy bỏng được sống hạnh phúc được thoát khỏi nghèo nàn cho chính họ và kiếp sau của họ. Bài ca dao chứa chan tình nhân đạo và giá trị tố cáo phản kháng sâu sắc. Đây cũng chính tiếng nói tập thể của những người dân lao động trong xã hội áp bức bất công. Đọc bài ca dao chúng ta càng đồng cảm hơn với những con người khốn khổ một thời trong xã hội ấy.

Phân tích bài 2 – Bài văn mẫu số 1

Từ xa xưa, những bài ca dao Việt Nam với âm hưởng da diết, nhịp nhàng, dễ nhớ, dễ thuộc đã được người dân sáng tác và lưu truyền cho tới ngày nay. Nội dung của các bài ca dao ấy cũng rất phong phú, có những bài ca dao được sáng tác để phản ánh lịch sử, có những bài được sáng tác nhằm phản ánh đời sống tình cảm nhân dân hoặc phản ánh đời sống xã hội cũ. Trong số các bài ca dao phản ánh đời sống xã hội cũ thì bài ca dao “thương thay thân phận con tằm” là một ví dụ tiêu biểu, nêu lên thân phận bé nhỏ của người nông dân trong xã hội cũ giống như những con tằm, con kiến.

Bài ca dao còn là tiếng nói của những con người thấp bé trong xã hội phải vất vả làm lụng, bài ca dao cũng là lời tố cáo xã hội phong kiến bất công, tàn ác đã chèn ép người dân đến bước đường cùng.

Bài ca dao “thương thay thân phận con tằm” được viết theo thể thơ lục bát, âm hưởng của bài ca dao mềm mại, câu từ mộc mạc, giản dị đã làm cho bài ca dao trở nên phổ biến trong dân gian Việt Nam:

 “Thương thay thân phận con tằm,

Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.

Thương thay lũ kiến li ti,

Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi”.

Hình ảnh “con tằm” và “con kiến” trong 4 câu thơ đầu của bài ca dao chính là những hình ảnh ẩn dụ cho những thân phận “bé nhỏ” trong xã hội cũ, họ là những người có địa vị thấp kém phải lam lũ làm ăn và chịu sự đàn áp của những kẻ có địa vị trong xã hội. Thân phận con tằm đã bé nhỏ, chỉ được ăn lá dâu nhưng lại phải nhả tơ – thứ tơ vàng óng ánh dùng để dệt thành vải, lụa và tạo ra những sản phẩm cao cấp có giá trị. Sau khi nhả tơ xong, con tằm cũng hết giá trị và đồng nghĩa với việc cuộc đời của nó cũng kết thúc. Như vậy hình ảnh con tằm nhả tơ chính là một đại diện cho những người lao động trong xã hội cũ, họ bị bóc lột sức lao động để tạo ra của cải cho địa chủ, khi sức lao động yếu đi họ cũng sẽ bị sa thải hoặc bị đối xử tệ bạc và tàn ác.

Hình ảnh con kiến li ti khiến người ta có cảm giác thật bé nhỏ, những chú kiến ấy mải miết ngược xuôi để tìm mồi. Những chú kiến ấy cũng giống như những người nông dân ngày ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời, đi sớm về khuya nhưng cuộc sống vẫn khó khăn vất vả.

 “Thương thay hạc lánh đường mây

Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi

Thương thay con cuốc giữa trời.

Dầu kêu ra máu có người nào nghe”.

Hình ảnh cánh chim, con hạc, con cuốc nhà những hình ảnh vô cùng quen thuộc trong ca dao, có lẽ những người nông dân lao động tìm thấy sự đồng điệu giữa hình ảnh gầy guộc, lầm lũi của con vật với chính bản thân mình. Những chú chim mải miết bay đi tìm ăn, bay đến mỏi cánh mà không biết ngày nào sẽ kết thúc cuộc hành trình ấy, cũng giống như cuộc đời phiêu bạt lận đận của những người dân lao động. Những con người bé nhỏ ấy phải cố gắng kiếm sống ngày qua ngày mà không biết khi nào cuộc sống ấy mới chấm dứt, không biết bao giờ mới hết đói hết khổ.

Hình ảnh con cuốc ở hai câu thơ cuối mới đáng thương làm sao, con cuốc bé nhỏ giữa bầu trời rộng lớn dẫu có kêu gào đến mức nào cũng không có ai thấu hiểu, không có ai lắng nghe. Con cuốc ấy cũng là hiện thân của người dân lao động thấp cổ bé họng, dù họ có kêu tới mức nào thì cũng không ai hiểu cho nỗi khổ của họ, không ai có thể cứu vớt họ khỏi cuộc sống tăm tối, khổ cực. Họ hoàn toàn không nhận được sự đồng cảm của mọi người, đặc biệt là giai cấp thống trị xã hội lúc bấy giờ vì vậy tiếng kêu than của họ cũng trở nên vô vọng.

Những người lao động xưa khi nhìn thấy những con vật bé nhỏ tội nghiệp thường có sự đồng cảm bởi chính họ cũng nhỏ bé, tội nghiệp như những con vật ấy. Từ “thương thay” được lặp đi lặp lại trong suốt bài ca dao đã nhấn mạnh sự xót xa vô hạn, nỗi thương cảm vô bờ của người dân lao động đối với những con vật bé nhỏ và cũng chính là niềm thương cảm đối với bản thân họ.

Xã hội phong kiến giống như địa ngục trần gian của những người nhân dân lao động, cuộc sống lầm than khổ cực khiến họ phải cất tiếng than ai oán qua những bài ca dao. Những bài ca dao ấy vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay và đó sẽ là kho tàng văn hóa dân gian vô giá của dân tộc Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam chúng ta có nhiệm vụ phải gìn giữ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, biết quý trọng hiện tại và cống hiến hết mình cho Tổ Quốc.

Phân tích bài 2 – Bài văn mẫu số 2

Ca dao, dân ca không chỉ là tiếng hát về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước con người mà còn là những tiếng than than thân trách phận của những cuộc đời, cảnh ngộ bất hạnh, đắng cay. Ngoài ý nghĩa than thở, những bài ca dao mang tiếng nói từ những kiếp người nhò bé đáng thương còn là lời tố cáo đanh thép cái xã hội phong kiến bất công tàn ác. Chúng ta đã biết đến với một bài ca dao như thế:

Thương thay thân phận con tằm ,

Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.

Thương thay lũ kiến li ti,

Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.

Thương thay hạc lánh đường mây.

Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.

Thương thay con cuốc giữa trời.

Dầu kêu ra máu có người nào nghe.

Người lao động xưa khi nhìn thấy những con vật nhỏ bé tội nghiệp thường có sự đồng cảm tự nhiên và hay vận vào thân phận của mình. Chính vì vậy, toàn bộ bãi ca dao là hình ảnh ẩn dụ đặc sắc về số phân hẩm hiu, khốn khổ. Con tằm bé nhỏ mà thật có ích. Chúng nhả ra những sợi tơ vàng óng dùng để dệt thành vải, lụa là phục vụ cho nhu cầu may mặc của con người. Nhưng chúng chỉ được ăn lá dâu – thứ lá tầm thường nơi bãi sông đồng ruộng. Đã vậy, sau khi giúp con người lấy được thứ cần thiết, thỏa mãn nhu cầu của con người thì tằm cũng chết. Cuộc đời tằm thật đáng thương, sống thì chẳng ăn được mấy mà cống hiến cho tới lúc lìa đời. Cuộc đời như thế khác nào cuộc đời người lao động xưa kia, suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực công lao. Họ bỏ ra quá nhiều nhưng chẳng hề được hưởng thụ dù chỉ là một chút thành quả lao động của mình. Đó chính là nguyên nhân của nghèo đói, của vất vả khó khăn và kéo dài trong bất công vô vọng.

Bé nhỏ hơn cả tằm là lũ kiến li li. Kiến sống thành đàn, đoàn kết hỗ trợ và giúp đỡ nhau. Ấy thế mà cả đời vẫn chỉ ngược xuôi tất bật. Người lao động trước đây cũng vậy, suốt đời vất vả ngược xuôi, cần cù làm lụng mà vẫn cơ cực nghèo khổ. Họ quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một nắng hai sương với đồng ruộng cây lúa mà nghèo vẫn hoàn nghèo.

Hình ảnh con cò, con vạc là hình ảnh vô cùng quen thuộc trong ca dao. Bởi người lao động nhìn thấy sự gần gũi thân thiết đến kì lạ giữa cái hình dáng lũ nghêu gầy guộc, cái dáng lấm lũi một mình lặn lội của chúng với thân phận hẩm hiu bé nhỏ của mình. Thương thay hạc lánh đường mây,Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là thương cho cuộc đời phiêu bạt lận đận và những cô gắng vô vọng kiếm sống qua ngày mà người lao động đang trải qua. Hơn thế, con đường mưu sinh thật lắm gian truân, bất trắc, lực lượng vất vả đã đành, họ còn bị bao hiểm nguy rình rập. Qủa là kiếp sống tội nghiệp đáng thương.

Có lẽ, đáng thương nhất vẫn là tiếng kêu não nùng, tiếng kêu rạc cổ khô họng, kêu ra máu của con cuốc giữa trời. Mặc dù ý thơ lấy từ sự tích vua Thục Đế đất nước, hận mà chết, biến thành con chim cuốc kêu ra rả suốt hè đến trào máu họng, nhưng nhân dân lao động xưa lại vận vào chính thân phận hèn kém của mình để nói lên nỗi bất công oan khuất. Song, những kẻ thấp cổ bé họng dù có kêu thấu trời cũng chẳng làm động lòng bọn thống trị nhẫn tâm, tàn ác. Họ chẳng có được sự cảm thông đồng điệu, sự công bằng soi tỏ. Như thế khác nào con cuốc cứ khắc khoải da diết mà phí công vô ích.

Người lao động xưa phải chịu nỗi khổ nhiều bề và tiếng kêu, tiếng than ai oán của họ thực sự khiến người đọc xúc động cảm thương. Trước mỗi hình ảnh bất hạnh đáng thương là mô-típ quen thuộc trong ca dao: mô-típ thương thay. Điệp ngữ ấy nối nhau kéo dài suốt tám dòng thơ diễn tả sự xót xa vô hạn, nỗi thương cảm dâng trào như những con sóng ập vào lòng người đọc. Đọc hết bài ca dao, ta nhận ra rằng, tác giả dân gian không phải chỉ thương thay, chỉ là người đứng bên cạnh cảm thông chia sẻ với những số phận bất hạnh, hẩm hiu mà đáng thương cho chính thân phận nghèo khổ bé mọn của mình

Hiện thực đen tối, tương lai mù mịt khiến nhân dân lao động xưa phải cất lên tiếng kêu, tiếng than ai oán. Ngày nay, cuộc sống chúng ta ấm no hạnh phúc vì có ánh sáng của Đảng, Cách mạng soi đường. Nhưng đọc những câu ca dao của một thời, chúng ta càng hiểu và đồng cảm với cha ông ta xưa, biết xót thương quá khứ, quý trọng cuộc sống hiện tại.

Phân tích bài 2 – Bài văn mẫu số 3

Ca dao – dân ca là tấm gương phản chiếu trung thực về cuộc sống muôn màu, muôn vẻ của nhân dân ta. Đó là cuộc sống cần cù, giản dị, chất phác, đậm đà phong vị dân tộc nhưng đó cũng là một cuộc sống trái ngang, gặp nhiều bất công, bất hạnh trong một xã hội rối ren, tăm tối. Và những lúc như vậy, nhân dân ta chỉ biết gửi gắm những lời than thân, than thở của mình trong các bài ca.

Ca dao than thân có số lượng lớn trong ca dao – dân ca Việt Nam. Nhân vật trữ tình thường là những người nông dân, người đi ở, kẻ đi phu, người lính, người phụ nữ,… Và thân phận nhỏ bé, bé mọn của họ thường được ví với các con vật vất vả, lam lũ trong cuộc sống:

Thương thay thân phận con tằm

Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ

Thương thay lũ kiến li ti

Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi

Thương thay hạc lánh đường mây

Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi

Thương thay con cuốc giữa trời

Dầu kêu ra máu có người nào nghe

Bài thơ là lời của những người lao động. Trong bài ca dao này xuất hiện bốn con vật. Mỗi cặp câu bắt đầu bằng hai tiếng “thương thay”, "thương thay" là vừa thương, vừa đồng cảm, thương cho người khác mà cũng là thương cho chính mình. Bài ca dao bày tỏ niềm thương cảm đến bốn đối tượng. Đó là thương con tằm suốt đời tằm chỉ ăn lá dâu, cuối đời phải rút ruột tận cùng để làm thành tơ quý. Thương con kiến là loài sinh vật nhỏ bé nhất, cần ít thức ăn nhất, ăn thức ăn tầm thường nhất, nhưng từng đàn phải kéo đi kiếm ăn hàng ngày; còn con hạc, con chim thì cuộc đời phiêu bạt vô định và những cố gắng vô vọng để kiếm mồi. Tác giả dân gian còn thương cho thân phận con cuốc,nhỏ nhoi, cô độc giữa không gian rộng lớn, vô tận, suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực.

Tác giả dân gian thương cho những con vật bé mọn kia cũng là thương cho chính bản thân người lao động. Đó là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn nghèo khổ. Dù họ có cố gắng như thế nào thì cũng vô vọng vì xã hội cũ là một xã hội bất công. Trong xã hội đó, thân phận thấp cổ bé họng, nỗi khổ đau, oan trái không được lẽ công bằng nào soi tỏ cho người lao động

Từ “thương thay” được lặp lại 4 lần. Mỗi lần "thương thay" cất lên là diễn tả một nỗi thương, nỗi khổ nhiều bề của người dân thường trong xã hội cũ.

Người lao động ngày xưa rất gần gũi với thiên nhiên, giao tiếp với thiên nhiên nhiều hơn xã hội, nên họ có cái nhìn tinh tế, thường mượn thiên nhiên để thể hiện tâm trạng, mượn hình ảnh những con vật để diễn tả thân phận cuộc đời mình. Hình ảnh những con vật nhỏ bé đáng thương như cò, kiến, hạc, cuốc rất gần gũi với cuộc đời khổ cực, vất vả, bất hạnh của họ. Họ thường vận vào mình vì cho rằng chúng cũng có số kiếp, thân phận khốn khó như mình

Phân tích bài 2 – Bài văn mẫu số 4

Bài ca dao “Thương thay thân phận con tằm gồm có tám câu lục bát. Hai chữ “thương thay” được điệp lại bốn lần và đứng ở vị trí đầu câu “lục” đã làm cho giọng điệu bài ca dao đầy xót thương.

           “Con tằm” và “lũ kiến là hai ẩn dụ nói về những thân phận “nhỏ bé” sống âm thầm dưới đáy xã hội cũ. Thật đáng “thương thay", thương xót cho những kiếp người phải làm đầu tắt mặt tối mà chẳng được ăn, được hưởng một tí gì! Khác nào một kiếp tằm, một kiếp kiến !

 “Thương thay thân phận con tằm,

Kiểm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.

Thương thay lũ kiến li tỉ,

Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi”

             Kiếp tằm “phải nằm nhả tơ”, kiếp kiến “phải đi tìm mồi”, nhưng “kiếm ăn được mấy”. Điệp ngữ “kiếm ăn được mấy” cất lên hài lần đã tố cáo và phản kháng xã hội cũ bất công, kẻ thì “ngồi mát hưởng bát vàng”, “kẻ ăn không hết, người lần không ra”.

             Hạc, chim, con cuốc, là ba ẩn dụ nói về những thân phận, số phận nếm trải nhiều bi kịch cuộc đời. “Hạc” muốn tìm đến mọi chân trời, muốn “lánh đường mây" để thỏa chí tự do, phiêu bạt. “Chim” muốn bay cao, bay xa, tung hoành giữa bầu trời, nhưng chỉ “mỏi cánh” mà thôi. Đó là những cuộc đời phiêu bạt, những cố gắng vô vọng của người lao động trong xã hội cũ, thật “thương thay” thật đáng thương !

“Thương thay hạc lánh đường mây,

Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi”

             Thân phận con cuốc càng đáng “thương thay” ! Nó đã “kêu ra máu” giữa trời mà “cố người nào nghe”, nào có được cảm thông, được san sẻ. “Con cuốc” trong văn cảnh này biểu hiện cho nỗi oan trái, cho nỗi đau khổ của nhân dân lao động không được lẽ công bằng nào soi tỏ. Càng kêu máu càng chảy, càng đau khổ tuyệt vọng:

“Thương thay con cuốc giữa trời,

Dầu kêu ra máu có người nào nghe”

              Ngoài cách sử dụng điệp ngữ và ẩn dụ, những câu hát than thân này còn được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ: “kiếm ăn được mấy”, “biết ngày nào thôi”; “có người nào nghe”. Giá trị phản kháng và tố cáo càng trở nên sâu sắc, mạnh mẽ.

Phân tích bài 3 – Bài văn mẫu số 1

  Trong văn học dân gian Việt Nam có rất nhiều câu ca dao, tục ngữ nói về thân phận chua xót của người phụ nữ trong chế độ cũ.

     Người phụ nữ xưa đã trở thành đề tài cho nhiều nhà văn nhà thơ lấy làm nguồn cảm hứng sáng tạo. Như tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc, Độc Tiểu Thanh Ký…

     Thân phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến được phác họa lên với những đau đớn, tủi hờn, khi họ sống mà không có quyền hưởng hạnh phúc, không có quyền quyết định số phận của chính mình. Người phụ nữ xưa luôn phải phụ thuộc vận mệnh của mình vào người đàn ông của gia đình, phải chịu luật tam tòng, tứ đức trói buộc đời họ.

Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu

     Bài ca dao, là nỗi lòng của người phụ nữ trong trong chế độ nghiệt ngã xưa. Chính cụm từ “thân em” đã nói lên những ai oán của người phụ nữ, khi họ biết số phận của mình luôn phải chịu nhiều cay đắng, nghiệt ngã hẩm hiu.

      Nghệ thuật so sánh ví von thân phận của người con gái với trái bần trôi. Một trái nhỏ quả chín thơm và ngọt nhưng trước những sóng gió nghiệt ngã của cuộc đời, quả ngọt đó không thể nào được giữ gìn nguyên vẹn, mà vị vùi dập tan nát tơi bời.

     Trái bần trôi đó, nhỏ bé, cô đơn rơi trên dòng sông cuộc đời chưa biết đi đâu về đâu, chưa biết sẽ bị xô dạt tới phương trời nào. Câu thơ nói lên sự lênh đênh của số phận người phụ nữ xưa. Cuộc sống của họ luôn chịu cảnh “ba chìm bảy nổi” chẳng biết sẽ trôi dạt phương nào. Đúng như lời thơ trong bài “Bánh trôi nước” của bà Hồ Xuân Hương viết:

”Thân em vừa trắng lại vừa tròn’

Ba chìm bảy nổi với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

     Người phụ nữ không bao giờ có quyền quyết định số phận của mình họ chỉ như trái bần trôi, như những viên bánh trôi nước mà thôi, lênh đênh phiêu dạt khắp cuộc đời, không biết chốn nào là nơi hạnh phúc.

     Những sóng gió cuộc đời luôn tìm cách nhấn chìm những người phụ nữ xuống đáy bùn lầy, khiến cuộc sống của họ trở thành địa ngục trần gian. Những sóng gió kia chính là những định kiến xã hội, những đạo luật vô lý khoác lên thân phận người phụ nữ.

     Trong một xã hội “trọng nam kinh nữ” người phụ nữ chỉ là thân phận hèn mọn, sống như nô lệ núp bóng bên cạnh người đàn ông của mình. Mọi quyền hành đều do người đàn ông quyết định.

     Một cuộc sống vô lý như vậy khiến cho người phụ nữ chỉ biết than thân, trách phận biết kêu lên ai oán, cho ông trời nhìn “thấu” cảnh nhục của trần gian.

     Bài ca dao đã tái hiện số phận người phụ nữ trong chế độ xưa. Họ không có quyền sống cho mình mà luôn phải sống vì người khác, sống theo ý kiến của người khác. Hạnh phúc là điều gì đó xa xỉ với người phụ nữ xưa.

Phân tích bài 3 – Bài văn mẫu số 2

Câu ca dao trên nằm trong mảng đề tài than thân trách phận mà nhiều câu có cấu trúc khá giống nhau ở cách mở đầu bằng hai chữ đầy xót xa, ngậm ngùi: Thân em...

     Trong xã hội phong kiến xưa kia, quan niệm trọng nam kinh nữ đã biến cuộc đời người phụ nữ thành chuỗi bi kịch kéo dài. Biết than cùng ai, biết ngỏ cùng ai? Trời thì cao mà đất thì dày. Thôi thì đành giãi bày qua tiếng hát, lời ru chan chứa nước mắt:

Thân em như trái bần trôi,

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?

    Xuất xứ câu ca dao này là ở miền Nam, xứ sở của sông ngòi, kênh rạch. Cây bần thường mọc ở ven bờ. Trái bần non có vị chua chua, chát chát, xát mỏng chấm mắm ăn thay rau. Trái già rụng xuống nước, bập bềnh trôi nổi theo sóng. Ngay cái tên gọi cũng chỉ rõ nó là loại cây tầm thường (bần: nghèo), chẳng có mấy giá trị.

     Người phụ nữ chân lấm tay bùn nhìn trái bần trôi mà cám cảnh, thấy mình nào có khác chi?! Trái bần trôi hoàn toàn phụ thuộc vào gió, vào sóng. Gió nhẹ, sóng êm thì từ từm thanh thản, chẳng may gió dập, sóng dồi thì cũng đành cam chịu cảnh ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, biết tấp vào đâu? Vào bờ bến nào để đổi thay số phận?

     Không được làm chủ bản thân, người phụ nữ buộc phải lâm vào cảnh: Cũng đành nhắm mắt đưa chân, Mà xem con tạo đưa vần đến đâu. Luật tam tòng khắc nghiệt trói buộc họ, biến họ thành những con người cam chịu định mệnh bất công: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử và thực tế thì người phụ nữ đã bị xã hội khinh rẻ, coi thường. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra mặc cảm tự ti từ bao đời nay ở người phụ nữ.

     Có điều gì đó thật xót xa, buồn thảm trong hình ảnh so sánh: Thân em như trái bần trôi . Trái bần trôi dập dềnh theo dòng sông vô định, còn người phụ nữ nghèo thì cũng nổi trôi trong vòng đời vô định. Hiện thực nghiệt ngã, tương lai mở mịt, không một chút vui, không một niềm hi vọng. Câu ca dao với hình tượng gợi cảm và âm điệu ngậm ngùi đã gợi lên số phận hẩm hiu đáng thương của người phụ nữ nghèo khổ trong xã hội phong kiến cũ.

    Ta hãy thử hình dung trong tâm tưởng một trưa hè ở đồng bằng Nam Bộ, gió thổi lao xao trong rừng đước, rừng tràm; chợt nghe tiếng ru con vọng ra từ ngôi nhà nhỏ ven sông lẫn với tiếng võng đưa kẽo kẹt: Ầu ơ... Thân em như trái bần trôi, Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu? Câu hỏi vừa là nỗi băn khoăn muôn thuở không lời giải đáp, vừa là lời than thân trách phận buồn đến não nề. Nhìn những trái bần nổi chìm theo sóng, ta sẽ thấm thía và rúng động đến tận sâu thẳm tâm hồn trước lời ru rưng rưng nước mắt của những người phụ nữ lao động nghèo khó trong một quá khứ chưa xa.

Phân tích bài 3 – Bài văn mẫu số 3

Gió đạp sóng dối biết tấp vào đâu ?"

Hình ảnh so sánh ở đây có gì đặc biệt? Qua đây, em thấy cuộc đời người phụ nữ ngày xưa như thế nào?

   Xã hội phong kiến bất công như chiếc cùm gông giam cầm cuộc đời và số phận của người phụ nữ, tước đi quyền sống, quyền làm chủ, quyền hạnh phúc của họ. Đau đớn, xót thương tủi phận nhưng không biết tỏ bày cùng ai, người phụ nữ chỉ biết gửi gắm vào những câu ca, lời hát than thân, trách phận.

"Thân em như trái bần trôi,

Gió đạp sóng dồi biết tấp vào đâu?”

   Bài ca dao trên là câu hát nỉ non được cất lên từ mảnh đời nhỏ bé, tội nghiệp của người phụ nữ bất hạnh. Với hình ảnh so sánh đặc biệt câu ca đã phản ánh sâu sắc số phận cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bài ca dao mở đầu bằng mô típ quen thuộc “thân em”. Hai tiếng “thân em” thốt lên gợi cảm giác mềm mỏng, yếu đuối, rụt rè, khiêm nhường. Người phụ nữ nhỏ bé đang tự than cho chính số phận mình.

    “Thân em” được so sánh với “trái bần trôi”, đây là loại quả dại mọc ở ven sông vùng Nam bộ. Đặc trưng của trái bần mang nhiều nét tương đồng với cuộc đời và thân phận của người phụ nữ. Trái bần có vị vừa chua, vừa chát giống với cuộc đời hẩm hiu, chát chứa, đắng cay của người phụ nữ. Khi già, những trái bần ấy rụng xuống sông ngòi, bập bềnh theo sóng, lênh đênh vô định giống như cuộc đời chìm nổi không phương hướng của những người phụ nữ. Ngay cả tên gọi của nó đã khiến ta liên tưởng đến sự bần hàn, túng thiếu, khổ sở. Trong ca dao than thân, hơn một lần ta thổn thức chứng kiến người phụ nữ xé lòng đau đớn, đem thân phận của mình gắn với ấy những vật tầm thường, nhỏ nhoi để than, để trách: Thân em như giếng giữa đàng, thân em như quả cau khô, thân em như củ ấu gai,...Hình ảnh so sánh gợi hình đặc sắc ấy đã nói lên thân phận nhỏ bé, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

   Trái bần tự thân nó đã nhỏ bé, thấp hèn, cũng như số phận của người phụ nữ vốn dĩ đã mong manh, yếu đuối. Rồi sẽ ra sao đây khi những dòng đời nhỏ bé ấy bị xô ngã bởi gió dập, sóng dồn?

 “Gió đạp sóng dồn biết tấp vào đâu?”

   Câu hỏi từ như một lời than thân trách phận đầy đau đớn, não nề, bất lực của người phụ nữ không được làm chủ cuộc đời của chính mình. Nếu như trái bần nổi lênh, dập dềnh trước bão tố, sóng gió của dòng sông vô định thì người phụ nữ cũng bấp bênh, trôi nổi, mất phương hướng trong cuộc đời của chính mình. Câu hỏi cũng là nỗi băn khoăn từ ngàn đời của người phụ nữ mà không bao giờ có tiếng vọng hồi đáp. Lễ giáo phong kiến trọng nam khinh nữ, quan niệm Nho giáo tam tòng tứ đức khắc nghiệt đã trói chặt quyền sống và quyền hạnh phúc của người phụ nữ, họ chấp nhận và tuân theo như một định mệnh. Bài ca dao không chỉ là tiếng nói cảm thông, chua xót của nhân dân đối với thân phận nhỏ bé, hẩm hiu, lênh đênh, trôi nổi của người phụ nữ mà còn là lời lên án, tố cáo đanh thép đối với những thế lực tước đoạt quyền sống, quyền tự do, quyền hạnh phúc của con người.

   Với hình ảnh so sánh đặc sắc “trái bần trôi” đã khắc họa rõ nét cuộc đời nhỏ bé, tội nghiệp, lênh đênh, vô định của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Thân phận của người phụ nữ trở thành mạch nguồn xuyên suốt dòng chảy văn học. Từ ca dao than thân đến văn học trung đại, các tác giả vẫn luôn quan tâm đến thân phận của người phụ nữ như “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều của Nguyễn Du,...