Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra
I. Đôi nét về tác giả Trần Nhân Tông
- Trần Nhân Tông sinh năm 1258, mất năm 1308, tên thật là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông
- Ông là một ông vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan hòa, nhân ái, đã cùng vua cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi vẻ vang
- Ông theo đạo Phật. Năm 1299, ông về tu ở chùa Yên tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) và trở thành vị tổ thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử
- Trần Nhân Tông là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần
II. Đôi nét về tác phẩm Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra
1. Hoàn cảnh ra đời
Bài thơ được sáng tác trong dịp Trần Nhân Tông được về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay)
2. Bố cục (2 phần)
- Phần 1 (hai câu đầu): Cảnh thôn xóm vùng Thiên Trường trong buổi chiều tà
- Phần 2 (hai câu còn lại): Cảnh sắc đồng quê dân dã, mờ ảo trong buổi chiều tà
3. Giá trị nội dung
Cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh tượng vùng quê trầm lặng mà không đìu hiu. Ở đây vẫn ánh lên sự sống của con người trong sự hòa hợp với cảnh vật thiên nhiên một cách nên thơ. Qua đó giúp chúng ta thấy rằng, tác giả tuy có địa vị tối cao nhưng tâm hồn vẫn gắn bó máu thịt với quê hương dân dã
4. Giá trị nghệ thuật
- Kết hợp điệp ngữ và tiểu đối sáng tạo
- Nhịp thơ êm ái hài hòa
- Sử dụng ngôn ngữ miêu tả đậm chất hội họa
- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
III. Phân tích tác phẩm
a) Dàn ý
Dàn ý phân tích mẫu số 1
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Trần Nhân Tông
- Giới thiệu bài thơ “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ,…)
II. Thân bài
1. Hai câu thơ đầu
- Thời gian: buổi chiều tà, sắp về tối
- Không gian: trước xóm sau thôn – khung cảnh làng quê Việt Nam
- Cảnh vật: “bán vô bán hữu” - phong cảnh mờ ảo, vừa như có lại vừa như không có, vừa thực, lại vừa không có thực gợi nên quang cảnh làng quê yên bình đang mờ trong sương khói, cảnh vừa có nét thực vừa có nét ảo
⇒ Bức tranh thiên nhiên độc đáo, mơ hồ như một bức tranh
2. Hai câu còn lại
- Cảnh vật hiện lên nơi làng quê trong buổi chiều tà mờ ảo:
+ Đàn trâu trở về
+ Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng
⇒ Cảnh vật bình dị, gần gũi, quen thuộc với làng quê Việt Nam
- Âm thanh: sáo vẳng – tiếng sao văng vẳng đâu đó nơi chốn làng quê
⇒ Bức tranh làng quê thanh bình, yên ả và nên thơ
⇒ Giữa khung cảnh làng quê ấy, tác giả như chìm đắm vào cảnh vật, non sông mình, tác giả mở rộng tấm lòng đón nhận vẻ đẹp bình dị, yên bình của cuộc sống
III. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:
+ Nội dung: bức tranh làng quê trầm lặng, thanh bình, nên thơ và vè đẹp tâm hồn của tác giả
+ Nghệ thuật: thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, nhịp thơ êm đềm, ngôn ngữ miêu tả mang màu sắc hội họa…
Dàn ý phân tích mẫu số 2
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
+ Tác giả Trần Nhân Tông (1258 - 1308): là một ông vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan hòa, nhân ái và cũng là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
+ Tác phẩm “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” đã thể hiện được tinh thần yêu nước của Trần Nhân Tông.
II. Thân bài
- Vẻ đẹp cảnh vật thiên nhiên trong bức tranh quê hương: hình ảnh cảnh chiều tà khi hoàng hôn đang dần buông xuống:
+ Thời gian: buổi chiều tà, sắp về tối
+ Không gian: trước xóm sau thôn – khung cảnh làng quê Việt Nam
+ Cảnh vật: “bán vô bán hữu” - phong cảnh mờ ảo, vừa như có lại vừa như không có, vừa thực, lại vừa không có thực gợi nên quang cảnh làng quê yên bình đang mờ trong sương khói, cảnh vừa có nét thực vừa có nét ảo
⇒ Bức tranh thiên nhiên độc đáo, mơ hồ như một bức tranh
- Sự hòa quyện, đan xen giữa con người và thiên nhiên:
+ Hình ảnh về một chú bé mục đồng – trẻ chăn trâu đã gợi lên trong tác giả những kỉ niệm về tuổi thơ của chính mình.
+ Đàn trâu trở về
+ Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng
⇒ Cảnh vật bình dị, gần gũi, quen thuộc với làng quê Việt Nam
- Nỗi buồn xót xa và nỗi lòng thầm kín của tác giả:
+ Âm thanh: sáo vẳng – tiếng sao văng vẳng đâu đó nơi chốn làng quê
=> Tiếng sáo ấy hay chính là tiếng lòng của tác giả, nó chứa đựng một nỗi buồn xót xa.
III. Kết bài
Nêu ý nghĩa của bài thơ: Bài thơ không chỉ thể hiện cho tài năng, sự tinh tế trong cách quan sát của nhà thơ mà còn thể hiện sự nặng tình nặng nghĩa của tác giả đối với mảnh đất quê hương.
b) Phân tích tác phẩm
Phân tích tác phẩm Buổi Chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài văn mẫu số 1
Trần Nhân Tông nổi tiếng là một vị vua anh minh hiền đức khoan dung. Bên cạnh đó ông còn là một nhà thơ, một nhà văn hóa tiêu biểu của nhà Trần. Ông đã để lại một số lượng tác phẩm có tầm ảnh hưởng lớn. Trong số đó ta không thể không kể đến tác phẩm Buổi chiều đứng ở phủ thiên trường trông ra. Tác phẩm được sáng tác trong thời điểm ông về thăm quê nhà. Bài thơ tả cảnh buổi chiều ở Thiên Trường tuy vắng lặng nhưng lại có rất nhiều cảnh vật khiến lòng người xốn xang.
Hai câu thơ đầu tiên tả thời điểm và vị trí khi mà tác giả có mặt:
“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên “
(Trước xóm sau thôn tựa khói hồng
Bóng chiều man mác có dường không)
Đọc câu thơ ta thấy xuất hiện thời gian đó là thời điểm cảnh hoàng hôn. Chọn thời điểm như vậy dường như cũng là một dụng ý của tác giả bởi cảnh vật khi đã hoàng hôn trên thôn quê thì vô cùng vắng lặng hiếm có hình ảnh con người nhưng khi ấy cảnh vật lại đang chuyển giao màu sắc nên cảnh vật sẽ vô cùng phong phú khiến cho thi nhân ngỡ ngàng. Địa điểm mà tác giả nói đến ở đây chính là trước xóm nhưng lại sau thôn và cảnh tượng ấy như đang chìm dần vào làn khói mờ giăng mắc khiến cho tầm mắt thi nhân khó quan sát hơn. Đó là làn khói từ trong bếp của các ngôi nhà đang chuẩn bị cơm tối. Hình ảnh này gợi cho chúng ta cảm giác về tình cảm ấm cúng của gia đình, đó là một hình ảnh quen thuộc mà quê hương ai cũng có để rồi đi xa ai cũng nhớ cái hương vị của bếp củi đó. Cụm từ “bán vô bán hữu” nửa như có lại nửa như không có khiến cho chúng ta thấy được khung cảnh ấy vừa thực lại vừa ảo không rõ thực hư.
Tâm hồn người đang lâng lâng trước cảnh hay chính lòng người đang lâng lâng mơ mộng nhìn về xóm nhà tranh quê hương với bếp củi ấm áp. Bức tranh quê với những màu sắc quen thuộc của ánh dương vàng còn rớt lại trên ngọn tre chỗ đậm chỗ nhạt cùng tiếng sáo véo von gợi cho ta cảm giác về cuộc sống thanh bình và dường như đây cũng là một mong ước giản đơn với những người dân bình thường nhưng nó lại thật khó khăn đối với một ông vua của dân tộc. Hình ảnh trong bài thơ không có gì đặc biệt nhưng lại gây xúc động lạ lùng. Bởi nhân dân ta đã đổ xương máu đau thương tang tóc mới có thể giành lại được cuộc sống yên ấm từ tay lũ giặc ngoại xâm. Hai câu thơ cuối là bức tranh đơn sơ của cảnh thôn quê.
“Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền. ”
(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).
Nhà thơ lựa chọn hai hình ảnh thơ đó là cánh cò và hình ảnh lũ trẻ đang chăn trâu. Tác giả chọn hai hình ảnh ấy làm hai hình ảnh kết bài thơ chính bởi đây là những hình ảnh đặc trưng nhất tiêu biểu nhất của quê hương mỗi người. Đó là hình ảnh tiếng sáo đang văng vẳng bên tai của những cậu bé chăn trâu khiến nhà thơ cảm thấy xốn xang lạ thường. Dường như ta đang được về quê cùng tác giả để ngửi hơi khói bếp để nghe tiếng sáo du dương để ngắm đàn trâu đang nhai những ngọn cỏ cuối cùng để về nhà. Đó còn là hình ảnh những cánh cò trắng đang chao liệng.
Nói đến quê hương sao có thể không nhắc đến những đàn cò trắng đã đi vào trong tâm hồn người dân thôn quê và cánh cò ấy cũng chao nghiêng trên bao bài thơ, câu thơ thân thương của người dân. Đã là một người con của quê hương ta không thể quên được những hình ảnh thân thương ấy. Có lẽ tác giả không thực nhìn thấy những hình ảnh đó nhưng đối với một người con của quê hương mà nói những hình ảnh đó vốn là những hình ảnh quen thuộc đến nỗi mỗi khi nhắc đến là họ không thể quên được. Qua đó ta thấy tác giả cũng là một người sinh ra trên một mảnh đất quê hương và chịu cảnh chân lấm tay bùn, có thế tác giả mới có thể hiểu cảm nhận và viết lên những ấu thơ về quê hương da diết đến như thế.
Cho đến nay bài thơ đã vượt qua rất nhiều những bài thơ viết về quê hương và trở thành bài thơ gây được nhiều ấn tượng lớn trong lòng người đọc. Tác phẩm đã gợi được cái hồn cái cốt cũng như con người của làng quê Việt Nam. Bài thơ sâu sắc nhưng lại vô cùng giản dị thể hiện khí chất của bậc hiền tài.
Phân tích tác phẩm Buổi Chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài văn mẫu số 2
Trong văn học trung đại bên cạnh đề tài thể hiện tình yêu đất nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc thì còn có những bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cảnh vật. Tình cảm đó được thể hiện rõ nét trong bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra của Trần Nhân Tông.
Bài thơ được viết trong dịp Trần Nhân Tông về thăm quê cũ ở phủ Thiên Trường. Bởi vậy cả bài thơ đầy ắp nỗi nhớ, tình yêu quê hương. Lời thơ mở đầu tả cảnh chiều hôm:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Cảnh vật hiện ra không rõ nét, nửa hư nửa thực, mờ ảo. Đó là cảnh chiều muộn cảnh vật nhạt nhòa trong sương, thể hiện vẻ đẹp mơ màng, yên tĩnh nơi thôn dã. Cảnh đó một phần là thực một phần do cảm nhận riêng của tác giả. Khung cảnh vừa như thực lại vừa như cõi mộng “bán vô bán hữu” – nửa như có nửa như không. Thời gian buổi chiều gợi nên nỗi buồn man mác, không gian làng quê im ắng, tĩnh mịch. Điều đó cho thấy một tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước vẻ đẹp giản dị của cuộc sống.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền
Âm thanh tiếng sáo làm cho bức tranh trở nên đầy sức sống. Chiều về , ngoài đồng, những con trâu theo tiếng sáo của trẻ con mà về, khung cảnh thật yên bình, đẹp đẽ. Màu trắng của từng đôi cò liệng xuống đồng cũng làm không gian bớt phần quạnh hiu. Bức tranh được tác giả cảm nhận bằng nhiều giác quan: thị giác – sắc trắng tinh khôi của những cánh cò; thính giác – âm thanh tiếng sao du dương, trầm bổng của những đứa trẻ đi chăn trâu. Nếu như ở hai dòng thơ đầu, cảnh vật tịch mịch, tĩnh lặng không xuất hiện bất cứ chuyển động nào thì đến hai câu thơ cuối khung cảnh trở nên sinh động nhờ xuất hiện âm thanh và hoạt động của sự vật. Hình ảnh “cò trắng từng đôi liệng xuống đồng” làm cho không gian được mở ra, trở nên thoáng đãng, cao rộng, trong sạch, yên ả. Qua đó còn cho thấy sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên, đem lại cảm giác thân quen, gần gũi.
Bài thơ có sự kết hợp tiểu đối và điệp ngữ một cách sáng tạo. Nhịp thơ êm ái hài hòa, giọng điệu tha thiết thể hiện tình yêu quê hương sâu nặng. Sử dụng ngôn ngữ miêu tả đậm chất hội họa. Đó là bức tranh phong cảnh làng quê quen thuộc ở bất cứ vùng đất nào của nước ta, chỉ bằng vài ba nét phác họa nhưng cho thấy một bức tranh thật thanh bình, yên ả.
Sử dụng lớp ngôn ngữ giàu chất biểu cảm và hội họa tác giả đã vẻ lên bức tranh làng quê trầm lặng mà không quạnh vắng. Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống thật đẹp đẽ, hài hòa, nên thơ. Qua bài thơ còn cho thấy tình yêu quê hương sâu nặng của tác giả.
Phân tích tác phẩm Buổi Chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài văn mẫu số 3
Tình yêu quê hương đất nước là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong nền văn học trung đại nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung. Tình yêu ấy không chỉ thể hiện ở việc khẳng định chủ quyền dân tộc, niềm tự hào về những chiến công và niềm hy vọng khát khao về một nền thái bình thịnh trị vĩnh hằng. Mà tình yêu quê hương đất nước còn thể hiện thông qua tình yêu của con người với vẻ đẹp của quê hương, gắn bó với quê hương. Điều ấy đã nhiều lần được bộc lộ trong các tác phẩm thơ ca của các tác giả nổi tiếng trong đó bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra của vua Trần Nhân Tông là một ví dụ điển hình.
Trần Nhân Tông (1258-1308), tên thật là Trần Khâm, là con trưởng của vua Trần Thánh Tông. Ông là một vị vua yêu nước, anh hùng, khoan hòa, nhân ái, đã cùng với vua cha tham gia chống lại hai cuộc xâm lược của giặc Mông - Nguyên. Ngoài ra ông còn là một nhà văn hóa lớn, nhà thơ tiêu biểu của thời Trần, năm 1299, Trần Nhân Tông về thiền tu ở chùa Yên Tử, và trở thành vị tổ thứ nhất của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được sáng tác vào dịp Trần Nhân Tông về thăm quê cũ ở Thiên Trường (Nam Định ngày nay). Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Nhan đề "Thiên Trường vãn vọng" cho chúng ta thấy được không gian, thời gian và vị trí quan sát để tác giả thả hồn mình bộc lộ những cảm xúc sâu kín từ trong tâm hồn tác giả. Không chỉ vậy nó còn thể hiện sự gắn bó, thân thuộc, cảm giác yên bình thư thái, và vẻ đẹp bao quát của quê hương tác giả, cho ta thấy một phần nội dung của tác phẩm chính là sự gắn bó tha thiết với quê hương đất nước, niềm vui niềm sung sướng khi nhìn cảnh thanh bình của đất nước.
"Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên"
Hai câu câu thơ đầu tiên đã dựng lên một bối cảnh không gian làng quê được bao phủ bởi khói chiều, với mốc thời gian là buổi chiều buông. Trong đó khoảng thời gian buổi chiều là một khoảng thời gian rất đắt giá trong văn học trung đại, cũng như văn học nói chung. Nguyên do bởi nó thường đem đến cho con người những cảm xúc đặc sắc, khơi gợi trong tâm hồn những nỗi xúc động sâu sắc, đặc biệt là với những con người xa quê cha đất tổ lâu ngày. Thường bóng chiều, hay hoàng hôn lịm tắt, mây tím ráng chiều thường đem đến những nỗi buồn man mác trong lòng người, thế nhưng khác với lẽ thường trong bài thơ Thiên trường vãn vọng, buổi chiều tàn lại đem đến cho người đọc những xúc cảm mới lạ, là sự an yên, bình lặng của cuộc sống nơi làng quê. Kết hợp với bóng chiều chính là làn khói tỏa mờ, bao phủ trước xóm sau thôn, đó có thể là sương khói do thời tiết, nhưng có lẽ trong tác phẩm này khói mà tác giả muốn nhắc đến chính là thứ khói bếp màu xanh bốc lên từ bếp lửa của những ngôi nhà trong thôn xóm. Ấy là ánh lửa nổi lên nấu bữa cơm chiều của mỗi gia đình, đơn sơ giản dị nhưng lại mang lại cảm giác ấm áp, thanh bình, thể hiện đời sống an cư lạc nghiệp của nhân dân, sau một ngày lao động vất vả ta lại về quây quần bên bếp lửa nấu bữa cơm rau. Như vậy có thể thấy rằng cảnh vật trong hai câu thơ đầu hiện lên là một cảnh tĩnh, được bao phủ bởi bóng chiều và khói bếp, đem đến vẻ hư ảo, nửa thực nửa hư, tạo nên cho con người cảm xúc lâng lâng, say đắm lòng người. Từ đó có thể thấy thái độ của tác giả trước dáng vẻ của quê hương chính là sự gắn bó, cảm nhận tinh tế, sâu sắc cùng với dáng vẻ thư thái, tự tại trước không gian rộng lớn, giản dị của quê hương.
"Mục đồng địch lý ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền"
Nếu như hai câu thơ đầu cảnh vật hiện lên là cảnh tĩnh, bóng chiều hòa quyện cùng với làn khói hư ảo, thì đến hai câu thơ sau ta thấy tác giả đã chuyển sang miêu tả cảnh vật và con người ở trạng thái động. Với sự xuất hiện của hình ảnh mục đồng dắt trâu về và hình ảnh những con cò trắng từng đôi từng một hạ cánh xuống cánh đồng. Bên cạnh đó còn có âm thanh của tiếng sáo bảy lỗ, kết hợp với gam màu trắng muốt của cánh cò. Từng hình ảnh, âm thanh, màu sắc kể trên đều là những thứ rất đỗi thân thuộc với làng quê, đặc biệt hình ảnh con trâu lại là bằng chứng sống cho sự thanh bình của đất nước, bởi con trâu là đầu cơ nghiệp, mà trong bài thơ người ta có thể tưởng tượng ra dáng vẻ đủng đỉnh của những chú trâu đang thủng thẳng chậm rãi bước về nhà cùng với lũ trẻ mục đồng. Thể hiện vẻ yên bình, đất nước đã sạch bóng quân thù trở về với dáng vẻ an yên, giản dị, đơn sơ và ấm áp. Bên cạnh đó hình ảnh từng đôi cò trắng hạ xuống đồng chính là biểu trưng cho tình yêu đôi lứa, sự sinh sôi nảy nở dòng giống của dân tộc, cũng như cuộc sống gia đình hạnh phúc, vợ chồng sóng đôi cùng gây dựng tương lai cho quê hương cho đất nước. Điều đó thể hiện sự phát triển vững bền của dân tộc xuất phát từ chính những làng quê nhỏ bé, chân chất, bởi gia đình chính là tế bào của xã hội.
Như vậy bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông dẫu chỉ được xây dựng bằng những hình ảnh và từ ngữ dung dị, bình thường của làng quê Việt Nam lúc bấy giờ. Thế nhưng sâu trong đó nó lại thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó, thân thuộc, tấm lòng yêu quê hương đất nước, khát khao cuộc sống hòa bình an yên cho nhân dân và nỗi lòng vui sướng trước viễn cảnh thanh bình, trầm lắng của quê hương với khói bếp, với đàn trâu, cánh cò của tác giả.
Phân tích tác phẩm Buổi Chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài văn mẫu số 4
Trần Nhân Tông (1258 - 1308) là ông vua anh hùng - thi sĩ của Đại Việt trong thếkỉ XIII. Thông minh, học rộng, có tài thao lược và rất tài hoa. Tên tuổi nhà vua gắn liền với những chiến công hiển hách của nhân dân trong hai cuộc kháng chiến lần thứ hai và lần thứ ba đánh giặc Nguyên - Mông xâm lược.
Trong một số bài thơ chữ Hán của Trần Nhân Tông để lại có hai bài viết về Thiên Trường, mảnh đất “phát nghiệp đế vương” của nhà Trần: Hạnh Thiên Trường hành cung và Thiên Trường vãn vọng.
Thiên Trường là một trong 12 lộ thời Trần, thuộc Sơn Nam; nay thuộc ngoại thành Nam Định. Thiên Trường vốnlà Thái ấp của vua chúa nhà Trần, ở đây xưa kia có nhiều cung điện nguy nga tráng lệ.
Thiên Trường vãn vọngđược viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật (luật trắc, vần bằng). Bài thơ gợi tả cảnh xóm thôn, đồng quê vùng Thiên Trường qua cái nhìn và cảm xúc của Trần Nhân Tông. Cảm xúc lắng đọng, cái nhìn man mác bâng khuâng ôm trùm cảnh vật:
“Thôn hậu, thôn tiền, đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu, tịch dương biên.
Mục đồng địch lí nguy quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền”.
Hơn 60 năm về trước, cụ Ngô Tất Tố đã dịch rất hay bài thơ này.
Hai câu thơ đầu gợi tả cảnh làng quê vùng Thiên Trường trong ánh chiều tàn. Bốn chữ “thôn hậu thôn tiền” và “bánvô bán hữu”liên kết đôi, tạo nên sự cân xứng hài hòa về ngôn ngữ đã gửi lên cảnh xóm thôn “trước xóm sau thôn” phủ mờ khói nhạt, càng trở nên mơ màng, mênh mang. Khói của sương chiều. Khói lam chiều vấn vương, nhẹ bay trên những mái nhà tranh sau lũy tre làng. Chỉ bằng ba nét vẽ rất chọn lọc, lối tả ít mà gợi nhiều của thi pháp cổ, thi sĩ vẽ lên một không gian nghệ thuật về cảnh sắc làng quê một buổi chiều tàn phủ mờ sương khói và ánh tà dương rất yên bình, êm đềm, nên thơ. Nét vẽ thanh nhẹ. Cảnh vật bao la, tĩnh lặng. Ngoại cảnh và tâm cảnh đồng hiện. Tưởng như thí sĩ đang thả hồn mình vào cảnh vật, lặng ngắm thôn xóm quê hương gần xa không chán. So sánh “đạm tự yên” (mờ nhạt như khói) là một hình tượng đầy thi vị. Cả một hồn quê man mác gợi cảm:
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không.
Hai câu thơ là cảnh sắc đồng quê rất dân dã, bình dị, thân thuộc mà đáng yêu. Trên những nẻo đường quê, đàn trâu nối đuôi nhau về thôn. Cóâm thanh tiếng sáo mục đồng cất lên, âm thanh réo rắt, hồn nhiên, thanh bình của làng quê ta xưa nay. Có từng đôi, từng đôi cò trắng bay liệng, nối tiếp nhau hạ xuống đồng. Nhà thơ không nói đến màu xanh và hương lúa mà người đọc vẫn cảm nhận được. Ngôn ngữ thơ, hình tượng thơ đầy âm thanh và màu sắc, thanh tao và dào dạt sức sống. Bút pháp điểm nhãn, lấy động để tả tĩnh của tác giả được thể hiện một cách ấn tượng về bức tranh đồng quê này:
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Tình quê và hồn quê chan hòa, dào dạt. Thiên Trường thuở ấy, đường sá rầm rập ngựa xe, có biết bao cung điện của vua chúa, tôn thất nhà Trần, nhưng Trần Nhân Tông không nói đến lầu son gác tía, bệ ngọc ngai vàng tráng lệ nguy nga, mà chỉ nói đến cảnh sắc thiên nhiên. Tính bình dị, dân dã, hồn nhiên là cốt cách, là hồn thơ của ông vua anh hùng - thi sĩ này. Cảm nhận ấy càng rõ khi ta đọc bài thơ Hạnh Thiên Trường hành cung (Ngự chơi hành cung Thiên Trường):
“Cảnh thanh u, vật cũng thanh u
Mười mấy châu tiền ấy một châu
Trăm tiếng đàn chim, đàn nhạc hát,
Nghìn hàng đám quýt, đám quân hầu.
Trăng vô sự chiếu người vô sự
Nước có thu lồng trời có thu
Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng,
Độ xưa so với độ này thua”.
Cảnh buổi chiều được nói đến trong bài Hạnh Thiên Trường hành cung là cảnh chiều xuân hay chiều thu? Rất khó xác định. Ta chỉ cảm nhận được đó là một buổi chiều êm đềm, xóm thôn phủ mờ sương khói tà dương. Không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ đồng hiện cho ta khẳng định: Trần Nhân Tông viết Thiên Trường vãn vọng sau năm 1288, khi giặc Nguyên - Mông đã bị nhân dân ta đánh bại, nước Đại Việt thanh bình, yên vui.
Bài tứ tuyệt Thiên Trường vãn vọng là một bức tranh quê đậm nhạt, mờsáng, rất đẹp và tràn đầy sức sống. Một bút pháp nghệ thuật cổ điển tài hoa. Một tâm hồn thanh cao, yêu đời. Tình yêu thiên nhiên, yêu đồng quê xứ sở đã được thể hiện bằng một số hình tượng đậm đà, ấm áp qua những nét vẽ tinh tế, gợi hình, gợi cảm, giàu liên tưởng. Kì diệu thay, bài thơ đã vượt qua một hành trình trên bảy trăm năm, đọc lên, nó vẫn cho ta nhiều thú vị. Ta vẫn cảm thấy cánh cò trắng được nói đến trong bài thơ vẫn còn bay trong ráng chiều đồng quê, và còn chấp chới trong hồn ta. Thơ đích thực là thế!