Bài văn tả cây tre 1
“Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”
Mỗi cây một vẻ đẹp riêng, một công dụng riêng. Nhưng gần gũi và thân thuộc nhất với con người Việt Nam vẫn là cây tre, nếu thiếu đi lũy tre già thì không còn là làng quê nữa.
Nhìn từ xa xa, các bạn sẽ thấy lũy tre như bức tường thành kiên cố đang bảo vệ bao quanh thôn xóm mình. Nhưng khi bước tới gần mới thấy “thân gầy guộc lá mong manh”, cây tre nhỏ nhắn với thân dài thẳng, được chia thành những đốt nhỏ đều nhau. Thân cây thường có màu xanh thẫm, các đốt thì có màu hơi xanh đậm hơi vàng. Cây tre không đứng riêng lẻ với nhau, mà thường tạo thành từng lũy với cây này tựa cây kia, dựa vào nhau cùng vươn lên bất chấp nắng mưa để đón lấy ánh sớm bình minh.
Các nhánh tre thường không mọc trên cao mà mọc ngay gần dưới đất, chúng có rất nhiều gai gồ ghề và thường rất nhỏ. Còn lá tre thì mỏng, nhọn, to chỉ bằng nửa lá xoài mà thôi, tuy lá tre trông mảnh khảnh nhưng rất dẻo dai. Họ nhà tre có đến vài chục loại khác nhau, nhưng cùng một điểm tương đồng, đó là cùng có mầm non măng mọc thẳng. Và tre cũng có hoa đó các bạn, nhưng phải hơn 100 năm nó mới ra hoa một lần. Hoa tre mọc thành từng chùm có màu vàng nhạt. Mùi thơm của hoa tre cũng rất đặc biệt đó ạ!
Cây tre có nhiều loại, mỗi loại lại mang đến cho chúng ta một công dụng riêng. Có tre to để đan lát, có tre để làm hàng thủ công. Tre còn có thể được sử dụng để làm nhà cửa, lều quán. Tre gai lại là người canh gác giúp cho cho luỹ làng ta trở nên kiên cố.
Nói tóm lại, cây tre đã góp phần tô điểm cho cảnh sắc quê hương. Tre ôm lấy xóm làng, làm phong cảnh làng quê thêm phần duyên dáng, thêm phần thanh bình. Còn gì đẹp hơn những hình ảnh những mái đình, ngôi chùa thấp thoáng dưới bóng tre xanh, ánh trăng vàng treo lơ lửng trên ngọn tre.
Bài văn tả cây tre 2
Ở nhà nội em có trồng rất nhiều loại cây, nhưng em thích nhất là cây tre, nó mọc lên từng bụi, cho ra rất nhiều cây tre.
Thân tre thẳng đứng từ gốc tới ngọn. Gốc bám chặt với lòng đất nên rất cố định. Thân tre thẳng đứng, vỏ láng và được phân vào nhiều mắt trông rất đẹp. Càng lên cao thân nó càng thu nhỏ lại và đâm thẳng lên trời, cây tre cao khoảng mười mét, lá tre dài và nhọn, màu xanh đậm đều đặn được tỏa mát phía sau nhà, cây tre rất có lợi trong đời sống sinh hoạt và trong chiến đấu.
Quê em cây tre dùng để phục vụ đời sống con người, tre dùng để làm cột nhà, làm đũa ăn, làm rổ để đựng cá và các dụng cụ khác, tre dùng để làm chông gai, tầm vông vạt nhọn để chống quân xâm lược. Cây tre là hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam.
Cây tre tượng trưng cho lòng dũng cảm, ngay thẳng, đùm bọc và thương yêu nhau. Dù có đi đâu xa em vẫn luôn nhớ về quê hương với những rặng tre xanh rì rào
Bài văn tả cây tre 3
Luỹ tre đã trở thành biểu tượng quen thuộc của làng quê. Ở quê em cũng vậy, nơi đâu cũng thấy những bụi lớn nhỏ xanh ngăn ngắt nhưng em thích nhất là bụi tre ngà ở đầu làng.
Sao mà chúng đẹp và thân thương đến thế! Thân tre thẳng, cao vút lên bầu trời, Ấp má vào đó thấy thật mát và nhẵn như da em bé, không một vết sần sùi. Vì là tre ngà nên nó mang một màu vàng óng ả. Thân cây có nhiều đốt mà dường như đốt nào cũng bằng nhau, tạo hoá thật khéo sáng tạo. Nhìn những đốt tre ấy làm em nhớ tới câu chuyện cổ tích Cây tre trăm đốt với câu thần chú: “Khắc xuất, khắc nhập” rất hay. Xinh xắn nhất là những chiếc lá tre nhỏ bé.
Lá tre dài, mỏng mảnh, màu xanh, đầu nhọn nhọn. Lá tre mọc sát nhau nên mỗi khi có cơn gió thổi tới, chúng cọ vào nhau xào xạc, xào xạc như đang thầm thì nói chuyện. Nhất là vào buổi trưa hè, bụi tre toả bóng mát. Có chú trâu buộc dưới gốc cây cọ mình vào thân tre mát quá nên lim dim đôi mắt.
Bỗng đâu một tiếng chim vang lên lanh lảnh, chú trâu giật mình như vừa tỉnh giấc mộng. Bao giờ tre cũng mọc gần nhau thành từng bụi, từng khóm không tách rời. Chúng chẳng khi nào tranh cãi nhau mà sống rất hoà thuận. Những cây tre cao lớn vươn mình như để che chở cho cây con. Gốc cây cụm lại với nhau và tán thì xoè rộng như cây ô khổng lồ. Một vài có con mọc ở bên là thế hệ tương lai thay thế cho thế hệ trước. Nom chúng rất khoẻ khoắn.
Em rất thích ngồi dưới bụi tre vào những buổi chiều về. Những khi thanh vắng, không gian tĩnh lặng, em như còn nghe thấy chúng thủ thỉ tâm sự nữa.
Bài văn tả cây tre 4
“Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”
Mỗi cây một vẻ đẹp riêng, một công dụng riêng. Nhưng gần gũi và thân thuộc nhất với con người Việt Nam vẫn là cây tre, nếu thiếu đi lũy tre già thì không còn là làng quê nữa.
Nhìn từ xa xa, các bạn sẽ thấy lũy tre như bức tuờng thành kiên cố đang bảo vệ bao quanh thôn xóm mình. Nhưng khi bước tới gần mới thấy “thân gầy guộc lá mong manh”, cây tre nhỏ nhắn với thân dài thẳng, được chia thành những đốt nhỏ đều nhau. Thân cây thường có màu xanh thẫm, các đốt thì có màu hơi xanh đậm hơi vàng. Cây tre không đứng riêng lẻ với nhau, mà thường tạo thành từng lũy với cây này tựa cây kia, dựa vào nhau cùng vươn lên bất chấp nắng mưa để đón lấy ánh sớm bình minh.
Các nhánh tre thường không mọc trên cao mà mọc ngay gần dưới đất, chúng có rất nhiều gai gồ ghề và thường rất nhỏ. Còn lá tre thì mỏng, nhọn, to chỉ bằng nửa lá xoài mà thôi, tuy lá tre trông mảnh khảnh nhưng rất dẻo dai. Họ nhà tre có đến vài chục loại khác nhau, nhưng cùng một điểm tương đồng, đó là cùng có mầm non măng mọc thẳng. Và tre cũng có hoa đó các bạn, nhưng phải hơn 100 năm nó mới ra hoa một lần. Hoa tre mọc thành từng chùm có màu vàng nhạt. Mùi thơm của hoa tre cũng rất đặc biệt đó ạ!
Cây tre có nhiều loại, mỗi loại lại mang đến cho chúng ta một công dụng riêng. Có tre to để đan lát, có tre để làm hàng thủ công. Tre còn có thể được sử dụng để làm nhà cửa, lều quán. Tre gai lại là người canh gác giúp cho cho luỹ làng ta trở nên kiên cố.
Nói tóm lại, cây tre đã góp phần tô điểm cho cảnh sắc quê hương. Tre ôm lấy xóm làng, làm phong cảnh làng quê thêm phần duyên dáng, thêm phần thanh bình. Còn gì đẹp hơn những hình ảnh những mái đình, ngôi chùa thấp thoáng dưới bóng tre xanh, ánh trăng vàng treo lơ lửng trên ngọn tre
Bài văn tả cây tre 5
Cây tre là một loại cây được trồng phổ biến ở khắp các vùng miền, đặc biệt là các vùng nông thôn của Việt Nam, như bao vùng quê khác, quê hương em trồng rất nhiều tre, hầu như mỗi nhà đều trồng trước cửa một khóm tre xanh. Những khóm tre này lúc nào cũng tươi tốt, sống đoàn kết bên nhau và dù thời tiết có khắc nghiệt đến đâu thì những rặng tre này vẫn kiên cường, cùng nhau chống đỡ và phát triển.
Trước cửa nhà em có trồng một khóm tre rất lớn, thân cây xanh mướt, thẳng tắp, những cây tre này mọc rất cao,khoảng từ bốn đến năm mét, mỗi khi có gió lớn, những cây tre này lại đung đưa, nghiêng ngả theo gió. Tuy nhiên, nhìn bề ngoài những cây tre có thể mền yếu nhưng không dễ bị quật ngã chút nào, dù có gió bão, mưa dông lớn đến đâu thì chúng cũng kiên cường cùng nhau chống đỡ. Bão đi qua thì những cây tre này vẫn hiên ngang đứng thẳng tắp, như chưa hề trải qua sự tàn phá dữ dội nào vậy. Những cây tre không mọc đơn lẻ như những loài cây khác, chúng thường mọc thành khóm, mỗi khóm có từ bảy đến mười cây tre, to nhỏ khác nhau.
Cũng khóm tre này cũng liên tục phát triển, những cây tre nhỏ vẫn tiếp tục được mọc ra từ những cây măng, vì vậy mà mọi người có câu : “Tre già măng mọc”. Những cây tre rất vững chắc là bởi vì chúng mọc thành khóm, cũng bởi vì cấu tạo của thân tre. Thân tre được nối liền với nhau bởi những mắt tre, hay còn gọi là mấu tre. Những mấu này rất cứng, chúng hợp lại với thân tre, tạo ra sự mềm dèo nhưng vô cùng vững chãi, mưa gió không thể quật đổ. Lá tre rất nhỏ và dài, thường mọc ra ở ngọn tre. Tre cũng có hoa nhưng rất khó để có thể nhìn thấy, phần vì tre ở trên cao, phần vì tre cũng rất hiếm khi ra hoa. Em chỉ nghe bà em kể lại, hoa tre có màu trắng và nở rất đẹp.
Tre vô cùng gần gũi với cuộc sống của người dân Việt Nam, trong thời kì đấu tranh chống giặc ngoại xâm, tre làm thành những chiếc chông, những chiếc gậy, cùng con người xông pha trận mạc. Trong truyền thuyết Thánh Gióng, khi xông pha chiến trận, khi đánh nhau với kẻ thù, Thánh Gióng đã dùng những cây tre ven đường, lũ giặc cũng vì vậy mà bị tiêu diệt hết. Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, tre vô cùng hữu ích với cuộc sống của con người. Tre dùng làm những chiếc rổ, chiếc rá. Tre làm thành những chiếc tăm, làm những chiếc gậy để gẩy rơm, thành những chiếc cọc vững chắc…
Như vậy, tre xanh không chỉ là một loài cây điển hình, được trồng phổ biến ở các làng quê Việt Nam, mà tre tự bao giờ đã trở thành biểu tượng của người Việt Nam, cứng cỏi kiên cường, dù có khó khăn, chông gai đến đâu cũng không làm khó được tre. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất thì những cây tre vẫn đoàn kết bên nhau và phát triển mạnh mẽ.
Bài văn tả cây tre 6
Ở đầu làng em có một khóm tre già. Em không biết nó trồng từ lúc nào nhưng bây giờ nó đã to, cao hơn cả ngôi trường em đang học.
Bụi tre này cao trên tám mét, thân thẳng đuột. Những cây tre ôm sát nhau đếm không xuể. Thân cây được chia làm nhiều đốt, không có màu nâu đất như nhiều loại cây khác mà óng óng một màu xanh. Những nhánh tre thường rất nhỏ, mọc ngay dưới gốc và hay có gai gồ ghề. Lá tre nhỏ bằng một nửa lá xoài, lúc còn non cũng cuộn lại như lá chuối, sau dần dần xoè ra cho gió đưa đẩy.
Quanh khóm tre được bao bọc bằng những dây lá bát. Khóm tre dày nhất là ở phần gốc, càng lên cao càng thưa dần. Tuy là một loài cây lấy gỗ, nhưng rễ của nó lại là rễ chùm, chằng chịt như có hàng triệu con giun khổng lồ. Rồi ngày tháng qua đi, những cây tre cũng dần già đi bị chủ chặt về, để nhường chỗ cho những búp măng: búp màu xanh, búp màu nâu xen kẽ nhau trông thật vui mắt. Thế rồi những búp măng ấy cũng lớn dần đần, từ giã lớp vỏ bên ngoài để trở nên vững chãi và rắn chắc hơn.
Tre rất có ích. Lá tre có thể nhóm lửa. Gỗ để đóng bàn ghế, giường…Thỉnh thoảng, người ta còn nhổ cả rễ tre về làm thuốc. Nếu ai có dịp được thưởng thức những búp măng thì thật tuyệt! Do tre có ích như thế, nên em yêu biết bao những khóm tre đầu làng
Bài văn tả cây tre 7
Đầu làng tôi có những khóm tre xanh mát, không biết những khóm tre ấy có từ đời nào, nhưng chỉ biết rằng chúng rất thân với người dân quê tôi.
Nhìn từ xa, lũy tre làng như một bức tường thành bao quanh thôn xóm. Tới gần, mới thấy bức tường thành ấy được tạo bởi nhiều cây tre, gầy guộc, khẳng khiu. Cây này nương tựa cây kia, bất chấp nắng mưa bão dông, vươn lên trên cao, đón nhận ánh sáng mặt trời. Các cụ già trong làng thường bảo: “Cây tre cũng như người dân quê mình một nắng hai sương, chịu thương chịu khó, bất khuất kiên cường”.
Thân tre tròn lẳn lại nhiều gai, trên thân cây tua tủa những vòi xanh ngỡ như những cánh tay vươn dài. Dưới gốc, chi chít những búp măng non. Búp thì mới nhô khỏi mặt đất, búp thì cao ngang ngực tôi, có búp vượt đầu người. Tôi cứ nghĩ những búp măng ấy chính là những đứa con thân yêu của tre. Năm năm tháng tháng được mẹ chăm chút ngày một lớn lên, ngày một trưởng thành trong bóng mát yêu thương.
Những ngày hè oi bức, nắng như đổ lửa trên đồng, lũy tre là nơi nghỉ ngơi của bà con, cô bác. Buổi trưa, tre che nắng cho trâu nằm, ru cho trâu ngủ. Buổi chiều, chúng tôi ra ngồi dưới gốc tre trò chuyện, vui chơi. Có những đêm rằm, bọn tôi mang đèn treo lên những cành tre. Ánh sáng lấp lánh, chúng tôi nhảy múa, cười đùa, vui ơi là vui! Lá tre rì rào tiếng hát, rầm rì kể chuyện ngày xưa … tre cũng vui cùng chúng tôi.
Tre đi vào cuộc sống của con người quê tôi. Đó là người bạn tâm tình của nhiều thế hệ người làng tôi. Người làng tôi ai đi xa cũng nhớ về cây tre, cũng nhớ về lũy tre làng xanh mát yêu thương.
Bài văn tả cây tre 8
Tre từ lâu đã trở thành hình ảnh không thể thiếu trong tiềm thức người dân lao động, nhất là những người xuất thân từ làng bản, dù đi xa đến đâu cũng không bao giờ quên được hình ảnh lũy tre làng.
Tre thường mọc thành lũy thành hành, không bao giờ đứng một mình. Nhìn từ xa, lũy tre như những cách tay ôm dài trùm lên bóng làng bản, xóm thôn. Rễ tre thuộc loại rễ chùm, gầy guộc và cằn cỗi nhưng bám rất chắc chắn vào đất giúp giữ cây không bị đổ trước những cơn gió dữ.
Thân tre xanh thẫm, nhỏ nhắn nhưng dẻo dai, không dễ gì đổ, gãy. Trên thân có các đốt được phân ra nhìn kĩ có màu vàng nhạt. Lá dài, thon, nhọn, nhìn mong manh nhưng không dễ bị úa tàn. Họ nhà tre phải đến cả trăm họ, đông đúc, nào là: Tre Đồng Nai, nứa, mai, vầu Việt Bắc, trúc Lam Sơn, tre ngút ngàn rừng cả Điện Biên,… Dù là họ nào thì từ khi còn là măng tre, đã có dáng mọc thẳng, hiên ngang như vươn lên phía bầu trời không chịu cong bao giờ.
Cây tre đã góp phần tô điểm cho làng cảnh thêm tươi đẹp. Bên cạnh, cây đa, quá nước, sân đình, có lũy tre ôm ấp mái nhà càng làm cho khung cảnh quê hương trở nên thanh bình mang một vẻ đẹp riêng. Và cũng thật đẹp khi người xa xứ nghĩ về hình ảnh con trâu nhai cỏ bên dưới lũy tre làm hiện lên cả một khung cảnh cần lao yên ấm của dân lao động.
Tre gắn liền với làng cảnh như vậy, tre còn gắn liền với cuộc sống lao động của người nông dân một nắng hai sương.
Tre để lợp mái, làm nhà. Tre trở thành cán cày, cán cuốc theo người nông dân ra đồng. Trở thành rổ, thành rá, thành thùng cho những mùa gặt hái, những buổi đi chợ của chị em. Tre đồng hành cùng mọi lứa tuổi để làm vui cuộc sống, làm đồ chơi cho những em bé, làm điếu cày cho ngươi già,… Tre còn để gói bánh trưng xanh ngày tết làm ấm lòng người dân những ngày thiêng liêng:
Lạt này gói bánh chưng xanh
Cho mai lấy trúc cho anh lấy nàng.
Không chỉ vậy, tre còn là vũ khí lợi hại trong kháng chiến, gậy che, chông tre, mũi tên tre đã dựng lên thành Tổ Quốc, đánh đuổi mọi gót chân xâm lược bao đời, đồng hành cùng dân ta trên con đường bảo vệ độc lập dân tộc. Chiến tranh đã đi qua nhưng những hình ảnh như Thánh Gióng bẻ tre ngoài sa trường làm cho quân giặc chết như ngả dạ thì còn mãi.
Ở tre có hết thảy những đức tính mà con người cần hoàn thiện: kiên cường, đoàn kết, thủy chung, can đảm, là biểu tượng cho con người, là niềm tự hào của dân tộc ta đã đi vào thơ ca trở thành đối tượng để ngợi ca, lưu giữ.
Tre cùng người Việt Nam trải qua bao thăm trầm của lịch sử, qua bao cuộc chiến tranh giữ nước. Tre xứng đáng là hình ảnh đại diện của tính kiên cường, bất khuất của người Việt, là biểu tượng muôn đời của dân tộc Việt Nam- biểu tượng của một nền văn hóa Việt.
Bài văn tả cây tre 9
Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh
(Cây tre Việt Nam- Nguyễn Duy)
Cây tre xanh từ lâu đã gắn bó với dân tộc ta như một người bạn đồng hành không biết tự bao giờ. Nếu như làng quê Việt Nam không có hình ảnh cây tre lấp ló sau lũy tre làng, có lẽ không còn là làng quê Việt Nam nữa.
Đến với làng cảnh Việt Nam, đến tới cổng làng, ta vẫn bắt gặp hình ảnh cây đa, giếng nước, sân đình là những hình ảnh gọi mời kí ức tuổi thơ. Chỉ cần đi vài bước để đến tới xóm làng, đi vào khung cảnh nhịp sống của con người nơi đây thì ta sẽ không thể nào bỏ qua được lũy tre làng.
Chúng đứng thành bụi, giăng thành hàng, thành lũy. Những lũy tre mọc cao, dày vươn lên như có ý che chắn cả cả một vùng sinh hoạt bên dưới. Dáng tre mọc thẳng, cao, nhìn có vẻ “gầy gò” mà thực chất rất dẻo dai. Than tre tròn, nhỏ nhắn, màu xanh thẫm, được chia ra làm các đốt. Các nhánh tre thường không mọc trên cao mà mọc ngay gần dưới đất, chúng có rất nhiều gai gồ ghề và thường rất nhỏ. Còn lá tre thì mỏng, nhọn, to chỉ bằng nửa lá xoài mà thôi, tuy lá tre trông mảnh khảnh nhưng rất dẻo dai. Cấu tạo thì có vẻ đơn giản như vậy nhưng cây tre có rất nhiều công dụng, là một phần rất quan trọng trong đời sống của bà con nông dân.
Dân ta xưa kia chưa thể xây nhà gạch, mái ngói, tre trở thành chất liệu lợp mái, lát vách che năng che mưa cho bao gia đình. Tre còn được tận dụng trong nghề thủ công, đan lát, trở thành những chiếc rổ, chiếc rá xinh xắn, tiện dụng theo các cô, các chị ra chợ, ra đồng. Tre làm cán cuốc, cán cày một nắng hai sương với người nông dân để được những mùa gặt bội thu. Tre gắn bó trở thành những thứ đồ hàng cho tụi trẻ chăn trâu, trở thành cái điếu cày làm bạn tuổi già với các cụ già,… Không chỉ thế, các chị, các mẹ còn trở nên duyên dáng hơn nhiều trong chiếc guốc tre thoải mái. Tre đã trở thành người bạn thân thiết với nông dân ta từ xưa đến nay.
Không chỉ trở thành những vật dụng đồng hành cùng người nông dân trong cuộc sống thường ngày, cuộc sống lao động, cây tre còn có vai trò rất quan trọng trong thời kháng chiến. Ở đó, “tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” (
Trong lúc mà dân ta chưa có vũ khí hiện đại, vu khí đều sử dụng phụ thuộc cả vào thiên nhiên. Tre với tính chất dẻo dai mà cứng rắn đã trở thành một vũ khí vô cùng lợi hại của dân ta. Chúng ta ắt hẳn vẫn còn nhớ tới truyền thuyết Thánh Gióng, bẻ tre bên đường, đánh cho quân xâm lược không còn manh giáp. Hay sự kiện Ngô Quyền dùng cọc tre và lợi dụng thủy triều đánh tan quân Nam Hán trên song Bạch Đằng vào năm 938. Đó là minh chứng rất cụ thể cho vai trò to lớn của cây tre trong những trận chiến khốc liệt dành độc lập dân tộc.
Có tầm quan trọng như vậy, từ lâu cây tre đã đi vào tiềm thức của người dân Việt với rất nhiều biểu tượng. Tre luôn mọc thành lũy, thành hàng chứ không bao giờ mọc một mình, đó là tinh thần đoàn kết, đồng lòng. Tre mọc thẳng, mọc cao, không bao giờ mọc nghiêng, cùng sự dẻo dai dễ sống của cây là biểu hiện rõ nhất cho sự kiên cường, bất khuất. Đó đều là những phẩm chất đáng quý của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, nên mới nói, nhắc đến cây tre là nhắc đến con người Việt Nam.
Tre thật đẹp, thật có ích. Tre là biểu tượng không thể phai đổi, không thể mất đi, tre già măng mọc, sẽ còn mãi đến mai sau. Dù là chiến tranh đã lùi xa, cuộc sống trở nên hiện đại hơn nhưng cây tre vẫn mãi giữ một vị trí quan trọng trong tâm hồn người Việt.
Đất nước có vô vàn sắc màu tươi trẻ nhưng không thể thiếu đi màu xanh của cây tre. Màu xanh ấy đã trở thành bản sắc, biểu tượng cho dân tộc
Bài làm 3
Quê em cớ muôn ngàn cây lá khác nhau, mỗi cây có một vẻ đẹp riêng, một công dụng riêng. Nhưng gân gũi nhất vẫn là cây tre. Nếu như làng quê thiếu lũy tre làng thì chẳng còn là làng quê nữa.
Tre có dáng thẳng, thân tròn. Tre đứng thành bụi, giăng thành hàng, thành lũy. Lá tre mỏng, nhọn, trông mảnh khảnh nhưng thật dẻo dai. Họ nhà tre có mấý chục loại khác nhau, nhưng cùng một điểm tương đồng, đó là cùng có mầm nọn măng mọc thẳng. Dáng tre vươn cao, có chiều quằn ở ngọn, màu tre tươi như nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên cứng cáp, dẻo dai, tre mộc mạc, giản dị như người nông dân chân lấm tay bùn.
Cây tre đã góp phần tô điểm cho cảnh sắc quê hương em. Tre ôm ấp xóm làng, tre làm cho phong cảnh làng quê thêm duyên dáng, thanh bình. Còn gì đẹp hơn hình ảnh những mái đình, ngôi chùa cổ thấp thoáng dưới bóng tre xanh, ánh trăng vàng lơ lửng trên ngọn tre. Và cũng thật là đệp với hình ảnh con trâu nằm nhai bống râm dưới bụi tre đầu làng. Tre hòa quyện cùng với cuộc sống lao động, tre chia ngọt xẻ bùi cùng con người trong những phút thư nhàn ngồi trò chuyện cùng nhau. Tre làm cho quê hương em có một vẻ đẹp yên bình, ấm áp.
Tre không chỉ đẹp đơn thuần là màu xanh cây lá; không chỉ là cái dáng nghiêng nghiêng ôm ấp xóm thôn mà vẻ đẹp của tre còn là sự cần cù, chất phác:
Cánh đồng ta năm đôi ba vụ
Tre với người vất vả quanh năm.
Cây tre Việt Nam – (Thép Mới)
Tre là bạn của nhà nông. Tre giúp người làm cột, làm kèo, đan phên nứa để dựng vách, làm sườn nhà… Tre từng một nắng hai sương với người lao động. Tre làm cán cuốc, cán cày. Tre đồng cam cộng khổ với người, cùng người gánh vác khó khăn, cùng người hạnh phúc. Tre là bạn tâm giao với mọi lứa tuổi. Tre gắn bó với tuổi già, chiếc điếu cày giúp cụ già khoan khoái hút thuốc làm vui, nhổ vụ trước; nghĩ đến mùa sau hay nghĩ đến một ngày mai bội mùa, no ấm. Tre đem lại niềm vui cho con trẻ, tre làm chiếc nôi để những em bé có giấc ngủ say nồng, tre làm que chuyền để trẻ em có niềm vui thú. Tre đan rổ, rá, nong, nia để các bà, các cô cổ cái mà sử dụng. Tre đem lại vẻ đẹp giản dị, thuần khiết cho người con gái thôn quê. Guốc tre, nón tre đi cùng với tà áo dài của người phụ nữ Việt Nám thì đẹp biết bao! Không chỉ thế, tre còn đem lại hạnh phúc lứa đôi:
Lạt này gói bánh chưng xanh
Cho mai lấy trúc cho anh lấy nàng.
(Thép Mới)
Tre không chỉ phục vụ nhà nông mà còn là vũ khí để đánh giặc. Gậy tre, chông tre, mũi tên tre đã dựng nên thành đồng Tổ quốc. Tre mang chí khí như người chiến sĩ đang ngày đêm chiến đấu giữ làng, giữ nước, giữ hòa bình hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam.
Chiến tranh đi qua, tre lại mang nét đẹp duyên dáng, trữ tình. Trẹ rì rào khúc hát bốn mùa. Tre vi vút những bài ca xây dựng của cuộc sống đang hướng tới tương lai. Tre hiên ngang đứng giữa cổng chào chiến thắng.
Ngày nay, đất nước ta đã có một nền khoa học công nghệ hiện đại nhưng cây tre Việt Nam vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống. Tre có mặt khắp nơi, các mặt hàng được làm từ tre đã đi khắp mọi miền Tổ quốc, được xuất khẩu ra nước ngoài. Tre vịnh dự góp phần đưa nền kinh tế đất nước ngày một đi lên. Đặc biệt hơn nữa, tre nứa làm nên những trang giấy trắng tinh để chứa đựng biết bao nguồn tri thức giúp các em vững bước vào đời.
Cây tre thật đẹp, thật có ích. Tre gắn bó với người, cùng người lao động và chiến đấu, cùng người xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong tương lai, tre vẫn còn mãi mãi. Tre già, măng mọc, theo qui luật từ bao đời nay. Búp măng non mãi trên phù hiệu hay trên mũ đội viên. Đó là hình ảnh lớp trẻ đang lớn mạnh, là thế hệ tương lại của đất nước.
Em mong rằng quê hương em vẫn mãi mãi xanh một màu xanh của tre, màu xanh của tâm hồn, của nền văn hóa, của cuộc sống tươi đẹp, phồn vinh.(Hết)
Bài văn tả cây tre 10
Ngay từ nhỏ, tôi đã từng được nghe nói nhiều về tre về trúc, mà sao tôi tchưa thấy chúng ngoài đời thường bao giờ, chúng xuất hiện trên những bức tranh, quyển sách mà tôi mua. ‘’Có lẽ mình chỉ biết lợi ích và hình của chúng qua sách thôi’’-tôi đã từng nghĩ như thế khi đọc xong quyển sách về loài cây được coi là biểu tượng của dân tộc VN này. Qua những câu hỏi đó, tôi càng muốn hiểu hơn về chúng, càng yêu quý chúng hơn qua từng lợi ích, vẻ đẹp của loài cây này.
Nhưng những câu hỏi như thế chấm dứt khi tôi được về quê và bất ngờ thây. Đúng là ‘’trăm nghe không bằng mắt thấy’’ vẻ đẹp của loài tre mọc thành từng bụi này lại mọc xung quanh nhà ngoại tôi. Tôi biết ngay lúc đó là mình sẽ có nhiều cơ hội tìm hiểu về loài cây này hơn. Cái cảm giác háo hức, nôn nao cứ thúc tôi nhanh chóng đi tìm hiểu về chúng ngay khi vừa đặt chân xuống mảnh đất này.
Ngay trước mặt tôi là một bụi tre to lớn chừng sáu, bảy cây tre tụm vào nhau như thể hiện sự đoàn kết vĩnh cữu của dân tộc Việt Nam. Bên dưới là những bụi tre là những măng non đang mọc lên làm tôi nhớ đến hình ảnh cuộc thi ‘’Búp măng non’’ mà mình thường được nghe đến, mãi bây giờ mới hiểu đó chính là hình ảnh của một búp non tuy nhỏ nhưng sau này sẽ trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước xinh đẹp này.
Tre mọc khắp đồng quê, tuy không đẹp nhưng chúng gắn bó với người dân ở đây hơn cả những loài cây như: hoa giấy, hoa hồng,.. suốt đời chỉ biết làm đẹp để khoe mình cho đến chết. Tre tuy khẳng khiu một màu xanh và ngày càng vàng đi khi nhìn thấy các búp măng lớn lên, nhưng chúng không phải là vô ích, chúng có thể là vật liệu để làm nên những chiếc giường, những chiếc tủ và vô vàn thứ khác mà ta từng thấy.
Đối với người nông dân, còn gì tốt hơn sau nhiều giờ làm việc dưới các nóng gây gắt của ánh Mặt Trời thì được ngả lưng dưới bóng tre tươi mát Lúc này, tôi lại khám phá ra chính những chiếc diều mà tôi thường hay chơi lại có khung được làm từ tre. Sự ngạc nhiên ngày càng dâng cao khi chính tay tôi có thể dùng tre làm nhiều thứ mà mình không còn cơ hội làm khi quay lại thành phố. Nhưng có lẽ thứ mà bọn trẻ làng quê sợ nhất cũng chính là tre, ở đây đứa nào cũng sợ chiếc roi tre mắc đầu giường của bố mẹ mình mà chúng thường bị đánh khi mắc lỗi.
‘’Tre xanh
Xanh tự bao giờ
Truyện ngày xưa đã có bờ tre xanh…’’
Nhà thơ Nguyễn Duy từng nói thế, hình ảnh của tre quá quen thuộc với các bạn nhỏ qua hình ảnh nhân vật Thánh Gióng khi gẫy chiếc gậy sắt đã lấy bụi tre bên đường đập tan bọn giặc. Hình ảnh cây tre trăm đốt trong truyện cùng tên và hình ảnh đó ngày càng mở rộng ra khắp các lĩnh vực từ văn học đến những bộ phim như : ‘’ Cây tre Việt Nam’’.
‘’…Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy, nên thành tre ơi..’’
Qua 2 câu thơ đó, tôi càng khâm phục tre hơn, rõ ràng tre đã gắn bó với dân tộc ta suốt nhiều năm dài bị các nước khác xâm chiếm. Tre dựng lũy, dựng thành chống quân giặc, tre làm vũ khí cho nhân dân, tre làm những bãi chông ngăn bọn lính dù,… Tre luôn tiên phong trên con đường mở ra đến sự tự do và hạnh phúc của dân tộc ta.
‘’…Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù cát sỏi đá vôi bạc màu
Có gì đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít chất dồn lâu hoá nhiều…’’
Tre có rễ ngấm sâu xuống lòng đất, sống lâu và sống ở mọi vùng đất.Chính vì thế tre được ví như là con người Việt Nam cần cù, siêng năng, bám đất bám làng:
’’Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ, bấy nhiêu cần cù’’.
Tre cùng người Việt Nam trải qua bao thăm trầm của lịch sử, qua bao cuộc chiến tranh giữ nước. Tre xứng đáng là hình ảnh biểu tượng của tính kiên cường, bất khuất của người Việt Nam, là cái đẹp Việt Nam
Bài văn tả cây tre 11
Quê hương – hai tiếng giản dị mà nặng trĩu ân tình. Quê hương trong các bạn là gì? Là cây đa, bến nước, sân đình hay cánh đồng thẳng cánh cò bay? Quê hương trong tôi là những gì bình dị, thân thuộc nhất, một tình yêu nồng đượm: yêu quê là yêu cả lũy tre xanh rì rào trong gió.
Tôi chẳng hay biết lũy tre xanh có tự bao giờ, chỉ biết bao năm tháng qua đi, nó vẫn lặng lẽ ở đây như vị Thần làng canh giấc ngủ bình yên cho quê hương. Thân tre cao vút, xanh, mọc thẳng. Trên thân chia ra thành những đốt nhỏ cao chừng một gang tay người lớn.
Cây có những cành tăm chi chít đan xen như những ngón tay bé nhỏ vẫy chào cuộc đời, con người. Lá tre không xanh thẫm một màu sức sống. Lá tre không dài, dáng thuôn nhọn, to chỉ bằng một nửa lá nhãn. Tre mọc thành từng rặng chứ không sống đơn lẻ. Phải vậy mà khi nhắc tới tre, người ta thường nghĩ tới tinh thần đoàn kết của cả một dân tộc? Ở dưới gốc là những búp măng nhọn khỏe khoắn mà chúng tôi từng tự hào là biểu tượng cho tuổi nhi đồng thơ ngây, trong sáng.
Tre đã sống cùng quê hương cả một đời dài đầy thăng trầm. Tre rủ bóng che mát cả một quãng đường dài đầy nắng vào những ngày hè chói chang. Tre chứng kiến không biết bao nhiêu những trò ô quan, nhảy dây, chuyền chắt,… của lũ trẻ chúng tôi. Trưa làm đồng về mệt, các bác, các cô ngồi nghỉ dưới rặng tre, trò chuyện rôm rả. Chiều chăn trâu, lũ mục đồng buộc trâu ở gần rặng tre để thả diều, thổi sáo,… Tre đã gắn bó với cuộc sống sinh hoạt của quê hương.
Người ta thường nói: “Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất” – tre là biểu tượng của sự dũng cảm, bất khuất, là biểu tượng của lối sống ngay thẳng, kiên cường, cứng cỏi, dẻo dai của con người Việt Nam. Nhắc đến quê hương Việt Nam, người ta thường nhắc tới lũy tre là vì vậy? Tre có mặt trong cuộc sống sinh hoạt của con người quê tôi: cái rổ, cái rá bà đan, quang gánh của mẹ, que chuyền của lũ chúng tôi,… Tre trở thành một người bạn không thể thiếu với quê hương tôi.
” Tre xanh… Xanh tự bao giờ? ” – Tre ngàn năm vẫn mãi tươi màu như thế, mãi gắn bó với quê hương tôi và trong tim mỗi người nơi đây. Ngày mai rời xa miền quê yên bình này, tôi sẽ mãi nhớ quê hương, nhớ về một lũy tre luôn rì rào trong gió
Bài văn tả cây tre 12
Hình ảnh quê hương trong tâm trí em thật đẹp, thật thanh bình và yên ả. Vẻ đẹp ấy được dệt nên từ sự hiền hòa của những dòng sông quê, từ những cánh đồng lúa xanh ngát bao la, từ những rặng dừa thẳng tắp… Nhưng đối với em thì hình ảnh lũy tre làng xanh mát, rì rào trong gió thanh luôn đẹp nhất và thân thuộc nhất.
Tre là một loại cây truyền thống của Việt Nam, đã có từ rất lâu như có người đã nói: “Tre xanh xanh tự bao giờ/ Truyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”. Tre không bao giờ mọc riêng lẻ từng cây mà mọc thành từng khóm, từng bụi, từng lũy. Nhìn từ xa, rặng tre làng như bức tường thành vững chãi bao bọc, ôm ấp những mái nhà ngói san sát đỏ. Không giống những loài cây khác, tre có một đặc tính rất riêng là luôn mọc thẳng. từ khi còn là mầm măng nhỏ bé đến khi lớn cao chừng mười mét che luôn đâm lên thẳng tắp, mặc cho mưa gió bão bùng.
Phải chăng đó cũng là một phẩm chất đáng quý của người Việt ta: luôn sống ngay thẳng, dù nhỏ bé nhưng biết đoàn kết để vượt qua mọi thử thách, gian nan. Thân tre không to như những loài cây cổ thụ khác. Nó có hình tròn, khoác lên mình tấm áo xanh thẫm, gầy guộc nhưng rất cứng và khỏe khoắn. Có thể nói tre là loại cây duy nhất có một sức sống mãnh liệt. Tre có thể sống ở những nơi sỏi đá khô cằn hay những vùng đất màu mỡ.
Có được điều ấy một phần là bởi bộ rễ của tre rất xum xuê, đâm sâu xuống lòng đất để hút chất dinh dưỡng từ đất mẹ. Từ thân tre mọc ra tua tủa biết bao nhiêu cành lá. Cành tre khá nhỏ, đâm ra tứ phía như những cánh tay vươn ra đón lấy ánh nắng mặt trời. Lá tre màu xanh thẫm, thuôn dài và rất mỏng. Vào những trưa hè nóng nực, trong cơn gió mát từ cánh đồng bao la, bụi tre lại xì xào như tiếng nói chuyện của những chiếc lá. Thỉnh thoảng, một vài chiếc lá lìa cành, chao nghiêng giữa không trung rồi đáp xuống mặt nước nhưng những chiếc thuyền bé nhỏ dạo chơi trên sông. Nhiều người thường nghĩ rằng tre không có hoa nhưng thực ra tre chỉ ra hoa một lần. Mỗi khi từng chùm hoa nhỏ li ti màu trắng ngà điểm xuyết cành lá cũng là dấu hiệu của một vòng đời sắp kết thúc.
Tre có sự gắn bó rất mật thiết với cuộc sống người nông thôn đồng thời góp phần tô điểm cho cảnh sắc quê hương em. Dưới gốc tre mát là nơi vui chơi lí tưởng của bọn trẻ nhỏ. Rồi cành tre là những đồ chơi hữu ích từ chiếc cần câu dẻo dai đến từng chiếc hóp cứng cáp. Tre còn là bạn của nhà nông. Tre làm cán cuốc, cán cày giúp người nông dân đỡ mệt nhọc. Thân tre còn được đan thành những chiếc chõng vững chãi, là nơi say giấc cho bao đứa trẻ, là nơi trò chuyện của các cụ già bàn về một vụ mùa bội thu. Tre còn điểm tô vẻ đẹp cho các cô gái Việt. Hình ảnh những người con gái duyên dáng với chiếc nón tre đã đi vào bao áng văn thơ như một vẻ đẹp thanh khiết và trong trẻo.
Không chỉ làm bạn với con người thời bình mà tre còn là người chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ những chiếc cọc tre trên sông Bạch Đằng đánh đuổi quân Nam hán đến những chông tre, gậy tre đánh bại kẻ thù thời kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ.
Cây tre thật đẹp và có ích. Tre vừa mang trong mình vẻ đẹp rất Việt Nam lại là người bạn đồng cam cộng khổ, người đồng chí đồng đội gắn bó với nhân dân ta từ bao giờ. Em mong cây tre xanh sẽ luôn đồng hành cùng dân tộc ta trên từng chặng đường dài.
Bài văn tả cây tre 13
Cây tre gắn bó với người nông dân Việt Nam từ hàng nghìn năm rồi. Hình ảnh làng quê Việt Nam từ xưa gắn liền với luỹ tre làng – những bụi tre gai ken dày chắn gió bão thiên tai và che chắn cho mỗi làng Việt trước trộm đạo, giặc cướp và kẻ xâm lược – nhân tai.
Cây tre đã đi vào văn hoá Việt Nam như một hình ảnh bình dị mà đầy sức sống, dẻo dai chống chịu thiên tai, gió bão và giặc ngoại xâm. Thế nhưng những năm gần đây, có một thực tế đáng buồn là loại cây đa dạng, thiết thực trong mọi mặt đời sống này đã bị coi nhẹ, bị chặt phá, bị thoái hoá… bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.
Về tính năng, không thể kể hết tính đắc dụng của tre đối với người dân Việt Nam: làm nhà cửa (vì kèo, lanh tô, phên liếp, vách tường…), làm vô số vật dụng: cái cần câu, cái vó cất tôm cất tép, cái đó, bè mảng, cái cầu ao và cả những cái cầu bắc qua những con mương, con kênh nhỏ; làm chông, làm tên bắn chống giặc ngoại xâm…
Tre từng được sử dụng phổ biến để làm đồ gia dụng: bàn ghế, giường chõng, các loại vật dụng sinh hoạt từ cái đòn gánh và đôi quang (thứ vật liệu đa dụng để gánh mọi thứ ra đồng và gánh lúa từ đồng về nhà, chưa kể còn được dùng như một thứ “tủ lạnh” thông thoáng để bảo quản thức ăn và chống chó, mèo, chuột hữu hiệu) đến cái khung cửi, cái xa quay sợi, cái rổ, cái rá, cái giần, cái sàng gạo, cái rế đựng nồi, cái gáo múc nước, cái bừa, cái cào, cái ách khoác lên cổ con trâu cày đến con dao cật nứa cắt rốn lúc chào đời, cái quạt nan, đôi đũa, cái tăm… nhiều thứ vật dụng làm bằng tre còn được dùng đến ngày nay.
Đấy là còn chưa nói tới các loại vật dụng của nhà nông, cũng như nhiều loại vũ khí thời xưa của cha ông ta đều có phần cán, phần tay cầm làm bằng một loại cây nào đó thuộc họ tre. Cây gậy tầm vông thời đánh Pháp xâm lược là một chứng tích đã đi vào lịch sử. Cây nêu dựng lên trước cửa nhà vào dịp năm mới thời xưa để trừ ma quỷ, cái ống đựng bút và quản bút lông của các nhà nho mà những năm gần đây về nơi thôn dã ta còn thấy, đến những cánh diều mà hôm nay con trẻ còn chơi… tất cả đều làm từ tre. Vật dụng ngày càng có vẻ thuận tiện hơn, có vẻ đẹp đẽ hơn đã đẩy chúng ta xa rời thứ cây nhiều lợi ích như thế. Thậm chí có một thời ấu trĩ, người ta đã chặt đi những bụi tre gai quanh làng với lý do là chúng làm đất bạc màu.Những rặng tre rợp bóng ở đường làng, nghiêng xuống nơi bờ ao không còn mấy nữa. Nhiều người quên mất rằng bao đời tổ tiên người Việt khai phá đồng bằng Bắc Bộ được như ngày hôm nay là do đắp đê chống lụt, trị thuỷ. Những triền đê được giữ vững trước nước lụt, bão tố, ngoài phần công sức của người Việt xưa bao đời bồi đắp, thì còn có phần công sức của những bụi tre có tác dụng giữ đất, chống xói lở.
Bài văn tả cây tre 14
Có nhà thơ đã viết:
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành, tre ơi!
Luỹ tre làng em đẹp lắm. Đứng trên rú Chàng, đứng trên cầu Độ mà ngắm, luỹ tre làng em xanh um một màu. Trời giông bão, cây tre ôm chặt lấy nhau, chở che cho mái đình, mái chùa, bảo vệ cho hàng trăm ngôi nhà. Trời nắng hạn, nóng như nung, lũy tre tỏa bóng mát. Gió thổi, lũy tre phấp phới rung lên, xua đuổi cái nóng, quạt mát cho em nhỏ, cho cụ già. Thời kháng chiến, luỹ tre làng là chiến hào chống càn, là nơi từng phơi đầy xác giặc.
Tre đủ loại. Có tre to để đan lát, làm hàng thủ công, để làm nhà cửa, lều quán. Có tre gai làm cho luỹ làng kiên cố. Mùa xuân, măng tre mập mạp, nhọn hoắt như chông, mọc lên tua tủa. Luỹ tre làng em là nơi trú ngụ của đàn cò, bầy vạc, là nơi trú ngụ của hàng trăm loài chim. Sáng sớm bình minh, chim chóc cất tiếng hót rồi tung cánh bay đi tìm mồi. Trời chập choạng, luỹ tre là tổ ấm cho đàn chim trời hiền lành, đáng yêu kéo về kêu râm ran, tỉ tê trò chuyện.
Bước ra khỏi nhà, khỏi làng, trên đường đi học, em ngoái cổ lại nhìn luỹ tre làng, lòng xôn xao tự hào về nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu. Luỹ tre làng là bến quê của em.
Bài văn tả cây tre 15
"Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh "
Mỗi khi nghe bài thơ ấy, em lại nhớ về những cây tre xanh đầu làng em. Từ khi em còn nhỏ cho đến khi lớn, tre vẫn đứng đó, kiên cường và bất khuất làm sao
Tre từ thuở trước đã được trồng ở đầu làng, nghe ông em kể lại những cây tre ấy có từ thời kháng chiến chống mỹ cho đến tận bây giờ. Em rất tự hào và yêu thích cây tre vô cùng. Cây tre dáng thẳng, thân tròn và nhẵn nhụi một màu xanh . Tre không chịu mọc riêng lẻ, mà mọc từng bụi, giăng thành hàng, thành lũy ngay cạnh cổng làng. Lá tre xanh non, nhỏ, thuôn dài mảnh khảnh nhưng trong nó chứa một sự dẻo dai tràn sức sống. Khi tre chưa lớn , chúng là những mầm non măng mọc thẳng giống hình như cái búp. Những búp măng ấy trở thành biểu tượng cho các cháu nhi đồng chăm ngoan. Dáng tre vươn cao, hơi cong cong ở ngọn, sắc tre tươi, cứng cáp, dẻo dai như người dân Việt Nam xưa vậy. Khi chiều về, những cây tre xanh thân gầy guộc rì rào trong gió như một bản tình ca hoàng hôn thanh bình.
Những cây tre đứng đầu làng, hài hòa với sắc màu cổ kính của mái đình cây đa. Tre như người lính dũng cảm, ngày đêm bảo vệ bình yên cho nhân dân xóm làng. Còn gì đẹp hơn khi màn đêm buông rèm đen huyền ảo, ánh trăng vàng lơ lửng giữa trời đầy sao, thả bóng như tiên nữ giáng trần lả lướt trên từng ngọn tre xanh rì. Tre sống cùng với với nhân dân, cùng nhân dân lao động, tre cùng những anh dân quân xông vào trận chiến, tre xẻ lối đánh tan quân thù. Và khi đất nước bình yên, nhân dân ta bắt tay vào công cuộc đổi mới, tre vẫn thế xanh , xanh mãi một màu tươi mới, phơi phới trong không khí dựng xây của muôn dân. Tre cùng người dân dựng nên những cột nhà vững chắc, thân tre gầy mà dẻo dai, chịu bao mưa nắng vẫn như thường. Tre nứa đan thành rổ, thành rá,... phục vụ cuộc sống sinh hoạt của biết bao người dân Việt.
Tre không chỉ đẹp vì có màu xanh tươi mới. Tre còn đẹp bởi sức sống tiềm tàng, trải qua bao năm tháng nhọc nhằn, tre vẫn đứng đó xếp nên thành nên lũy. Lối sống của tre mang tinh thần của dân tộc ta, đoàn kết một lòng mà đánh đuổi giặc ngoại xâm, một lòng giữ bình yên cho tổ quốc. Tre là nhân chứng lịch sử, chứng kiến bao hy sinh của người lính, tre chứng kiến các anh hết mình hy sinh chiến đấu vì tổ quốc, tre nhìn các anh ngã xuống nơi vùng biên ải xa xôi, tre gầm lên từng khúc độc hành thương nhớ người lính trẻ. Màu tre xanh hòa cùng màu máu đỏ lấp lánh ngôi sao vàng, tre đi cùng năm tháng,khắp mọi miền tổ quốc, nuôi dưỡng biết bao khát vọng bảo vệ tổ quốc. Tre mãi vững bền, tre dù già rồi măng sẽ mọc, những búp măng non mang dáng hình mọc thẳng của cây tre xanh như chông trọc thẳng lên trời, ngay thẳng và kiêu hùng.
Cây tre, một loài cây trở thành biểu tượng cho con người Việt Nam , dân tộc Việt Nam. Mãi chảy trong mình ý chí và quyết tâm phi thường.
Bài văn tả cây tre 16
Mẹ thiên nhiên đã sinh ra vạn vật với bao sự tươi đẹp và kì vĩ. Trong đó thiên nhiên mang trong mình những sự vẻ đẹp ấy, từ hoa lá, chim muông cho đến cây cối. một trong những loài cây đặc biệt đó là cây tre. Dù đi đâu hay ở đâu thì hỉnh ảnh cây tre sẽ không bao giờ bị pai mờ trong tâm tria mỗi người dân Việt Nam.
Chẳng biết từ bao giờ cây tre xuất hiện, chỉ biết nó có từ rất lâu đời và gắn bó với người dân Việt qua hàng ngàn năm lịch sử dân tộc. hình ảnh tre in dấu bao trang lịch sử hào hùng từ dân gian cho đến nay, từ những câu chuyện đánh giặc trong truyền thuyết Thánh Gióng khi xưa.
Tre xuất hiện ở nhiều nơi dù ở đồng bằng hay miền núi. Là loại cây rất dễ sống và không kén chọn đất hay thời tiết mà có thể mọc từng khóm và trở thành lũy tre. Lúc đầu tre còn nhỏ mới mọc thì được gọi là tre nón hay cây măng, một hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trên các huy hiệu đoàn của học sinh trung học. Và cây măng này có thể đem nấu thức ăn hoặc mang bán để kiếm thêm tiền thu nhập trong gia đình. Khi cây tre lớn dần thì có thêm từng đốt một cách từng đột một cách đều nhau càng lên cao thì những đốt càng dài ra.
Theo thời gian lớn lên cây tre càng già sẽ càng thêm cứng cáp và bắt đầu mọc ra những nhánh gai và có những cành và lá. Lá tre mọc thon dài thon dài có màu xanh mơn mởn với những gân lá song song với nhau. Thân cây tre gầy gộc và rỗng ở bên trong nhưng cây tre có một sức sống bền bỉ và bám sát lấy nhau như sức mạnh đoàn kết cho dân tộc
Rễ tre thuộc họ rễ chùm giúp cây bám chắc vào đất hút chất dinh dưỡng cần thiết và chống trọ với những tác động xấu bên ngoài của thời tiết. Chúng ta ai có thể nhìn thấy hoa tre bởi mỗi cây chỉ ra hoa một lần và sau lần ra hoa ấy cây sẽ trở nên già nua và yếu sức sống rồi lụi tàn dần để nhường chỗ cho những cây tre mới mọc ra.
Không những thế cây tre còn có vai trò vô cùng to lớn trong đời sống hàng ngày. Như làm công cụ để phục vụ sản xuất. Như cán cuốc, cán cào, cái chang....đồng thời trong sinh hoạt tre có bóng mát rộng che chắn cái nắng hè oi bức cho người dân sau mỗi giờ làm vất vả. Những chú trâu có thể yên chí gặm cỏ dưới bóng mát của lũy tre mà không thấy mệt mỏi. xưa kia khi chưa có xi măng, cốt thép thì tre chính là chất liệu phổ biến nhất để dựng nhà dựng cửa. Tre còn xuất hiện ngay cả trong những bữa ăn, và đó chính là chiếc đũa phục vụ cho việc ăn uống sạch sẽ và thuận tiện hơn. Người già thì lấy cây tre làm điều cầy để hút thuốc cũng là một thú vui dân gian. Trẻ con thì dùng tre để vót thành những thanh chuyền để chơi từ lâu đã đi vào trong tuổi thơ mỗi người. Có những sản phẩm từ tre ngay cả trong cuộc sống hiện đại ngày nay vẫn còn xuất hiện.
Hình ảnh cây tre đi vào đời sống người dân Việt cả về vật chất lẫn tinh thần. Tre luôn là biểu tượng đáng tự hào của dân tộc Việt. Cho dù có đi xa, đi đến những vùng đất mới thì em mãi vẫn không quên được loài cây giản dị nhưng thiêng liêng đến lạ thường như cây tre.
Lớp 6
Bài văn tả cây tre 17
"Tre xanh xanh tự bao giờ? Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh", đó là câu thơ em vẫn thường nghe ông đọc lúc rảnh rỗi. Phải nói hình ảnh cây tre, lũy tre làng đã gắn bó và ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi con người Việt Nam. Tuy không sinh ra và lớn lên ở làng quê, nhưng em cũng có những ấn tượng sâu sắc về lũy tre làng, bởi mỗi dịp về thăm quê, bước tới đầu làng cái đầu tiên em thấy vẫn là lũy tre xanh tốt đang đung đưa trước gió như chào mời, vẫy gọi.
Tre là loài vốn sống đoàn kết, tựa như cái tinh thần của người dân Việt Nam, tre chẳng thích mọc riêng rẽ trơ trọi một thân một mình bao giờ, mà lúc nào cũng ưa mọc thành hàng, thành lũy, ôm ấp, vun vén cho nhau, tránh khỏi giông bão. Tre mọc thẳng, bao đời nay vẫn thế, thẳng từ lúc tre mới chỉ là cái búp măng bé xíu vừa trồi lên khỏi mặt đất. Đi khắp làng khắp xóm, người ta thấy tre xanh mướt mọc thành lũy kiên cố ở đầu làng như bức tường thành bảo vệ, còn trong giữa xóm làng, cứ thỉnh thoảng lại có một bụi tre mọc, chẳng biết tự bao giờ, rồi trở thành chỗ nghỉ mát cho người đi đường, người làm ruộng về, chỗ vui đùa cho mấy đứa trẻ con, đôi khi còn là nơi nằm nghỉ cho mấy con trâu cày buổi ban trưa.
Tre là loài cây thuộc họ lúa, nhìn bề ngoài trông giống những cây mía xanh ngắt. Một thân tre như vậy mọc cao hết cỡ cũng tầm vài chục mét, mà chẳng ai đi đo đếm được, thân cây gồm nhiều gióng, nhiều ống rỗng ghép lại với nhau bằng các mấu đặc ruột. Cả thân cây mang một màu xanh thẫm, vỏ ngoài sờ vào thấy khá nhẵn nhụi, thân rất cứng và chắc. Trên thân tre còn có cả gai nhưng ít, chủ yếu mọc ra từ chỗ mấu nối. Lá tre nhiều và tập trung hết ở phần ngọn, lá mỏng nhỏ, thuôn dài và hơi nhọn, màu xanh lục, sờ thấy nhám, cạnh sắc nếu không cẩn thận có thể làm đứt tay. Hoa tre thì hiếm ai gặp được, bởi cả một đời, một thân tre chỉ có một lần ra bông, mà tuổi đời của tre lại dài, có khi có người cả đời chẳng thấy bông hoa tre bao giờ, ngay cả bản thân em cũng chỉ mới nghe ông kể mà chưa được thấy.
Tre vốn gắn bó với đời sống của nhân dân Việt Nam từ bao đời nay, tre dựng nhà, làm đồ gia dụng, tre cũng tham gia vào lao động sản xuất, thời kỳ chinh chiến tre lại cũng tham gia chiến đấu. Tre chính là người bạn thân thiết của con người, là biểu tượng của làng quê Việt Nam. Đến nay, tre vẫn mạnh mẽ, mọc khắp làng xóm, vẫn hàng ngày dõi theo bước chân dân tộc Việt Nam. Tre thật đẹp, một vẻ đẹp giản dị, mộc mạc và thủy chung vô cùng.
Em không có nhiều kỷ niệm với lũy tre làng, nhưng trong tâm trí em tre xanh vẫn luôn mang một ý nghĩa đặc biệt, thể hiện tinh thần đoàn kết, bền bỉ của con người Việt Nam ta. Tre cũng lưu giữ những vẻ đẹp đơn sơ, mộc mạc; thiếu lũy tre làng, quê hương Việt Nam bỗng trở nên thiếu vắng hẳn đi một nét đặc trưng, chân chất.
Bài văn tả cây tre 18
Ở nhà nội em có trồng rất nhiều loại cây, nhưng em thích nhất là cây tre, nó mọc lên từng bụi, cho ra rất nhiều cây tre.
Tre mọc thành từng khóm bụi, thân cao vút. Chồi mới mọc gọi là măng, hình tượng măng non đáng yêu cũng dành để chỉ riêng cho lứa tuổi thiếu nhi Việt Nam. Lá tre có hình lưỡi mác, gân lá song song. Hoa tre có sáu nhị, trong cả đời tre chỉ ra hoa một lần, thật ra em chưa hề nhìn thấy hoa tre bao giờ chỉ nghe bà em bảo như thế.
Tre được sử dụng phổ biến trong mọi lĩnh vực đời sống của người Việt từ xa xưa đến tận bây giờ. Khi chưa có gạch ngói, bê tông, tre được dùng để làm nên sườn nha, chỉ có mái lá mới lợp tranh, rạ thôi. Miền quê nội của em, người dân còn dùng tre làm giường, chõng, tủ. Cả đến đôi đũa, rổ rá, nong nia,… cũng làm từ tre.
Cây tre đã trở thành hình ảnh thân thương, gần gũi và là biểu tượng cho phẩm chất của người Việt. Chắc cũng chính vì thế, trên huy hiệu Đội viên Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh có hình ảnh măng tre ngời sáng, và đầy tự hào của thiếu nhi Việt Nam chúng em.
Bài văn tả cây tre 19
“Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”
Mỗi cây một vẻ đẹp riêng, một công dụng riêng. Nhưng gần gũi và thân thuộc nhất với con người Việt Nam vẫn là cây tre, nếu thiếu đi lũy tre già thì không còn là làng quê nữa.
Nhìn từ xa xa, các bạn sẽ thấy lũy tre như bức tuờng thành kiên cố đang bảo vệ bao quanh thôn xóm mình. Nhưng khi bước tới gần mới thấy “thân gầy guộc lá mong manh”, cây tre nhỏ nhắn với thân dài thẳng, được chia thành những đốt nhỏ đều nhau. Thân cây thường có màu xanh thẫm, các đốt thì có màu hơi xanh đậm hơi vàng. Cây tre không đứng riêng lẻ với nhau, mà thường tạo thành từng lũy với cây này tựa cây kia, dựa vào nhau cùng vươn lên bất chấp nắng mưa để đón lấy ánh sớm bình minh. Các nhánh tre thường không mọc trên cao mà mọc ngay gần dưới đất, chúng có rất nhiều gai gồ ghề và thường rất nhỏ. Còn lá tre thì mỏng, nhọn, to chỉ bằng nửa lá xoài mà thôi, tuy lá tre trông mảnh khảnh nhưng rất dẻo dai. Họ nhà tre có đến vài chục loại khác nhau, nhưng cùng một điểm tương đồng, đó là cùng có mầm non măng mọc thẳng. Và tre cũng có hoa đó các bạn, nhưng phải hơn 100 năm nó mới ra hoa một lần. Hoa tre mọc thành từng chùm có màu vàng nhạt. Mùi thơm của hoa tre cũng rất đặc biệt đó ạ!
Xem thêm: Em hãy viết một văn từ 5 - 7 câu miêu tả cảnh thanh bình của một miền quê
Cây tre có nhiều loại, mỗi loại lại mang đến cho chúng ta một công dụng riêng. Có tre to để đan lát, có tre để làm hàng thủ công. Tre còn có thể được sử dụng để làm nhà cửa, lều quán. Tre gai lại là người canh gác giúp cho cho luỹ làng ta trở nên kiên cố.
Nói tóm lại, cây tre đã góp phần tô điểm cho cảnh sắc quê hương. Tre ôm lấy xóm làng, làm phong cảnh làng quê thêm phần duyên dáng, thêm phần thanh bình. Còn gì đẹp hơn những hình ảnh những mái đình, ngôi chùa thấp thoáng dưới bóng tre xanh, ánh trăng vàng treo lơ lửng trên ngọn tre.
Bài văn tả cây tre 20
Truyền thuyết kể rằng Thánh Gióng đã nhổ những cụm tre bên đường bổ vào từng toán giặc Ân xâm lược.Tre đã luôn hiện diện bên người dân Việt chúng ta trong chiến đấu, trong sinh hoạt hằng ngày. Thật khó hình dung khi nói đến cuộc sống người Việt Nam mà thiếu vắng hình ảnh cây tre.
Tre là loài cây mọc ở xứ nóng, vì thế khí hậu nhiệt đới của nước ta là điều kiện lý tưởng cho tre sinh sôi và phát triển. Tre mọc thành từng khóm bụi, thân cao vút. Là loại thân thảo nhưng cây đã hoá mộc, thân tương đối dày, có mấu, ít phân nhánh. Chồi mới mọc gọi là măng, hình tượng măng non đáng yêu cũng dành để chỉ riêng cho lứa tuổi thiếu nhi Việt Nam. Lá tre có hình lưỡi mác, gân lá song song. Hoa tre có sáu nhị, trong cả đời tre chỉ ra hoa một lần, thật ra em chưa hề nhìn thấy hoa tre bao giờ chỉ nghe bà em bảo như thế.
Tre được sử dụng phổ biến trong mọi lĩnh vực đời sống của người Việt từ xa xưa đến tận bây giờ. Khi chưa có gạch ngói, bê tông, tre được dùng để làm nên sườn nha, chỉ có mái lá mới lợp tranh, rạ thôi. Miền quê nội của em, người dân còn dùng tre làm giường, chõng, tủ. Cả đến đôi đũa, rổ rá, nong nia,… cũng làm từ tre. Những gánh hàng rong của các cô, các chị đong đầy những món ăn ngon lành với đòn gánh tre trĩu nặng trên vai là hình ảnh thân quen của người dân từ làng làng quê đến tận phố thị. Kể sao hết những dụng cụ trong đời sống được làm bằng tre.
Tre không chỉ được dùng làm nhà, làm công cụ sản xuất, tre còn trở thành vũ khí chống giặc. Qua từng trang sách sử, hình ảnh gậy tre, chông tre đã từng bao đời góp công chống giặc giữ làng. Luỹ tre chính là những thành trì kiên cố nhất: luỹ ngoài cùng trồng tre gai, gốc to, thân to nhưng ngoằn ngoèo không thẳng, cành rậm đan chéo nhau. Mỗi nhánh tre gai lại có những chiếc gai nhọn hoắt, rất cứng mà những ai bén mảng vào đó cũng e dè sợ vô ý dẫm phải. Luỹ giữa toàn tre hoá, luỹ trong cùng tre óng chuốt vươn thẳng tắp. Luỹ tre làng che chở, bảo vệ cho cuộc sống người dân quê.
Ông em kể, theo y học cổ truyền, lá tre chữa cảm dưới dạng xông hoặc sắc thành thuốc. Em tròn mắt ngạc nhiên trước bao điều mới mẻ từ cây tre thân thuộc mà em được khám phá qua kì nghỉ hè ở quê nội năm đó.
Quả thật, tre đã từ đời sống đi vào truyền thuyết, lịch sử, vào văn thơ, phim ảnh và chắc chắn sẽ sống mãi với người dân Việt Nam. Cây tre đã trở thành hình ảnh thân thương, gần gũi và là biểu tượng cho phẩm chất của người Việt. Chắc cũng chính vì thế, trên huy hiệu Đội viên Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh có hình ảnh măng tre ngời sáng, và đầy tự hào của thiếu nhi Việt Nam chúng em. Hiểu được điều ấy, em càng tự hào là người Đội viên chuyên cần, gương mẫu để xứng đáng mang trong tim phẩm chất cao quý của người dân Việt.
Bài văn tả cây tre 21
Đã từ rất lâu rôi, cây tre là người bạn thân thiết của người nông dân, người nhân dân Việt Nam.Tre có mặt ở khắp mọi miền đất nước. Từ những bụi tre nhỏ bên đường đến luỹ tre thân quen ở làng tôi và đến cả những luỹ tre bạt ngàn ở Đồng Nai, đồng bằng sông Cửu Long. Tre làm bạn với ta ở khắp mọi nẻo đường.
Dáng tre tuy có vẻ khẳng khiu nhưng thân tre luôn mọc thẳng như đức tính của mỗi người luôn sống ngay thẳng. Không chỉ có thế, từng cành tre yếu ớt với những chiếc lá xanh mỏng manh đã cùng thân tre chống chọi với mọi thời tiết khắc nghiệt nhất nhưng tre vẫn có thể vượt qua tất cả để rồi lại tiếp tục kiên cường sống với ý chí và lòng kiên nhẫn như người. Trẻ em ngày xưa đã được ông bà, cha mẹ kể cho những câu chuyện cổ tích xưa hàng ngày để cho chúng đi vào trong hồi ức của lũ trẻ, trong số đó cũng có chuyện Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt đánh giặc. Thánh Gióng vừa vươn vai trở thành người lớn liền cầm roi sắt cưỡi ngựa phi thẳng ra trận. Khi roi sắt đột nhiên gãy, anh đã nhổ bụi tre bên đường làm vũ khí cho mình đánh tan quân giặc. Tại bến sông Bạch Đằng lịch sử, Ngô Quyền đã tiêu diệt mấy chục chiếc thuyền chiến của quân Nam Hán khi đóng cọc tre dưới đáy sông làm đắm tàu giặc. Và còn nhiều chuyện khác đều liên quan đến tre và nhờ tre cùng gắng sức chống quân giặc với nhân dân ta. Từ những vũ khí thô sơ ngày xưa như:giáo, cung, tên,..cũng đều đước làm bằng tre. Cộng đồng của tre cũng như người. Chúng cùng chung sống với nhau hoà bình từng bụi, rồi đại gia đình lớn hơn trở thành luỹ tre dày đặc, cùng bảo bọc cho nhau thể hiện sự đoàn kết gắn bó giữa chúng thất là đáng quý!!!
Luỹ tre đầu làng đã gắn bó với tôi thuở nhỏ. sau khi đã chơi đùa thoả thích, tôi cùng mấy đứa bạn ngồi nghỉ mệt dưới một bụi tre. Cành tre phe phẩy trên đầu chúng tôi như muốn giúp chúng tôi đỡ mệt. Tre không chỉ là thành luỹ chắc chắn của làng mà nó còn xuất hiện thường ngày với đời sống của chúng tôi. Từ ngày mới lọt lòng, trẻ em đã được nằm trong chiếc nôi bằng tre êm ái đung đưa nhẹ nhàng giúp trẻ dễ dàng chìm vào giấc ngủ sâu cùng tiếng ru hời của mẹ. Khi đã lớn hơn một chút, trẻ em có ống sáo tre, trúc làm bạn cùng cất lên những âm thanh vén von, êm ả những khúc nhạc đồng quê giản dị:"con cò là cò bay lả, lả bay la….",làm khoan khoái đôi tai của đàn trâu đang ung dung gặm cỏ. Cái hay của tiếng sáo tre là có thể vang vọng rất xa và tiếng mới trong trẻo làm sao!như tất cả đều là nhờ vật liệu làm ra saó, cây tre. Sau khi đã trưởng thành, mọi người trong mỗi bữa cơm sẽ bắt gặp cách đong gạo bằng rổ tre, cách làm rổ tre cho những việc khác nữa. Đến thứ để gấp thức ăn vào miệng lại chính là chiếc đũa tre. Với tuổi già lại lấy làm vui với chiếc tẩu thuốc bằng tre.Hễ hút thuốc lại thấy khoan khoái cả người. Đến cả khi gần đất xa trời, lại nằm trên chiếc giường tre để an nghỉ. Tre với mọi người, tre chào đón, nâng niu sinh linh mới, tre buồn rũ đưa tiễn người ra đi. Thật là thuỷ chung! Tre bảo bọc cho mỗi người từ nhỏ đến lớn., Thử hỏi xem có đứa trẻ thôn quê nào dám nói là mình không có tình cảm với tre? Đến những chiếc diều giấy tự làm của bọn trẻ cũng có khung làm từ tre. Nhanh nhẹn bắt lấy từng que chuyền đánh chắc bằng tre, trò chơi quen thuộc của các bạn nhỏ. Tre cũng như con người rồi cũng có lúc phải chết nhưng cứ mỗi cây tre ngã xuống sẽ mọc lên một mầm sống mới, đó là măng. Dù có ra đi, tre cũng để lại con của mình với niềm hi vọng chúng sẽ tiếp nối thế hệ cùng hoà đồng, giúp đỡ, che chở cho con người như thế hệ tre đi trước…
Sau này, lớn lên, dù có đi đến bất kì nơi đâu, bất kì cảnh quan tuệt đẹp nào cùng những biểu tượng hoa mĩ đến dường nào, tôi cũng có thể tự tin vỗ ngực nói với bạn bè thế giới rằng:"nới dẹp nhất chính là quê hương tôi. Ở đó, cây tre là biểu tượng, niềm tự hào rực rỡ của dân tộc tôi, quê hương tôi, đất nước tôi, cuộc đời tôi. Cao quý nhưng không mĩ lệ, cây tre Việt Nam!!
Bài văn tả cây tre 22
Nếu ai đó muốn vẽ một bức tranh đẹp về làng quê Việt Nam, hẵn sẽ không quên vài nét chấm phá cho một hàng tre, một khóm trúc. Thật vậy, có thể nói ” cây tre ” là biểu trưng cho làng quê Đất Việt, từ Bắc chí Nam.
Kế Môn quê tôi cũng là một làng quê Việt Nam, mà màu xanh của tre hầu như chiếm lĩnh cả thảm thực vật. Ở đây tre mọc khắp nơi: tre mọc thành hàng ở hai bên đường Xóm, ngọn tre đan vào nhau thành vòm, tre vươn lên từng khóm ở góc vườn, tre ôm ấp mái nhà tranh còn vương vấn khói màu lam.
Nhớ ngày xưa ai đó đã mở đầu bài tập làm văn tả cảnh bằng câu ” Làng tôi có lũy tre bao bọc…”
Lũy tre xanh, khóm tre, vòm tre… là những từ nghe thật êm tai, thật gần gủi và mang nhiều âm vang xào xạc của tiếng gió …
Nếu bạn là nhà thơ, thì cảnh trăng lên sau hàng tre thưa một đêm hè gió nhẹ là có cả một bài thơ tuyệt vời. Nhưng nếu bạn từng chứng kiến cảnh nhìn lên những ngọn tre già đang cúi rạp mình trong giông bão, hẵn sẽ là một nỗi ám ảnh về sức chịu đựng của thiên nhiên.
Tre là loài thực vật luôn vươn thẳng lên cao và sống thật mạnh mẽ, dù trong điều kiện nghèo nàn của thổ nhưỡng như ở dãi đất duyên hải miền Trung. Chỉ cần một gốc tre khiêm tốn lúc ban đầu, qua một thời gian ngắn, tre sẽ phát triển thành khóm, và nếu không khống chế,khóm tre sẽ bành trướng không ngừng và không giới hạn. Hình ảnh thường thấy nhất là bên cạnh những gốc tre già bạn sẽ thấy xuất hiện vài ” búp măng non “.Đó là tính ” kế tục “, một quá trình kế tục không ngừng để vươn lên và phát triển.
Quê Viêt Nam có nhiều giống tre, nhưng ở làng tôi chỉ có hai loại phổ biến, đó là tre gai và tre tầm vông (dân làng tôi gọi là tre hàng giáo). Tre gai có thể cao trên mười mét, thân có nhiều đốt, đường kính gốc có thể lên đến 12 cm,cành tre có nhiều gai, lõi tre đặc chứ không rỗng như loại tre lồ ô. Tre tầm vông nhỏ hơn, cây cao nhất cũng chỉ đến sáu mét, đ ường kính thân nhỏ chỉ chừng từ năm đến sáu cm, đặc biệt rất dễ uốn.
Măng tre là món thích hợp nhất để xáo với thịt các loài họ chim cũng như gà, vịt. Gà xáo măng, vịt xáo măng là món không thể thiếu ở quê tôi trong những bữa cúng giỗ. Đó là món quà đầu tiên của tre tặng cho dân làng.
Nhưng đó chỉ là món quà nhỏ, rất nhỏ. Qùa của cây tre dành cho con người, nhất là người nông dân Việt Nam ngày xưa còn lớn hơn gấp bội.
Ta đều biết trước đây, khi các loại vật liệu xây dựng còn thô sơ và lạc hậu, tre là loại vật liệu chủ đạo để xây nên nhà cửa, đặc biệt là ở miền đồng bằng,nơi không có nhiều gỗ từ cây rừng. Từ cột nhà cho đến kèo, đòn tay, rui mè đều sử dụng tre gai. Vách cũng đan bằng tre trước khi phủ lên một lớp bùn nhào với rơm rạ. Nông dân đều biết, nếu là tre già được ngâm lâu trong bùn, khi đem ra sử
dụng sẽ là loại ” gỗ ” không còn loại mối mọt nào đục phá được.
Vì vậy có một thời, người ta đã dùng tre để đóng cọc làm móng (thay cho cừ tràm như ở miền Nam hiện nay), thậm chí có nơi còn dùng thân tre như cốt lõi để ép bê-tông đà kiềng cho những căn nhà tương đối nhỏ.Chưa kể thời Pháp thuộc, những biệt thự (mà một số còn tồn tại đến ngày nay) thường dùng tre đan trét vôi vữa để làm trần nhà. Trần phẳng và đẹp khiến thoạt nhìn lên có
người cứ ngỡ đó là trần bê – tông hay thạch cao ngày nay vậy.
Về nông và ngư cụ, làng Kế Môn quê tôi ngày xưa là làng nông nghiệp chính hiệu, trong đó hạt lúa làm nên tất cả. Mà để có hạt lúa hạt gạo, củ khoai, củ sắn thì ngoài sức người, các phương tiện sản xuất đóng góp phần chủ lực: gầu tát nước, xuồng nhỏ, các loại thúng, mủng đựng lúa, sàng, dần nốn ( hay nia ) đựng gạo,…rỗ,rá, đúa đựng khoai sắn,…tất cả đều làm bằng tre đan. Cả đến đòn xóc, đòn gánh để gánh lúa gánh gạo, cho đến cái cán cuốc,cán cào, cán rựa…tất cả đều làm từ cây tre.
Chưa nói đến cái cối xay lúa mà phần thân phải đan bằng loại tre già. Ngoài hạt gạo để chi cho đủ mọi thứ, nhiều lúc còn không đủ, bà con dân làng từ già đến trẻ, còn phải tận dụng khai thác các con sông,dòng khe, dòng hói, các đầm, bàu để đánh bắt tôm cá nhằm
cải thiện bữa ăn hàng ngày. Muốn vậy thì các phương tiện đánh bắt (ngư cụ) không thể thiếu: chơm (hay nơm) để nơm cá, đúa dậm để xúc cá, rồi lờ, oi đựng cá,cả đến cần câu các loại đều phải nhờ đến cây tre.
Đó là chưa kể hết những món linh tinh như cái quạt tre chẳng hạn vân vân và vân vân mà không ai có thể kể hết.
Qủa thật đối với người nông dân Việt Nam ngày xưa, không có gì đa dụng và hữu ích bằng cây tre làng. Có thể nói tre là người bạn đã san sẻ khó nhọc với người nông dân một nắng hai sương. Người nông dân nói riêng và xã hội nói chung cần phải xem cây tre như là ân nhân của mình vậy.
Nhưng đó lại là câu chuyện ngày xưa. Hơn nửa thế kỷ qua đi đã mang lại nhiều thay đổi. Khoa học tiến bộ đã khai sinh ra nhiều chất liệu để thay thế dần cây tre trong xây dựng cũng như trong sản xuất nông ngư nghiệp. Vì thế vai trò của cây tre ngày càng giảm đi. Mặt khác, vai trò che chắn,bao bọc của những hàng tre, khóm tre, lũy tre đối với làng xóm như những bức tường tự nhiên ngăn gió ngăn bão, che nắng che mưa, cũng đang dần dần bị loại bỏ.
Ngày nay, bước vào trong xóm, hai bên không còn là hai hàng tre sánh đôi và ngọn tre giao nhau thành vòm như xưa mà nó đang dần dần được thay thế bằng những hàng rào xi măng cứng nhắc và có phần vô cảm. Những con đường làng, đường xóm quê tôi ngày càng tiện dụng nhưng trống trải và xa lạ hơn. Không khí mùa hè ngày càng trở nên oi bức trong khi mùa đông gió bấc thì không gian ngày càng tê buốt lạnh lẽo.
Nhiều lúc tôi hình dung đến một ngày nào đó,cảnh quan kiến trúc của làng tôi, theo đà phát triển, sẽ mang dáng dấp của một ” thị trấn ” với những dãy ” nhà phố ” bên những con đường không còn bóng mát của cây cỏ! Điều gì sẽ xảy ra? Chỉ biết có một điều chắc chắn rằng lúc ấy, bóng dáng cây tre sẽ chỉ còn lại trong ký ức và hoài niệm của mỗi người với bao tiếc nuối không thể nào nguôi …
Bài văn tả cây tre 23
Từ bao đời nay, cây tre đã trở thành biểu tượng của làng quê Việt Nam. Năm xưa, cây tre đã trở thành vũ khí để người anh hùng Thánh Gióng đánh tan giặc ân cứu nước. Ngày nay, cây tre vẫn gắn bó với người dân Việt Nam như một điều không thể thiếu và trở thành biểu tượng của chí khí bất khuất, kiên cường của người Việt Nam.
Thân cây tre trông có vẻ gầy guộc nhưng chúng mọc cao vút lên trời. Nhìn cảm giác như cây tre muốn đâm toạc cả trời xanh. Hình ảnh cây tre khiến em có liên tưởng đến những người chiến sĩ cộng sản Việt Nam khi xưa cũng có dáng đứng kiên cường và bất khuất giống như vậy. Mặc dù gầy guộc nhưng tre không bao giờ mọc riêng lẻ. Chúng mọc với nhau thành từng lũy, tạo thành khối sức mạnh đoàn kết mà không một thế lực nào có thể chia rẽ được. Đó cũng chính là một đức tính tuyệt vời của người dân Việt Nam. Thân cây tre có màu xanh, chúng chia thành nhiều đốt và có lẽ là người Việt Nam không ai là không biết đến truyện cổ tích cây tre trăm đốt.
Lá của tre dài, nhọn và mỏng. Khi những cơn gió trời bay ngang qua, lá tre reo hò trong niềm vui sướng tột đỉnh. Chúng nghiêng mình theo hướng gió và cất vang bài ca của riêng mình. Nhìn lũy tre đầu làng reo vui mỗi buổi chiều tan học em lại thấy cuộc sống này thật tuyệt diệu làm sao. Đôi khi chẳng cần đến những điều phức tạp mới làm nên niềm vui cho con người. Những điều bình dị như thế này cũng là quá đủ để cuộc sống có thêm nhiều ý nghĩa. Đặc biệt là sau những trận bão to, cây tre vẫn hiên ngang như chưa hề có cơ bão nào vừa ngang qua nó.
Bên dưới những bụi tre là những cây măng non đang mọc. Nếu cây tre là biểu tượng của người dân Việt Nam thì búp măng non chính là biểu tượng cho thế hệ học trò chúng em, những chủ nhân tương lai của đất nước. Những búp măng non ấy một ngày sẽ thành những cây tre cao lớn và hiên thang, tiếp tục một vòng tuần hoàn của sự sống.
Mỗi chiều đi học về, chúng em đều đi qua lũy tre đầu làng. Thường thường, chúng em đều vẫy tay chào lũy tre giống như chào một người bạn của mình. Những ngày cuối tuần, chúng em cũng thường chơi xung quanh gốc tre. Nào là bịt mắt bắt dê, nào là ô ăn quan. Chỉ là những trò chơi dân gian thông thường và chơi ở đâu cũng được nhưng không hiểu vì lý do gì mà chúng em chỉ thích chơi dưới lũy tre này thôi. Ở đây dù trời có nắng mấy thì cũng thành dâm mát bởi lũy tre đã che hết cái nắng gắt của mặt trời đi rồi. Cứ như vậy, từng ngày, từng ngày cây tre đã chứng kiến tuổi thơ của chúng em, chứng kiến sự đổi thay của làng quê em. Đối với chúng em, lũy tre chính là một kho báu.
Tre có ích với người dân Việt Nam lắm nhé. Thân tre thì có thể dùng làm đũa, làm bàn ghế, làm phên rách, làm cột nhà,… Người ta còn dùng tre để làm bè qua sông. Nếu “kể công” thì có lẽ chẳng thể nào kể hết được những lợi ích của cây tre Việt Nam. Chỉ biết rằng cây tre còn thì người Việt còn, người Việt còn thì nước Việt còn.
Bây giờ đây khi Việt Nam đang trên đà hội nhập, có rất nhiều những ngôi nhà cao tầng mọc lên san sát nhau. Quê hương em cũng vậy, đời sống của người dân khấm khá lên cũng là nhờ có những cây tre này. Vì vậy mà những bụi tre không bao giờ bị người dân phá bỏ. Yêu lắm cây tre của con người Việt Nam.
Bài văn tả cây tre 24
Tả cây tre – Làng quê Việt Nam thì hình ảnh cây tre chính là một hình ảnh quen thuộc và nó như trở thành một biểu tượng cho người dân Việt tự bao đời nay. Và cho dù quê em có muôn ngàn cây lá khác nhau, mỗi một loại cây lại có những nét đẹp riêng nhưng em vẫn thích cây tre nhất bởi nó thật thân thuộc và cũng thật gần gũi biết bao nhiêu.
Khi được quan sát cây tre thì cũng thật dễ nhận ra được rằng, cây tre có được một dáng thẳng, thân tròn. Tre cũng đã đứng thành bụi, đồng thời cũng như đã giăng thành hàng, thành lũy bao bọc cho làng thật chắc chắn. Nhớ những năm tháng chiến tranh ngày xưa ông cha ta cũng đã dùng tre làm vũ khí để đánh đuổi giặc ngoại xâm. Chắc hẳn ai trong chúng ta vẫn còn sẽ nhớ mãi truyền thuyết Thánh Gióng cũng đã nhổ trên hai bên đường mà đánh giặc.
Những chiếc lá tre nhìn cũng thật mỏng, nhọn, hơi dài một chút, đã vậy thì trông mảnh khảnh và nhỏ nhắn biết bao nhiêu. Nhưng đừng vì nhìn mỏng manh mà co thể coi thường nhé, những chiếc lá tre thật dẻo dai, nếu như không may cũng sẽ bị lá tre mỏng manh này làm bị thương. Ở trong họ nhà tre lại được biết đến cũng lại đã có mấy chục loại khác nhau. Tên gọi khác đó nhưng cùng một điểm tương đồng giống nhau, sự giống nhau đó là cùng có mầm nọn măng mọc thẳng tắp lên trời cao và có rất nhiều đốt tre. Em như nhận thấy được chính cái dáng tre vươn cao, có chiều hơi hơi quằn ở ngọn. Và đặc biệt hơn em nhìn thấy được màu tre tươi thật là nhã nhặn biết bao nhiêu.
Vào những buổi trưa hè những bác nông dân đã quá giờ nghỉ trưa để cày cho xong thửa ruộng rồi lại ngồi dưới rặng tre để nghỉ ngơi. Những cơn gió như cứ vi vu thởi qua thổi lại, lá tre như cứ xào xạc và thật khiến cho bác nông dân dễ đi vào giấc ngủ sau một buổi cày ruộng đã thấm mệt. Thế rồi những cậu bé thả diều như cũng đã tìm đến gốc tre để có thể mà nghỉ ngơi, phóng tầm mắt ra xa để nhìn ngắm cánh diều. Thực sự em như thấy được hình ảnh lũy tre làng đã góp phần tô điểm cho cảnh sắc quê hương em. Cảnh còn gì đẹp hơn cảnh sắc của đất trời vào mỗi buổi bình minh hay chiều tà, khi mà mặt trời cứ lấp ló sau rặng tre.
Hình ảnh những cây tre như rất đỗ bình dị, cây tre dường như cũng đã lại ôm ấp xóm làng. Thực sự cây tre làm cho phong cảnh làng quê thêm duyên dáng, thanh bình hơn. Cùng với những cánh cò trắng bay đi bay lại thì hình ảnh cây tre cũng chính là một trong những hình ảnh thân thuộc và gắn bó với người dân quê với thiên nhiên thanh bình. Chúng ta bết đó, cũng sẽ chẳng còn gì đẹp hơn hình ảnh những mái đình, hay đó là hình ảnh ngôi chùa cổ thấp thoáng dưới bóng tre xanh. Mọi thứ hiện ra như cũng thật thanh bình bết bao nhiêu. Khi màn đêm buông xuống, ánh trăng như cứ lơ lửng và ngọn tre như đang uốn câu kéo ánh trăng vàng lơ lửng lên thật cao.
Thực sự tre dường như cũng không chỉ đẹp đơn thuần là màu xanh cây lá. Tre cũng không chỉ đẹp là cái dáng nghiêng nghiêng ôm ấp xóm thôn mà vẻ đẹp của tre còn là sự cần cù, chất phác như câu thơ:
Cánh đồng ta năm đôi ba vụ
Tre với người vất vả quanh năm.
Cây tre Việt Nam – Thép Mới
Cây tre chính là người bạn của nhà nông. Tre cũng đã có thể giúp người làm cột, làm kèo, đan phên nứa để dựng vách, làm sườn nhà… re như hiện diện trong đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dan Việt Nam. Chính vì thế mà cây tre luôn luôn có vị trí quan trọng với quê hương Việt.
Cây tre thật đẹp đồng thời cũng thật có ích biết bao nhiêu. Nhờ sự cần cù của cây tre như sống ở nơi đất khô cằn nhưng vẫn bám trụ mà xanh mướt. Cây tre chính là người bạn thân thiết và là biểu tượng sáng ngời cho người nông dân Việt Nam xua và nay.
Bài văn tả cây tre 25
Tre có rất nhiều loại và được trồng rất nhiều nơi ở miền núi và đồng bằng. Vì là loại cây dễ trồng và dễ sống nên tre dễ mọc thành từng khóm và trở thành lũy tre. Khi cây con nhỏ mới mọc từ dưới đất lên được gọi là măng và có thể ăn được. Theo thời gian cây lớn dần mọc thêm nhiều đốt, nhánh gai và cành lá.
Lá tre mọc thon dài có màu xanh với những gân lá song song với nhau. Thân gầy guộc và rỗng bên trong nhưng lại rất chắc chắn và bền bỉ. Rễ của nó mọc thành chùm bám chắc vào đất để chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Nhân dân ta có câu “tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nha tranh,…”. Nên ta có thể bắt gặp những lũy tre ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam nhất là các làng quê.
Không những thế loài cây này còn có vai trò vô cùng lớn trong đời sống hàng ngày. Như để che nắng che mưa, làm các vật dụng để phục vụ sinh hoạt hay sản xuất hàng ngày.
Hình ảnh cây tre luôn là biểu tượng đáng tự hào của dân tộc ta. Tre là nhân chứng lịch sử, giúp chúng ta hiểu được sức mạnh của sự đoàn kết gắn bó với nhau. Dù ở đâu chúng ta vẫn luôn thấy bóng dáng sừng sững và tươi tốt của cây tre.