Em hãy kể tóm tắt 1 câu chuyện về gia đình và thời niên thiếu (hồi nhỏ) của Bác Hồ kính yêu
2 câu trả lời
Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời thơ ấu tên là Nguyễn Sinh Cung (1), sinh ngày 19-5-1890, tại quê ngoại là làng Hoàng Trù (còn gọi là làng Trùa), xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An), trong một gia đình nhà Nho, nguồn gốc nông dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời thơ ấu tên là Nguyễn Sinh Cung (1), sinh ngày 19-5-1890, tại quê ngoại là làng Hoàng Trù (còn gọi là làng Trùa), xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An), trong một gia đình nhà Nho, nguồn gốc nông dân.
Cha của Người là Nguyễn Sinh Sắc (Nguyễn Sinh Huy), sinh năm 1862, mất năm 1929, quê ở làng Kim Liên (thường gọi là làng Sen) cùng thuộc xã Chung Cự, nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông Nguyễn Sinh Sắc xuất thân từ gia đình nông dân, mồ côi cha mẹ sớm, từ nhỏ đã chịu khó làm việc và ham học. Vì vậy, ông được nhà Nho Hoàng Xuân Đường ở làng Hoàng Trù xin họ Nguyễn Sinh đem về nuôi. Là người ham học và thông minh, lại được nhà Nho Hoàng Xuân Đường hết lòng chăm sóc, dạy dỗ, ông thi đỗ Phó bảng và sống bằng nghề dạy học. Đối với các con, ông Sắc giáo dục ý thức lao động và học tập để hiểu đạo lý làm người. Khi còn trẻ, như nhiều người có chí đương thời, ông dùi mài kinh sử, quyết chí đi thi. Nhưng càng học, càng hiểu đời, ông nhận thấy: “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ”, nghĩa là “Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn”. Do đó, sau khi đỗ Phó bảng, được trao một chức quan nhỏ, nhưng vốn có tinh thần yêu nước, khẳng khái, ông thường chống đối lại bọn quan trên và thực dân Pháp. Vì vậy, sau một thời gian làm quan, ông bị chúng cách chức và thải hồi. Ông vào Nam Bộ làm thầy thuốc, sống cuộc đời thanh bạch cho đến lúc qua đời.
Mẹ của Người là Hoàng Thị Loan, sinh năm 1868, mất năm 1901, là một phụ nữ cần mẫn, đảm đang, đôn hậu, sống bằng nghề làm ruộng và dệt vải, hết lòng thương yêu và chăm lo cho chồng con.
Chị của Người là Nguyễn Thị Thanh, còn có tên là Nguyễn Thị Bạch Liên, sinh năm 1884, mất năm 1954. Anh của Người là Nguyễn Sinh Khiêm, còn có tên là Nguyễn Tất Đạt, sinh năm 1888, mất năm 1950. Em của Người là bé Xin, sinh năm 1900, vì ốm yếu nên sớm qua đời. Các anh chị của Người lớn lên đều chịu ảnh hưởng của ông bà, cha mẹ, chăm làm việc và rất thương người, đều là những người yêu nước, đã tham gia phong trào yêu nước và bị thực dân Pháp và triều đình phong kiến bắt bớ tù đày.
Từ lúc ra đời đến tuổi lên 5, Nguyễn Sinh Cung sống ở quê nhà trong sự chăm sóc đầy tình thương yêu của ông bà ngoại và cha mẹ, lớn lên trong truyền thống tốt đẹp của quê hương, hiếu học, cần cù trong lao động, tình nghĩa trong cuộc sống và bất khuất trước kẻ thù. Nguyễn Sinh Cung ham hiểu biết, thích nghe chuyện và hay hỏi những điều mới lạ, từ các hiện tượng thiên nhiên đến những chuyện cổ tích mà bà ngoại và mẹ thường kể.
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng với gia đình chuyển vào Huế lần thứ nhất, khi ông Nguyễn Sinh Sắc vào Kinh thi hội. Từ cuối năm 1895 đến đầu năm 1901, Nguyễn Sinh Cung sống cùng cha mẹ tại Huế, ở nhờ nhà một người quen ở trong thành nội (nay là số nhà 112, đường Mai Thúc Loan). Đó là những năm tháng gia đình ông Sắc sống trong cảnh gieo neo, thiếu thốn. Bà Hoàng Thị Loan làm nghề dệt vải, còn ông Sắc ngoài thời gian học, phải đi chép chữ thuê để kiếm sống, để học và dự thi.
Năm 1898, ông Nguyễn Sinh Sắc dự thi hội lần thứ hai nhưng vẫn không đỗ. Cuộc sống gia đình càng thêm chật vật khó khăn. Gần cuối năm 1898, theo lời mời của ông Nguyễn Sĩ Độ, ông Nguyễn Sinh Sắc về dạy học cho một số học sinh ở làng Dương Nỗ, tại ngôi nhà của ông Nguyễn Sĩ Khuyến (em trai ông Nguyễn Sĩ Độ), xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, cách thành phố Huế 6 km. Nguyễn Sinh Cung cùng anh theo cha về đây và bắt đầu học chữ Hán tại lớp học của cha.
Cuối năm 1900, ông Nguyễn Sinh Sắc được cử đi coi thi ở trường thi hương Thanh Hoá. Ông đưa Nguyễn Sinh Khiêm đi cùng, còn Nguyễn Sinh Cung thì về sống với mẹ trong nội thành Huế. Bà Loan sinh bé Xin trong hoàn cảnh khó khăn túng thiếu nên lâm bệnh và qua đời. Chẳng bao lâu sau, bé Xin quá yếu cũng theo mẹ. Mới 11 tuổi Nguyễn Sinh Cung đã chịu nỗi đau mất mẹ và em.
Hơn 5 năm sống ở kinh thành Huế, Nguyễn Sinh Cung thấy được nhiều điều mới lạ. So với quê hương xứ Nghệ, Huế có nhiều nhà cửa to đẹp, nhiều cung điện uy nghiêm. Nguyễn Sinh Cung cũng thấy ở Huế có nhiều lớp người, những người Pháp thống trị nghênh ngang, hách dịch và tàn ác; những ông quan Nam triều bệ vệ trong những chiếc áo gấm, hài nhung, mũ cánh chuồn, nhưng khúm núm rụt rè; còn phần đông người lao động thì chịu chung số phận đau khổ và tủi nhục. Đó là những người nông dân rách rưới mà người Pháp gọi là bọn nhà quê, những phu khuân vác, những người cu ly kéo xe tay, những trẻ em nghèo khổ, lang thang trên đường phố... Những hình ảnh đó đã in sâu vào ký ức của Nguyễn Sinh Cung.
Được tin vợ qua đời, ông Nguyễn Sinh Sắc vội trở lại Huế, đưa con về quê. Sau khi thu xếp cuộc sống cho các con, được sự động viên của bà con trong họ ngoài làng, ông Nguyễn Sinh Sắc lại vào Huế dự kỳ thi hội năm Tân Sửu. Lần này đi thi ông mang tên mới là Nguyễn Sinh Huy.
Tháng 5-1901, ông Nguyễn Sinh Huy đậu Phó bảng khoa thi hội Tân Sửu. Khoảng tháng 9-1901, Nguyễn Sinh Cung cùng gia đình chuyển về sống ở quê nội. Ông Nguyễn Sinh Huy làm lễ vào làng cho hai con trai với tên mới là Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung).
Tại quê nhà, Nguyễn Tất Thành được gửi đến học chữ Hán với các thầy giáo Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý và sau là thầy Trần Thân. Các thầy đều là những người yêu nước. Nguyễn Tất Thành được nghe nhiều chuyện qua các buổi bàn luận thời cuộc giữa các thầy với các sĩ phu yêu nước. Nguyễn Tất Thành dần dần hiểu được thời cuộc và sự day dứt của các bậc cha chú trước cảnh nước mất, nhà tan. Trong những người mà ông Sắc thường gặp gỡ có ông Phan Bội Châu. Giống như nhiều nhà Nho yêu nước lúc bấy giờ, Phan Bội Châu cũng day dứt trước hiện tình đất nước và số phận của dân tộc. Con người nhiệt huyết ấy trong lúc rượu say vẫn thường ngâm hai câu thơ của Viên Mai:
“Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương”.
Nghĩa là:
“Mỗi bữa (ăn) không quên ghi sử sách,
Lập thân hèn nhất ấy (là) văn chương”.
Câu thơ đã tác động nhiều đến Nguyễn Tất Thành và góp phần định hướng cho người thiếu niên sớm có hoài bão lớn.
Lớn dần lên, càng đi vào cuộc sống của người dân địa phương, Nguyễn Tất Thành càng thấm thía thân phận cùng khổ của người dân mất nước. Đó là nạn thuế khoá nặng nề cùng với việc nhân dân bị bắt làm phu xây dựng đường trong tỉnh, làm đường từ Cửa Rào, đi Xiêng Khoảng (Lào) nơi rừng thiêng nước độc. Những cuộc ra đi không có ngày về, nhân dân lầm than, ai oán.
Mùa xuân năm 1903, Nguyễn Tất Thành theo cha đến xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An và tiếp tục học chữ Hán. Tại đây Nguyễn Tất Thành lại có dịp nghe chuyện thời cuộc của các sĩ phu đến đàm đạo với cha mình.
Cuối năm 1904, Nguyễn Tất Thành theo cha sang làng Du Đồng, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, khi ông Sắc đến đây dạy học. Ngoài thời gian học tập, Nguyễn Tất Thành thường theo cha đến các vùng trong tỉnh như làng Đông Thái, quê hương của Phan Đình Phùng, thăm các di tích thành Lục niên, miếu thờ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, v.v..
Tháng 7-1905, Nguyễn Tất Thành theo cha đến huyện Kiến Xương, Thái Bình, trong dịp ông Nguyễn Sinh Sắc đi gặp các sĩ phu ở vùng đó.
Khoảng tháng 9- 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được ông Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh. Chính tại ngôi trường này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên được tiếp xúc với khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái.
Những chuyến đi này giúp Nguyễn Tất Thành mở rộng thêm tầm nhìn và tầm suy nghĩ. Anh nhận thấy ở đâu người dân cũng lam lũ đói khổ, nên dường như trong họ đang âm ỉ những đốm lửa muốn thiêu cháy bọn áp bức bóc lột thực dân phong kiến. Trước cảnh thống khổ của nhân dân, anh đã sớm “có chí đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng bào”.
Sau nhiều năm lần lữa việc đi làm quan, cuối tháng 5-1906, ông Nguyễn Sinh Huy vào kinh đô nhậm chức. Nguyễn Tất Thành và anh trai cùng đi theo cha. Vào Huế, Nguyễn Tất Thành cùng với anh trai được cha cho đi học Trường tiểu học Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên, lớp dự bị (cours préparatoire, tháng 9-1906); lớp sơ đẳng (cours élémentaire, tháng 9-1907).
Ở Huế, lần này xảy ra một sự kiện đáng ghi nhớ trong cuộc đời của Nguyễn Tất Thành. Tháng 4-1908, anh tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân tỉnh Thừa Thiên, khởi đầu cho cuộc tranh đấu suốt đời Người vì quyền lợi của nhân dân lao động. Vì những hoạt động yêu nước, tham gia cuộc đấu tranh của nông dân, Nguyễn Tất Thành bị thực dân Pháp để ý theo dõi. Ông Nguyễn Sinh Huy cũng bị chúng khiển trách vì đã để cho con trai có những hoạt động bài Pháp.
Tuy nhiên, tháng 8-1908, Nguyễn Tất Thành, với tên gọi Nguyễn Sinh Côn, vẫn được ông Hiệu trưởng Quốc học Sukê (Chouquet) tiếp nhận vào học tại trường. Tháng 9-1908, Nguyễn Tất Thành vào lớp trung đẳng (lớp nhì) (cours moyen) tại Trường Quốc học Huế.
Trong thời gian học tại Trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc nhiều với sách báo Pháp. Các thầy giáo của Trường Quốc học Huế có người Pháp và cả người Việt Nam, cũng có những người yêu nước như thầy Hoàng Thông, thầy Lê Văn Miến. Chính nhờ ảnh hưởng của các thầy giáo yêu nước và sách báo tiến bộ mà anh được tiếp xúc, ý muốn đi sang phương Tây tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi những thành tựu của văn minh nhân loại từng bước lớn dần trong tâm trí của Nguyễn Tất Thành. Cùng thời gian đó, Nguyễn Tất Thành còn được nghe kể về những hành động của những ông vua yêu nước như Thành Thái, Duy Tân và những bàn luận về con đường cứu nước trong các sĩ phu yêu nước.
Khoảng tháng 6-1909, Nguyễn Tất Thành rời Trường Quốc học Huế theo cha vào Bình Định, khi ông được bổ nhiệm chức Tri huyện Bình Khê. Trong thời gian ở Bình Khê, Nguyễn Tất Thành thường được cha dẫn đi thăm các sĩ phu trong vùng và thăm di tích lịch sử vùng Tây Sơn.
Cuối năm 1909, Nguyễn Tất Thành được cha gửi học tiếp chương trình lớp cao đẳng (lớp nhất - cours supérieur), tại Trường tiểu học Pháp - Việt Quy Nhơn. Ông Nguyễn Sinh Sắc hiểu khả năng và chí hướng người con trai thứ của mình nên đã tạo điều kiện cho anh được tiếp tục học lên.
Tháng 6-1910, Nguyễn Tất Thành hoàn thành chương trình tiểu học. Sau khi nghe tin cha bị cách chức Tri huyện Bình Khê, bị triệu hồi về Kinh, anh không theo cha trở về Huế mà quyết định đi tiếp xuống phía Nam. Trên đường từ Quy Nhơn vào Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành dừng chân ở Phan Thiết. Ở đây anh xin vào làm trợ giáo (moniteur), được giao dậy một số môn, đồng thời phụ trách các hoạt động ngoại khoá của Trường Dục Thanh, một trường tư thục do các ông Nguyễn Trọng Lội và Nguyễn Quý Anh (con trai cụ Nguyễn Thông, một nhân sĩ yêu nước) thành lập năm 1907. Ngoài giờ lên lớp, Nguyễn Tất Thành tìm những cuốn sách quý trong tủ sách của cụ Nguyễn Thông để đọc. Lần đầu tiên anh được tiếp cận với những tư tưởng tiến bộ của các nhà khai sáng Pháp như Rútxô (Rousseau), Vônte (Voltair), Môngtétxkiơ (Montesquieu). Sự tiếp cận với những tư tưởng mới đó càng thôi thúc anh tìm đường đi ra nước ngoài.
Tháng 2-1911, Nguyễn Tất Thành rời Phan Thiết vào Sài Gòn. Anh ở tạm tại trụ sở các chi nhánh của Liên Thành công ty đặt tại Sài Gòn, như nhà số 3, đường Tổng đốc Phương (nay là số 5, đường Châu Văn Liêm); nhà số 128, Khánh Hội. Ở Sài Gòn một thời gian ngắn, anh thường đi vào các xóm thợ nghèo, làm quen với những thanh niên cùng lứa tuổi. Ở đâu anh cũng thấy nhân dân lao động bị đọa đày, khổ nhục. Nguyễn Tất Thành cũng hay đến những cửa hàng ở gần cảng Sài Gòn, nơi chuyên nhận giặt là quần áo cho các thủy thủ trên tàu Pháp, để tìm cách xin việc làm trên tàu, thực hiện ước mơ có những chuyến đi xa.
Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lăng và đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Nhân dân bị nô lệ, đói khổ, lầm than. Quê hương có truyền thống đấu tranh anh dũng, chống giặc ngoại xâm. Thời gian 10 năm sống ở Kinh đô Huế - trung tâm văn hóa, chính trị của đất nước, tiếp xúc với nền văn hóa mới, với phong trào Duy Tân, đã cho Nguyễn Tất Thành nhiều hiểu biết mới. Nhìn lại các phong trào yêu nước như phong trào Cần Vương, mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do cụ Phan Đình Phùng lãnh đạo; Phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu; Phong trào Đông Kinh nghĩa thục; cuộc khởi nghĩa Yên Thế do cụ Hoàng Hoa Thám lãnh đạo; cuộc vận động cải cách của cụ Phan Châu Trinh và phong trào chống thuế của nông dân Trung Kỳ, Anh rất khâm phục và coi trọng các bậc tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành không đi theo con đường đó. Thực tiễn thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt ra nhiều câu hỏi và tác động đến chí hướng của Nguyễn Tất Thành, để rồi anh có một quyết định chính xác và táo bạo là xuất dương tìm đường cứu nước.
Sau khi đậu cử nhân ở quê nhà Nghệ An, ông Nguyễn Sinh Sắc vào Huế dự kỳ thi Hội năm Ất Mùi 1895. Kỳ thi này bảng vàng chưa ghi tên Nguyễn Sinh Sắc. Được sự giúp đỡ của ông Cao Xuân Dục - Tế tửu Quốc sử quán, Nguyễn Sinh Sắc về quê đưa vợ con vào Huế tiếp tục học để dự kỳ thi Hội lần sau. Nguyễn Sinh Sắc đưa vợ và hai con trai Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung (tên của Bác Hồ thời niên thiếu) vào Huế, để lại người con gái cả ở quê nhà. (Ba người con của Ông bà Nguyễn Sainh Sắc và Hoàng Thị Loan lúc đó là Nguyễn Thị Thanh (người ta hay nói chữ là thanh bạch), Nguyễn Sinh Khiêm (khiêm tốn), và Nguyễn Sinh Cung (cung kính). Lần vào Kinh đô này, gia đình đã ở lại đây 6 năm, từ 1895 đến 1901. Ở Huế, nhờ sự tác động của ông Cao Xuân Dục, Nguyễn Sinh Sắc được vào học Trường Giám, có chút học bổng, ngoài giờ học ông phải đi chép thuê để nuôi gia đình. Thêm vào đó bà Hoàng Thị Loan vừa chăm sóc con, vừa làm thêm nghề dệt vải.
Vào năm Mậu Tuất 1898, Nguyễn Sinh Sắc tham gia kỳ thi Hội ở Huế lần thứ hai nhưng vẫn không đỗ. Bao nhiêu hy vọng vào thi cử thành mây khói. Thi không đậu Nguyễn Sinh Sắc mất luôn học bổng ở Trường Giám. Đời sống kinh tế trong gia đình suy sụp. Giữa lúc đó, ở làng Dương Nỗ, cách Huế 6 km về phía Đông, học trò trong làng đang cần chữ. Ông Nguyễn Viết Chuyên, là người cùng quê với ông Sắc làm việc ở Bộ Hình giới thiệu Nguyễn Sinh Sắc về dạy học. Đang lúc buồn vì thi hỏng, lại khó khăn về miếng cơm manh áo, anh cử Nguyễn Sinh Sắc đã nhận lời. Và cuối năm Mậu Tuất 1898 đó, anh để lại người vợ ở Thành Nội và đưa hai con trai về làng Dương Nỗ. Đã phải sống xa với bà ngoại và chị gái ở quê nhà, nay Nguyễn Sinh Cung lại phải sống xa mẹ.
Nghe tin anh cử Sắc về dạy học, dân làng Dương Nỗ và các làng xung quanh đều xin cho con học rất đông. Hai anh em Khiêm và Cung cũng học cùng. Ở đây Cung bắt đầu học chữ Hán. Một hôm, có người đem con đến xin học, thấy hai người con, thầy ngồi bên cạnh liền hỏi: Bẩm thầy, vì sao hai cậu không ở trên thành nội với mẹ mà lại theo thầy về đây? Thầy cử Sắc cười, thầy chỉ vào hai người con và nói đùa rằng: Thằng này là thằng Khơm (tức Khiêm), thằng này là thằng Côông (Tức Cung), Khơm, Côông là không cơm, nên bầy tui đi mô thì đem đi nấy để nhờ gia chủ nuôi. Đó là một sự thật vừa khôi hài, vừa xót xa, chua chát.
Chuyện kể lại rằng, thời gian học ở Dương Nỗ, Nguyễn Sinh Cung học rất thông minh, nhớ rất giỏi nhưng hiếu động, hay bỏ lớp đi chơi lang thang hoặc đi chơi với trẻ chăn trâu. Thấy Cung thông minh và có trí nhớ, các học trò đều tin rằng cậu sẽ đỗ đạt, cha mẹ cậu sẽ được giàu sang, xóm làng sẽ được tiếng hiển vinh. Nhưng Cung thì không thích như thế, hàng ngày cậu hay chốn học đi chơi. Thấy cái gì thích thì cậu học. Cậu thường ra sông tắm mát, hay xuống quét lá rồi nằm ngủ trưa trên cái bệ trước am Bà ở làng phố Nam; Thích nghe kể chuyện đào sông Phổ Lợi (là một con sông đào lớn ở Huế được đào dưới thời Minh Mạng, hoàn thành vào năm 1836. Con sông đã được khắc hình trên Cửu đỉnh ở Huế-TG); chuyện các họ được thờ trong ngôi nhà thờ 7 gian; chuyện làm đình Dương Nỗ. Một hôm, thấy Cung đang hỏi chuyện một chị buôn bán ngoài chợ, bạn rủ về, Cung nói: Các anh về học sau này thi đỗ ra làm quan… còn tôi thì chỗ nào thích tôi học.
Nhiều hôm sau giờ học, từ Dương Nỗ, hai anh em Khiêm và Cung rủ nhau về thăm mẹ. Mỗi lần về, hai cậu mang theo một chút lộc của cha có vài chén rượu nếp, năm ba quả trứng gà. Thăm mẹ xong, hai anh em lại đi bộ trở về Dương Nỗ, bất kỳ trời mưa hay đã muộn bởi vì sáng sớm hôm sau đi học, cũng còn vì nếu ở lại không có cái ăn.
Ba cha con ở Dương Nỗ từ năm Mậu Tuất 1898 đó cho đến mùa hè năm 1900, khi cử nhân Nguyễn Sinh Sắc được cử đi coi thi ở Trường thi Hương Thanh Hóa. Một điều đáng nhớ là khi đi coi thi, ông Nguyễn Sinh Sắc đem theo người con trai lớn Nguyễn Sinh Khiêm, còn Nguyễn Sinh Cung ở lại với mẹ và người em trai Nguyễn Sinh Xin mới sinh còn nhỏ. Một biến cố lớn đã đến với gia đình trong lần chia tay này. Đó là sức khỏe của bà Hoàng Thị Loan vì sinh thêm đứa con trong hoàn cảnh túng thiếu nên đã lâm bệnh và bà đã qua đời. Sau đó bé Xin vì khát sữa mẹ, quá yếu và cũng đi theo mẹ. Mẹ và em mất khi cha và anh vắng nhà. Ngôi nhà nhỏ trong thành nội ngập trong đau thương, nỗi đau ấy Nguyễn Sinh Cung phải chịu gấp bội phần vì chỉ có một mình không có người ruột thịt bên cạnh.
Trở lại Huế sau khi chấm thi xong, ông Nguyễn Sinh Sắc đem theo các con về Nghệ An. Thời kỳ ở Huế lần thứ nhất này, trong ký ức của tuổi thơ Nguyễn Sinh Cung là những gánh chịu tình cảnh hết sức éo le. Mẹ và em mất, Nguyễn Sinh Cung đã sống trong sự đùm bọc yêu thương của bà con lối xóm. Thêm nữa, so với quê hương xứ Nghệ thì ở Kinh thành Huế có nhiều nhà cửa to đẹp, nhiều cung điện uy nghiêm. Ở Huế, Nguyễn Sinh Cung cũng thấy có nhiều lớp người, những người Pháp thống trị nghênh ngang, hách dịch và tàn ác; những ông quan Nam triều bệ vệ trong những chiếc áo gấm, hài nhung, mũ cánh chuồn nhưng lại khúm núm, rụt rè. Phần đông người lao động thì chịu chung số phận đau khổ và tủi nhục. Họ là những người nông dân rách rưới mà người Pháp gọi là bọn nhà quê, những phu khuân vác, những người cu ly kéo xe tay, những trẻ em nghèo khổ, lang thang trên đường phố… Những hình ảnh đó đã in sâu vào ký ức Nguyễn Sinh Cung. Đó chắc chắn là những nhân tố góp phần hình thành nhân cách và quyết định đúng đắn của Nguyễn Tất Thành sau này.
Riêng ở Dương Nỗ, tuy sống ở đó không dài, chỉ hơn hai năm so với 10 năm cùng gia đình sống ở Huế. Nhưng sau này, khi gặp các cán bộ Thừa Thiên Huế, Bác vẫn nhắc nhớ về ngôi đình làng Dương Nỗ, Bến Đá, Am Bà và những nơi Người thường lui tới thời ấu thơ.
Vẫn sẽ còn nhiều điều phải tìm hiểu về thời kỳ gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Huế. Như cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói trong Bức điện gửi Hội thảo khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh tại Thừa Thiên Huế năm 1993: “Bác Hồ là một con người lạ lùng, một cuộc đời lạ lùng, với những hoạt động lạ lùng, đưa đến những thành tựu lạ lùng. Chính cái lạ lùng đó đã tạo nên sự huyền bí về một vĩ nhân trong lịch sử dân tộc mà chúng ta và con cháu mai sau vẫn mãi tìm tòi, suy ngẫm. Bởi vậy nhiều nhà nghiên cứu có tên tuổi trong và ngoài nước, nhiều chương trình cấp quốc gia đã đi sâu vào việc tìm hiểu con người và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng còn nhiều vấn đề chưa giải quyết thỏa đáng. Một trong những vấn đề chưa thỏa đáng đó là thời gian Bác Hồ sống ở Huế…với thời gian và cảnh vật của nó đã ảnh hưởng như thế nào đến sự hình thành con người Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh.”
Chúng ta biết sau khi đưa hai con trở về Nghệ An, năm 1901, ông Nguyễn Sinh Sắc lại trở lại Huế dự kỳ thi Hội lần thứ ba. Kỳ thi năm Tân Sửu đó ông đã đỗ Phó bảng. Và mãi đến năm 1906 ông mới nhậm chức Thừa biện Bộ Lễ, trông coi việc học hành ở Quốc Tử Giám. Tháng 6 năm 1901, hai anh em Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung với tên mới là Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế sống và làm việc đến tháng 7 năm 1909.
Huế là “quê hương thứ hai” nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống, học và lao động trong hai giai đoạn (1895 - 1901) và (1906 - 1909). Nơi đây đã ghi những dấu ấn sâu đậm trong sự trưởng thành của tuổi trẻ Bác Hồ, nay vẫn được bảo tồn trong một hệ thống các di tích về gia đình Người: Đó là cụm di tích nằm trên trục đường Đông Ba (nay là đường Mai Thúc Loan) có ngôi nhà số 112 gia đình Người đã sống, Trường Tiểu học Pháp- Việt Đông Ba, nơi Nguyễn Tất Thành đã học; Có cụm di tích trên đường Lê Lợi với Trường Quốc học nơi Bác đã học, Tòa Khâm sứ Trung kỳ, nơi Nguyễn Tất Thành tham gia phong trào chống thuế năm 1908, có Bảo tàng Hồ Chí Minh, Chi nhánh Thừa Thiên Huế…
Cụm di tích tại làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang với Nhà lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số địa điểm như Đình làng, Bến Đá và Am Bà. Đó là nơi tuổi thơ Bác Hồ đã sống, trải nghiệm những biến cố đầu tiên của gia đình, vào đúng năm Mậu Tuất 120 năm trước.