ĐỀ 10
MA TRẬN ĐỀ THI GIỮA HỌC KÌ II
TT | Kĩ năng | Nội dung | Mức độ nhận thức | Tổng % điểm | |||||||
Nhận biết | Thông hiểu | Vận dụng | Vận dụng cao | ||||||||
TN | TL | TN | TL | TN | TL | TN | TL | ||||
1 | Đọc hiểu | Truyện ngắn | 2 | 1 | 2 | 1 | 0 | 1 | 0 | 0 | 50 |
2 | Viết | Viết bài văn nghị luận về một vấn đề trong đời sống | 0 | 1* | 0 | 1* | 0 | 1* | 0 | 2* | 50 |
Tổng | 10 | 20 | 10 | 20 | 0 | 20 | 0 | 20 | 100% | ||
Tỉ lệ % | 30% | 30% | 20% | 20% | |||||||
Tỉ lệ chung | 60% | 40% |
BẢNG ĐẶC TẢ ĐỀ THI GIỮA HỌC KÌ II
TT | Chương/ chủ đề | Nội dung/ đơn vị kiến thức | Mức độ đánh giá | Số câu hỏi theo mức độ nhận thức | |||
Nhận biết | Thông hiểu | Vận dụng | Vận dụng cao | ||||
1 | Đọc hiểu | Truyện ngắn | Nhận biết: - Nhận biết được giá trị nội dung (đề tài, chủ đề, tư tưởng,…) và một số yếu tố hình thức (điểm nhìn trần thuật, người kể chuyện hạn tri và người kể chuyện toàn tri, lời người kể chuyện, nhân vật,…) của truyện ngắn. - Nhận biết được đặc điểm, tác dụng của các biện pháp tu từ: liệt kê, chêm xen,… được sử dụng trong truyện ngắn. Thông hiểu: - Hiểu được nội dung của truyện ngắn. - Hiểu được thông điệp của truyện ngắn. Vận dụng: - Rút ra bài học cuộc sống từ các nhân vật trong truyện. | 2TN 1TL | 2TN 1TL | 1TL | |
2 | Viết | Viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội | Nhận biết: - Xác định được kiểu bài nghị luận. - Xác định được bố cục bài văn, vấn đề cần nghị luận. Thông hiểu: - Trình bày rõ ràng vấn đề và ý kiến (tán thành hay phản đối). - Đưa ra lí lẽ rõ ràng, bằng chứng xác thực, đa dạng để làm sáng tỏ cho ý kiến. Vận dụng: - Vận dụng những kĩ năng tạo lập văn bản, vận dụng kiến thức của bản thân về những trải nghiệm xảy ra trong cuộc sống để viết được bài văn nghị luận xã hội hoàn chỉnh đáp ứng yêu cầu của đề. - Nhận xét, rút ra bài học từ trải nghiệm của bản thân. Vận dụng cao: - Có lối viết sáng tạo, hấp dẫn lôi cuốn; kết hợp các yếu tố miêu tả, biểu cảm để làm nổi bật ý của bản thân với vấn đề cần bàn luận. - Lời văn sinh động, giàu cảm xúc, có giọng điệu riêng. | 1 TL* | |||
Tổng số câu | 2TN 1TL | 2TN 1TL | 1TL | 1 TL | |||
Tỉ lệ (%) | 30% | 30% | 20% | 20% | |||
Tỉ lệ chung | 60% | 40% |
SỞ GD&ĐT TỈNH …………………….. ĐỀ SỐ 10 | ĐỀ THI GIỮA HỌC KÌ IINăm học: 2022 – 2023 Môn: Ngữ văn – Lớp 10(Thời gian làm bài: 90 phút) |
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
NHÀ MẸ LÊ
… Nhà mẹ Lê là một gia đình một người mẹ với mười một ngươì con. Bác Lê là một người đàn bà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay nhăn nheo như một quả trám khô. Khi bác mới đến phố, ai ai cũng chú ý đến đám con của bác: mười một đứa, mà đứa lớn mới có mười bảy tuổi! Đứa bé nhất hãy còn bế trên tay. Mẹ con bác ta ở một căn nhà lá. Chừng ấy người chen chúc trong một khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc giường nan gãy nát. Mùa rét thì trải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc. Đối với người nghèo như bác một chỗ ở như thế cũng tươm tất lắm rồi. Nhưng còn cách kiếm ăn? Bác Lê chật vật, khó khăn suốt ngày cũng không đủ nuôi từng ấy đứa con. Từ buổi sáng tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta đã phải trở dậy để đi làm mướn cho những người trong làng. Những ngày có người mướn ấy, tuy bác phải làm vất vả, nhưng chắc chắn buổi tối được mấy bát gạo và mấy đồng xu về nuôi lũ con đói đợi ở nhà.
Đó là những ngày sung sướng. Nhưng đến mùa rét, khi các ruộng lúa đã gặt rồi, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ, dưới gió bấc lạnh như lưỡi dao sắc khía vào da, bác Lê lo sợ, vì không ai mướn bác làm việc gì nữa. Thế là cả nhà nhịn đói, mấy đứa nhỏ nhất: con Tý, con Phún, thằng Hy mà con chị nó bế, chúng nó khóc lả đi mà không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét như thịt con trâu chết. Bác Lê ôm lấy con trong ổ rơm, để mong lấy cái ấm của mình ấp ủ cho nó. Thằng con lớn thì từ sáng đã cùng thằng Ba ra cánh đồng kiếm con cua, con ốc, hay sau mùa gặt, đi mót những bông lúa còn sót lại trong khe ruộng. Thật là sung sướng, nếu chúng mang về được một lượm, trong những ngày may mắn. Vội vàng bác Lê đẩy con ra, vơ lấy bó lúa, đem để xuống dưới chân vò nát, vét hột thóc giã lấy gạo. Rồi làm một bữa cơm nóng lúc buổi tối giá rét, mẹ con ngồi chung quanh nồi cơm bốc hơi, trong khi bên ngoài gió lạnh rít qua mái tranh […].
- Bác phải nhớ thỉnh thoảng đếm lại con không quên mất.
Bác Lê bao giờ cũng trả lời một câu:
- Mất bớt đi cho nó đỡ tội.
[…] Mấy năm sau, sự kiếm ăn ngày một thêm khó khăn… Mùa rét năm ấy đến, giá lạnh và mưa gió lầy lội. Đàn con bác Lê ôm chặt lấy nhau rét run trong căn nhà ẩm ướt và tối tăm vì đèn đuốc không có nữa. Mấy gia đình ở phố chợ đều đói rét và khổ sở. Nhưng mỗi nhà đều lặng lẽ, âm thầm và chịu khổ một mình, không than thở với láng giềng hàng xóm lời gì, ai nấy đều biết cũng nghèo khốn như nhau.
Một buổi chiều, mà đàn con đã nhịn đói suốt buổi, bác Lê vá lại manh áo rét, gọi đứa cả đến rồi bảo:
- Ở nhà trông các em, tao vào ông Bá xem có xin được ít gạo nào không?
… Nói xong, bác Lê mở cửa liếp ra đi. Trong lòng bác vẫn có chút hi vọng trong buổi sáng lúc vào xin gạo. Ông Bá đã đuổi mắng không cho. Bác nhớ lại cái cảnh sang trọng, ấm cúng trong nhà ông Bá. Những chậu sứ, câu đối thếp vàng sáng chói. Không lẽ ông Bá giàu có thế mà không thí cho mẹ con bác được bát gạo hay sao?
Ở nhà, đàn con bác ngồi nhìn nhau đợi trong ổ rơm. Bác đi đâu không thấy về. Thằng Hy lắng tai nghe tiếng chó cắn trong làng rồi bảo chị nó:
- Hình như u về đấy chị ạ.
Thằng cả đi lại bên cửa bếp nhìn ra ngoài. Bỗng có tiếng chân người rầm rập, đến tiếng gọi, rồi lũ trẻ thấy bác Đối và một người nữa khiêng bác Lê vào trong nhà. Trên bắp chân người mẹ, máu đỏ chảy ròng ròng…
Bác Lê nén cái đau, giảng cho con biết:
- Thật cậu Phúc ác quá! Đã không cho thì thôi lại còn thả chó ra đuổi, tao đã chạy mà không kịp, nên nó cắn phải. May gặp bác Đối, chứ không biết bao giờ mới lê được về đến nhà.
Bác ngừng lại nhìn đàn con ốm yếu, rồi thở dài:
- Thế là mẹ con lấy gì ăn cho đỡ đói bây giờ.
Thằng Hy òa lên khóc, con Tý cũng khóc theo. Bác Lê giơ tay ôm chúng nó vào lòng nghĩ thân phận mình, bác cũng ứa nước mắt.
Đêm ấy, bác Lê lên cơn sốt. Những cái rùng mình lạnh lẽo nối nhau lướt trên da bác, manh chiếu rách không đủ đắp ấm thân. Trong lúc mê sảng, bác Lê tưởng nhớ lại cả cuộc đời mình, từ lúc còn bé đến bây giờ, chỉ toàn những ngày khổ sở nhọc nhằn. Cái nghèo không biết tự bao giờ đã vào nhà bác. Lúc sinh ra bác đã thấy nó rồi, và từ đó nó cứ theo liền bác mãi. Nhưng có người mướn làm thì không đến nỗi. Bác nhớ lại những buổi đi làm khó nhọc, nhưng bác vui vẻ được lĩnh gạo về cho con, những bữa cơm nóng mùa rét, những lúc thằng Hy và con Tý vui đùa giằng co chiếc bánh bác mua cho chúng.
Rồi đến những ngày đi mót lúa mỏi lưng trên cánh đồng, nhặt những bông lúa thơm, những lúc vò lúa dưới chân… Bác Lê nhớ lại cái cảm giác vui mừng khi thấy cạnh bông lúa sắc sát vào thịt da. Đấy còn là những ngày no đủ. Rồi đến những buổi chợ sáng, những ngày nhịn đói như hôm naỵ Bác mơ màng thấy vàng son chói lọi trong nhà ông Bá, thấy nét mặt gian ác của cậu Phúc, con chó tây nhe nanh chồm đến.
- Trời ơi! Sao tôi khổ thế này?
Tiếng kêu thất thanh của bác làm lũ trẻ giật mình, chúng nó ngồi dậy đưa mắt sợ hãi nhìn người mẹ. Hai hôm sau, bác Lê lại lên cơn mê sảng rồi chết. Người trong phố chợ gom góp nhau mua cho bác một cỗ ván mọt, rồi đưa giúp bác ra cánh đồng, chôn vùi dưới bãi tha ma nhỏ ở đầu làng.
Khi trở về, qua căn nhà lạnh lẽo âm u, họ thấy mấy đứa con nhỏ con bác Lê ngồi ở vỉa hè. Con Tý đang dỗ cho thằng Hy nín khóc, nói dối rằng mẹ nó đi chợ một lát rồi sẽ về. Nhưng họ biết rằng bác Lê không trở về nữa và họ thấy một cái cảm giác lo sợ đè nén lấy tâm can họ, những người ở lại, những người còn sống mà cái nghèo khổ cứ theo đuổi mãi không biết bao giờ hết.
(Thạch Lam)
Câu 1. Truyện ngắn được kể theo trình tự nào?
A. Không gian
B. Thời gian
C. Hiện thực, hồi ức đan xen
D. Tất cả các ý trên
Câu 2. Dòng nào nêu lên ngôi kể của tác phẩm?
A. Người kể chuyện hạn tri trực tiếp tham dự, chứng kiến hết những sự việc xảy ra
B. Người kể chuyện toàn tri, quan sát bằng toàn năng, biết hết mọi sự việc
C. Phối hợp hai điểm nhìn trần thuật vừa biết hết mọi sự việc, vừa diễn tả được cảm xúc của nhân vật
D. Dùng hai ngôi kể luân phiên để kể chuyện
Câu 3. Đoạn đầu của văn bản đề cập đến nội dung gì?
A. Hoàn cảnh xã hội đương thời
B. Gia cảnh của những người dân trong làng
C. Hoàn cảnh nhà bác Lê
D. Công việc của bác Lê
Câu 4. Dòng nào nói lên cảm hứng bao trùm tác phẩm?
A. Phê phán ông Bá thấy khó không giúp
B. Xót thương cho bao kiếp người nghèo đói, cơ cực
C. Ngợi ca tấm lòng của những người hàng xóm
D. Lên án hành động của cậu Phúc
Câu 5. Anh/chị có nhận xét gì về nhân vật chính trong truyện ngắn trên? Từ đó cho thấy tình cảm gì của nhà văn với nhân vật?
Câu 6. Chi tiết kết thúc truyện ngắn “Nhưng họ biết rằng bác Lê không trở về nữa và họ thấy một cái cảm giác lo sợ đè nén lấy tâm can họ, những người ở lại, những người còn sống mà cái nghèo khổ cứ theo đuổi mãi không biết bao giờ hết” có gì đặc biệt?
Câu 7. Em hãy tưởng tượng và viết lại kết thúc của câu chuyện từ đoạn bác Lê đi xin gạo.
Phần II. Viết (5,0 điểm)Viết bài văn nghị luận xã hội trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa câu nói: “Nếu tôi không cháy lên, nếu anh không cháy lên, nếu chúng ta không cháy lên thì làm sao bóng tối có thể trở thành ánh sáng” (Na-dim Hít-mét)
HƯỚNG DẪN CHẤM
Phần I. Đọc hiểu (5,0 điểm)Câu | Đáp án | Điểm |
Câu 1 | C. Hiện thực, hồi ức đan xen | 0,5 điểm |
Câu 2 | B. Người kể chuyện toàn tri, quan sát bằng toàn năng, biết hết mọi sự việc. | 0,5 điểm |
Câu 3 | C. Hoàn cảnh nhà bác Lê | 0,5 điểm |
Câu 4 | B. Xót thương cho bao kiếp người nghèo đói, cơ cực | 0,5 điểm |
Câu 5 | HS nêu nhận xét về nhân vật bác Lê và nêu tình cảm của tác giả: - Nhân vật chính trong văn bản là bác Lê. Đó là một người phụ nữ cực khổ đông con, nghèo đói, phải đi làm thuê làm mướn song giàu tình thương con, chịu thương chịu khó dậy sớm đi làm thuê suốt 4 mùa, bất kể nắng mưa, rét mướt; ủ ấm cho đàn con. - Tình cảm của nhà văn: Yêu thương, xót xa, ái ngại cho cảnh ngộ nghèo khổ của nhà bác Lê. Đó là tình cảm nhân đạo sâu sắc. | 1,0 điểm |
Câu 6 | HS nêu nhận xét về chi tiết kết thúc chuyện: Chuyện kết thúc bằng hình ảnh đàn con thơ nheo nhóc sau cái chết của người mẹ nghèo. Chi tiết này để lại nhiều suy nghĩ trong lòng người đọc. Liệu đàn con của bác Lê sau này sẽ sống như thế nào trong cảnh nghèo đói, túng quấn như thế? | 1,0 điểm |
Câu 7 | HS tự xây dựng lại kết thúc chuyện (Lưu ý hướng tới tính nhân văn trong cuộc sống). Gợi ý: Mẹ Lê xin được gạo; mọi người được giúp đỡ trồng trọt, chăn nuôi,… | 1,0 điểm |
Câu | Đáp án | Điểm |
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận Mở bài giới thiệu được vấn đề. Thân bài triển khai được vấn đề. Kết bài khái quát lại vấn đề và nêu bài học nhận thức. | 0,25 điểm | |
b. Xác định đúng yêu cầu của đề: Suy nghĩ về câu nói “Nếu tôi không cháy lên, nếu anh không cháy lên, nếu chúng ta không cháy lên thì làm sao bóng tối có thể trở thành ánh sáng”. | 0,25 điểm | |
c. Bài viết có thể triển khai theo nhiều cách khác nhau song cần đảm bảo các ý sau: Tham khảo một số ý cụ thể sau: + Mượn cách nói hình ảnh và sử dụng câu hỏi tu từ, nhà thơ Na-dim Hít-mét đưa ra một hiện tượng, đồng thời là một lời thôi thúc, cảnh tỉnh, giục giã, rằng ngay trong bóng tối, ánh sáng có thể bừng lên, và bừng lên từ sự toả sáng của mỗi người. + Mỗi người cần làm gì để có thể cháy lên? Mỗi người có một cách để tự cháy sáng, bằng trí tuệ, bằng tâm hồn, bằng những việc làm cụ thể, nhưng điều quan trọng là tất cả những ngọn lửa từ mỗi cá nhân phải kết nối và được nhân lên, điều đó cần đến sự đồng điệu, sự sẻ chia trong cuộc sống. + Lịch sử đã chứng minh rằng bóng tối có thể bừng lên thành ánh sáng nhờ những ngọn lửa cháy sáng của mỗi cá nhân (lấy dẫn chứng cụ thể). + Câu nói là bài học tư tưởng cho mỗi người: trong những hoàn cảnh tăm tối của cuộc sống cần biết tự tìm cho mình sức mạnh để cháy sáng lên, để mỗi người là một Đan-kô, lấy trái tim mình làm nguồn sáng dẫn đường cho những người khác đi qua con đường tăm tối. + Liên hệ cá nhân để nêu bài học nhận thức và hành động. | 3,5 điểm | |
d. Chính tả, ngữ pháp: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt. | 0,5 điểm | |
e. Sáng tạo: Diễn đạt sáng tạo, sinh động, giàu hình ảnh, có giọng điệu riêng. | 0,5 điểm |
ĐỀ 10
MA TRẬN ĐỀ THI GIỮA HỌC KÌ II
TT | Kĩ năng | Nội dung | Mức độ nhận thức | Tổng % điểm | |||||||
Nhận biết | Thông hiểu | Vận dụng | Vận dụng cao | ||||||||
TN | TL | TN | TL | TN | TL | TN | TL | ||||
1 | Đọc hiểu | Truyện ngắn | 2 | 1 | 2 | 1 | 0 | 1 | 0 | 0 | 50 |
2 | Viết | Viết bài văn nghị luận về một vấn đề trong đời sống | 0 | 1* | 0 | 1* | 0 | 1* | 0 | 2* | 50 |
Tổng | 10 | 20 | 10 | 20 | 0 | 20 | 0 | 20 | 100% | ||
Tỉ lệ % | 30% | 30% | 20% | 20% | |||||||
Tỉ lệ chung | 60% | 40% |
BẢNG ĐẶC TẢ ĐỀ THI GIỮA HỌC KÌ II
TT | Chương/ chủ đề | Nội dung/ đơn vị kiến thức | Mức độ đánh giá | Số câu hỏi theo mức độ nhận thức | |||
Nhận biết | Thông hiểu | Vận dụng | Vận dụng cao | ||||
1 | Đọc hiểu | Truyện ngắn | Nhận biết: - Nhận biết được giá trị nội dung (đề tài, chủ đề, tư tưởng,…) và một số yếu tố hình thức (điểm nhìn trần thuật, người kể chuyện hạn tri và người kể chuyện toàn tri, lời người kể chuyện, nhân vật,…) của truyện ngắn. - Nhận biết được đặc điểm, tác dụng của các biện pháp tu từ: liệt kê, chêm xen,… được sử dụng trong truyện ngắn. Thông hiểu: - Hiểu được nội dung của truyện ngắn. - Hiểu được thông điệp của truyện ngắn. Vận dụng: - Rút ra bài học cuộc sống từ các nhân vật trong truyện. | 2TN 1TL | 2TN 1TL | 1TL | |
2 | Viết | Viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội | Nhận biết: - Xác định được kiểu bài nghị luận. - Xác định được bố cục bài văn, vấn đề cần nghị luận. Thông hiểu: - Trình bày rõ ràng vấn đề và ý kiến (tán thành hay phản đối). - Đưa ra lí lẽ rõ ràng, bằng chứng xác thực, đa dạng để làm sáng tỏ cho ý kiến. Vận dụng: - Vận dụng những kĩ năng tạo lập văn bản, vận dụng kiến thức của bản thân về những trải nghiệm xảy ra trong cuộc sống để viết được bài văn nghị luận xã hội hoàn chỉnh đáp ứng yêu cầu của đề. - Nhận xét, rút ra bài học từ trải nghiệm của bản thân. Vận dụng cao: - Có lối viết sáng tạo, hấp dẫn lôi cuốn; kết hợp các yếu tố miêu tả, biểu cảm để làm nổi bật ý của bản thân với vấn đề cần bàn luận. - Lời văn sinh động, giàu cảm xúc, có giọng điệu riêng. | 1 TL* | |||
Tổng số câu | 2TN 1TL | 2TN 1TL | 1TL | 1 TL | |||
Tỉ lệ (%) | 30% | 30% | 20% | 20% | |||
Tỉ lệ chung | 60% | 40% |
SỞ GD&ĐT TỈNH …………………….. ĐỀ SỐ 10 | ĐỀ THI GIỮA HỌC KÌ IINăm học: 2022 – 2023 Môn: Ngữ văn – Lớp 10(Thời gian làm bài: 90 phút) |
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
NHÀ MẸ LÊ
… Nhà mẹ Lê là một gia đình một người mẹ với mười một ngươì con. Bác Lê là một người đàn bà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay nhăn nheo như một quả trám khô. Khi bác mới đến phố, ai ai cũng chú ý đến đám con của bác: mười một đứa, mà đứa lớn mới có mười bảy tuổi! Đứa bé nhất hãy còn bế trên tay. Mẹ con bác ta ở một căn nhà lá. Chừng ấy người chen chúc trong một khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc giường nan gãy nát. Mùa rét thì trải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc. Đối với người nghèo như bác một chỗ ở như thế cũng tươm tất lắm rồi. Nhưng còn cách kiếm ăn? Bác Lê chật vật, khó khăn suốt ngày cũng không đủ nuôi từng ấy đứa con. Từ buổi sáng tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta đã phải trở dậy để đi làm mướn cho những người trong làng. Những ngày có người mướn ấy, tuy bác phải làm vất vả, nhưng chắc chắn buổi tối được mấy bát gạo và mấy đồng xu về nuôi lũ con đói đợi ở nhà.
Đó là những ngày sung sướng. Nhưng đến mùa rét, khi các ruộng lúa đã gặt rồi, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ, dưới gió bấc lạnh như lưỡi dao sắc khía vào da, bác Lê lo sợ, vì không ai mướn bác làm việc gì nữa. Thế là cả nhà nhịn đói, mấy đứa nhỏ nhất: con Tý, con Phún, thằng Hy mà con chị nó bế, chúng nó khóc lả đi mà không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét như thịt con trâu chết. Bác Lê ôm lấy con trong ổ rơm, để mong lấy cái ấm của mình ấp ủ cho nó. Thằng con lớn thì từ sáng đã cùng thằng Ba ra cánh đồng kiếm con cua, con ốc, hay sau mùa gặt, đi mót những bông lúa còn sót lại trong khe ruộng. Thật là sung sướng, nếu chúng mang về được một lượm, trong những ngày may mắn. Vội vàng bác Lê đẩy con ra, vơ lấy bó lúa, đem để xuống dưới chân vò nát, vét hột thóc giã lấy gạo. Rồi làm một bữa cơm nóng lúc buổi tối giá rét, mẹ con ngồi chung quanh nồi cơm bốc hơi, trong khi bên ngoài gió lạnh rít qua mái tranh […].
- Bác phải nhớ thỉnh thoảng đếm lại con không quên mất.
Bác Lê bao giờ cũng trả lời một câu:
- Mất bớt đi cho nó đỡ tội.
[…] Mấy năm sau, sự kiếm ăn ngày một thêm khó khăn… Mùa rét năm ấy đến, giá lạnh và mưa gió lầy lội. Đàn con bác Lê ôm chặt lấy nhau rét run trong căn nhà ẩm ướt và tối tăm vì đèn đuốc không có nữa. Mấy gia đình ở phố chợ đều đói rét và khổ sở. Nhưng mỗi nhà đều lặng lẽ, âm thầm và chịu khổ một mình, không than thở với láng giềng hàng xóm lời gì, ai nấy đều biết cũng nghèo khốn như nhau.
Một buổi chiều, mà đàn con đã nhịn đói suốt buổi, bác Lê vá lại manh áo rét, gọi đứa cả đến rồi bảo:
- Ở nhà trông các em, tao vào ông Bá xem có xin được ít gạo nào không?
… Nói xong, bác Lê mở cửa liếp ra đi. Trong lòng bác vẫn có chút hi vọng trong buổi sáng lúc vào xin gạo. Ông Bá đã đuổi mắng không cho. Bác nhớ lại cái cảnh sang trọng, ấm cúng trong nhà ông Bá. Những chậu sứ, câu đối thếp vàng sáng chói. Không lẽ ông Bá giàu có thế mà không thí cho mẹ con bác được bát gạo hay sao?
Ở nhà, đàn con bác ngồi nhìn nhau đợi trong ổ rơm. Bác đi đâu không thấy về. Thằng Hy lắng tai nghe tiếng chó cắn trong làng rồi bảo chị nó:
- Hình như u về đấy chị ạ.
Thằng cả đi lại bên cửa bếp nhìn ra ngoài. Bỗng có tiếng chân người rầm rập, đến tiếng gọi, rồi lũ trẻ thấy bác Đối và một người nữa khiêng bác Lê vào trong nhà. Trên bắp chân người mẹ, máu đỏ chảy ròng ròng…
Bác Lê nén cái đau, giảng cho con biết:
- Thật cậu Phúc ác quá! Đã không cho thì thôi lại còn thả chó ra đuổi, tao đã chạy mà không kịp, nên nó cắn phải. May gặp bác Đối, chứ không biết bao giờ mới lê được về đến nhà.
Bác ngừng lại nhìn đàn con ốm yếu, rồi thở dài:
- Thế là mẹ con lấy gì ăn cho đỡ đói bây giờ.
Thằng Hy òa lên khóc, con Tý cũng khóc theo. Bác Lê giơ tay ôm chúng nó vào lòng nghĩ thân phận mình, bác cũng ứa nước mắt.
Đêm ấy, bác Lê lên cơn sốt. Những cái rùng mình lạnh lẽo nối nhau lướt trên da bác, manh chiếu rách không đủ đắp ấm thân. Trong lúc mê sảng, bác Lê tưởng nhớ lại cả cuộc đời mình, từ lúc còn bé đến bây giờ, chỉ toàn những ngày khổ sở nhọc nhằn. Cái nghèo không biết tự bao giờ đã vào nhà bác. Lúc sinh ra bác đã thấy nó rồi, và từ đó nó cứ theo liền bác mãi. Nhưng có người mướn làm thì không đến nỗi. Bác nhớ lại những buổi đi làm khó nhọc, nhưng bác vui vẻ được lĩnh gạo về cho con, những bữa cơm nóng mùa rét, những lúc thằng Hy và con Tý vui đùa giằng co chiếc bánh bác mua cho chúng.
Rồi đến những ngày đi mót lúa mỏi lưng trên cánh đồng, nhặt những bông lúa thơm, những lúc vò lúa dưới chân… Bác Lê nhớ lại cái cảm giác vui mừng khi thấy cạnh bông lúa sắc sát vào thịt da. Đấy còn là những ngày no đủ. Rồi đến những buổi chợ sáng, những ngày nhịn đói như hôm naỵ Bác mơ màng thấy vàng son chói lọi trong nhà ông Bá, thấy nét mặt gian ác của cậu Phúc, con chó tây nhe nanh chồm đến.
- Trời ơi! Sao tôi khổ thế này?
Tiếng kêu thất thanh của bác làm lũ trẻ giật mình, chúng nó ngồi dậy đưa mắt sợ hãi nhìn người mẹ. Hai hôm sau, bác Lê lại lên cơn mê sảng rồi chết. Người trong phố chợ gom góp nhau mua cho bác một cỗ ván mọt, rồi đưa giúp bác ra cánh đồng, chôn vùi dưới bãi tha ma nhỏ ở đầu làng.
Khi trở về, qua căn nhà lạnh lẽo âm u, họ thấy mấy đứa con nhỏ con bác Lê ngồi ở vỉa hè. Con Tý đang dỗ cho thằng Hy nín khóc, nói dối rằng mẹ nó đi chợ một lát rồi sẽ về. Nhưng họ biết rằng bác Lê không trở về nữa và họ thấy một cái cảm giác lo sợ đè nén lấy tâm can họ, những người ở lại, những người còn sống mà cái nghèo khổ cứ theo đuổi mãi không biết bao giờ hết.
(Thạch Lam)
Câu 1. Truyện ngắn được kể theo trình tự nào?
A. Không gian
B. Thời gian
C. Hiện thực, hồi ức đan xen
D. Tất cả các ý trên
Câu 2. Dòng nào nêu lên ngôi kể của tác phẩm?
A. Người kể chuyện hạn tri trực tiếp tham dự, chứng kiến hết những sự việc xảy ra
B. Người kể chuyện toàn tri, quan sát bằng toàn năng, biết hết mọi sự việc
C. Phối hợp hai điểm nhìn trần thuật vừa biết hết mọi sự việc, vừa diễn tả được cảm xúc của nhân vật
D. Dùng hai ngôi kể luân phiên để kể chuyện
Câu 3. Đoạn đầu của văn bản đề cập đến nội dung gì?
A. Hoàn cảnh xã hội đương thời
B. Gia cảnh của những người dân trong làng
C. Hoàn cảnh nhà bác Lê
D. Công việc của bác Lê
Câu 4. Dòng nào nói lên cảm hứng bao trùm tác phẩm?
A. Phê phán ông Bá thấy khó không giúp
B. Xót thương cho bao kiếp người nghèo đói, cơ cực
C. Ngợi ca tấm lòng của những người hàng xóm
D. Lên án hành động của cậu Phúc
Câu 5. Anh/chị có nhận xét gì về nhân vật chính trong truyện ngắn trên? Từ đó cho thấy tình cảm gì của nhà văn với nhân vật?
Câu 6. Chi tiết kết thúc truyện ngắn “Nhưng họ biết rằng bác Lê không trở về nữa và họ thấy một cái cảm giác lo sợ đè nén lấy tâm can họ, những người ở lại, những người còn sống mà cái nghèo khổ cứ theo đuổi mãi không biết bao giờ hết” có gì đặc biệt?
Câu 7. Em hãy tưởng tượng và viết lại kết thúc của câu chuyện từ đoạn bác Lê đi xin gạo.
Phần II. Viết (5,0 điểm)Viết bài văn nghị luận xã hội trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa câu nói: “Nếu tôi không cháy lên, nếu anh không cháy lên, nếu chúng ta không cháy lên thì làm sao bóng tối có thể trở thành ánh sáng” (Na-dim Hít-mét)
HƯỚNG DẪN CHẤM
Phần I. Đọc hiểu (5,0 điểm)Câu | Đáp án | Điểm |
Câu 1 | C. Hiện thực, hồi ức đan xen | 0,5 điểm |
Câu 2 | B. Người kể chuyện toàn tri, quan sát bằng toàn năng, biết hết mọi sự việc. | 0,5 điểm |
Câu 3 | C. Hoàn cảnh nhà bác Lê | 0,5 điểm |
Câu 4 | B. Xót thương cho bao kiếp người nghèo đói, cơ cực | 0,5 điểm |
Câu 5 | HS nêu nhận xét về nhân vật bác Lê và nêu tình cảm của tác giả: - Nhân vật chính trong văn bản là bác Lê. Đó là một người phụ nữ cực khổ đông con, nghèo đói, phải đi làm thuê làm mướn song giàu tình thương con, chịu thương chịu khó dậy sớm đi làm thuê suốt 4 mùa, bất kể nắng mưa, rét mướt; ủ ấm cho đàn con. - Tình cảm của nhà văn: Yêu thương, xót xa, ái ngại cho cảnh ngộ nghèo khổ của nhà bác Lê. Đó là tình cảm nhân đạo sâu sắc. | 1,0 điểm |
Câu 6 | HS nêu nhận xét về chi tiết kết thúc chuyện: Chuyện kết thúc bằng hình ảnh đàn con thơ nheo nhóc sau cái chết của người mẹ nghèo. Chi tiết này để lại nhiều suy nghĩ trong lòng người đọc. Liệu đàn con của bác Lê sau này sẽ sống như thế nào trong cảnh nghèo đói, túng quấn như thế? | 1,0 điểm |
Câu 7 | HS tự xây dựng lại kết thúc chuyện (Lưu ý hướng tới tính nhân văn trong cuộc sống). Gợi ý: Mẹ Lê xin được gạo; mọi người được giúp đỡ trồng trọt, chăn nuôi,… | 1,0 điểm |
Câu | Đáp án | Điểm |
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận Mở bài giới thiệu được vấn đề. Thân bài triển khai được vấn đề. Kết bài khái quát lại vấn đề và nêu bài học nhận thức. | 0,25 điểm | |
b. Xác định đúng yêu cầu của đề: Suy nghĩ về câu nói “Nếu tôi không cháy lên, nếu anh không cháy lên, nếu chúng ta không cháy lên thì làm sao bóng tối có thể trở thành ánh sáng”. | 0,25 điểm | |
c. Bài viết có thể triển khai theo nhiều cách khác nhau song cần đảm bảo các ý sau: Tham khảo một số ý cụ thể sau: + Mượn cách nói hình ảnh và sử dụng câu hỏi tu từ, nhà thơ Na-dim Hít-mét đưa ra một hiện tượng, đồng thời là một lời thôi thúc, cảnh tỉnh, giục giã, rằng ngay trong bóng tối, ánh sáng có thể bừng lên, và bừng lên từ sự toả sáng của mỗi người. + Mỗi người cần làm gì để có thể cháy lên? Mỗi người có một cách để tự cháy sáng, bằng trí tuệ, bằng tâm hồn, bằng những việc làm cụ thể, nhưng điều quan trọng là tất cả những ngọn lửa từ mỗi cá nhân phải kết nối và được nhân lên, điều đó cần đến sự đồng điệu, sự sẻ chia trong cuộc sống. + Lịch sử đã chứng minh rằng bóng tối có thể bừng lên thành ánh sáng nhờ những ngọn lửa cháy sáng của mỗi cá nhân (lấy dẫn chứng cụ thể). + Câu nói là bài học tư tưởng cho mỗi người: trong những hoàn cảnh tăm tối của cuộc sống cần biết tự tìm cho mình sức mạnh để cháy sáng lên, để mỗi người là một Đan-kô, lấy trái tim mình làm nguồn sáng dẫn đường cho những người khác đi qua con đường tăm tối. + Liên hệ cá nhân để nêu bài học nhận thức và hành động. | 3,5 điểm | |
d. Chính tả, ngữ pháp: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt. | 0,5 điểm | |
e. Sáng tạo: Diễn đạt sáng tạo, sinh động, giàu hình ảnh, có giọng điệu riêng. | 0,5 điểm |