Trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, Lý Thường Kiệt đã có chủ trương gì?
Trước tình hình nhà Tống ráo riết xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt thực hiện chủ trương độc đáo, sáng tạo: “tiến công trước để tự vệ”.
Mục đích chính của Lý Thường Kiệt trong cuộc tấn công sang đất Tống cuối năm 1075 là
Trước tình hình nhà Tống ráo riết chuẩn bị xâm lược Đại Việt, Lý Thường Kiệt đã gấp rút chuẩn bị cho cuộc tấn công vào những nơi tập trung lương thực, vũ khí của nhà Tống, gần biên giới Đai Việt là Châu Ung, Châu Khâm, Châu Liêm
Cánh quân bộ của quân Tống tiến sang Đại Việt do ai chỉ huy?
Thất bại nặng nề và bất ngờ ở Ung Châu khiến cho vua Tống vô cùng tức giận và quyết định xuất quân chinh phạt Đại Việt. Cuối năm 1076, một đạo quân lớn gồm 10 vạn quân tinh nhuệ một vạn ngựa chiến cùng 20 vạn dân phu do tướng Quách Quỳ và Triệt Tiết chỉ huy tiến vào nước ta
Giữa lúc quân Tống đang rơi vào tình thế khó khăn, tuyệt vọng, Lý Thường Kiệt đã có hành động gì?
Giữa lúc quân Tống thua to, lâm vào tình thế hết sức khó khăn, tuyệt vọng. Lý Thường Kiệt đã chủ động kết thúc chiến tranh bằng biện pháp thương lượng, đề nghị “giảng hòa”. Quách Quỳ chấp nhận ngay. Sau đó quân Tống rút về nước
Vì sao nhà Tống lại muốn đem quân xâm lược Đại Việt?
Từ thế kỉ XI, nhà Tống gặp phải những khó khăn chồng chất:
- Ngân khố cạn kiệt, tài chính nguy ngập nội bộ mâu thuẫn.
- Nhân dân đói khổ, nhiều nơi nổi dậy đấu tranh.
- Vùng biên giới phía Bắc thường xuyên bị Liêu - Hạ quấy nhiễu.
=> Để giải quyết những khó khăn trên, nhà Tống đã tiến hành xâm lược với hi vọng “nếu thắng thế Tống sẽ tăng, các nước Liêu, Hạ phải kiêng nể”
Đâu không phải lý do khiến Lý Thường Kiệt chọn Như Nguyệt làm nơi xây dựng phòng tuyến đánh giặc?
Lý Thường Kiệt chọn sông Như Nguyệt làm phòng tuyến chống quân xâm lược Tống, vì:
- Đây là con sông chặn ngang tất cả các ngả đường bộ từ Quảng Tây (Trung Quốc) vào Thăng Long.
- Sông Như Nguyệt bấy giờ có lòng sông sâu, rộng, là một chiến hào tự nhiên khó có thể vượt qua.
- Lực lượng của nhà Tống chủ yếu là bộ binh: 10 vạn bộ binh tinh nhuệ, 1 vạn ngựa chiến và 20 vạn dân phu.
=> Loại trừ đáp án: C
Cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077) giành thắng lợi không xuất phát từ nguyên nhân nào sau đây?
Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077):
- Chủ quan:
+ Nhân dân Đại Việt có tinh thần yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng với kẻ thù
+ Nhà Lý đã có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt: đường lối chiến tranh, lực lượng, cơ sở vật chất
- Khách quan: Nhà Tống đang lâm vào tình trạng khủng hoảng, tiềm lực suy giảm, khó có thể tiến hành một cuộc chiến tranh trong thời gian dài
=> Đáp án D: trong quá trình kháng chiến Đại Việt và Champa không có sự đoàn kết với nhau và ngược lại Champa còn nghe theo sự xúi giục của nhà Tống tấn công Đại Việt từ phía Nam
Ý nào không minh chứng cho sự chuẩn bị của nhà Tống cho cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt?
Để đánh chiếm Đại Việt, nhà Tống đã:
- Xúi giục vua Cham-pa đánh lên từ phía Nam
- Còn ở biên giới phía Bắc của Đại Việt, nhà Tống ngăn cản việc buôn bán, đi lại của nhân dân hai nước, dụ dỗ các tù trưởng của dân tộc ít người.
- Nhà Tống đã cho xây dựng những căn cứ quân sự ở Châu Ung, châu Khâm, châu Liêm để tích trữ lương thực, vũ khí cho cuộc chiến tranh
=> Loại trừ đáp án: D
Cách thức kết thúc chiến tranh bằng con đường hòa bình của Lý Thường Kiệt không mang lại ý nghĩa nào sau đây?
Giữa lúc quân Tống gặp khó khăn khi thất bại tại trận Như Nguyệt nhưng Lý Thường Kiệt lại chủ động kết thúc chiến tranh bằng cách “giảng hòa”, mềm dẻo, thương lượng với quân Tống. Cách giải quyết này đã thể hiện thiện chí hòa bình, tinh thần nhân đạo của Đại Việt, đảm bảo mối quan hệ hòa hiếu giữa hai nước từ trước. Đồng thời, giúp nhanh chóng kết thúc chiến tranh, hạn chế bớt thiệt hại xương máu, vật chất của nhân dân
Trên cơ sở phân tích diễn biến cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077), anh (chị) hãy cho biết tư tưởng xuyên suốt của nhà Lý là gì?
Tư tưởng xuyên suốt của nhà Lý trong cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077) là tư tưởng chủ động:
- Chủ động mở cuộc tấn công sang đất Tống để chặn đứng mũi tiến công của địch
- Chủ động rút về xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt để phòng thủ trước cuộc xâm lược của nhà Tống
- Chủ động giảng hòa để kết thúc chiến tranh
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tạo thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Ý nào nào sau đây không phản ánh đúng nội dung của 4 câu thơ trên?
Bài thơ “Nam quốc sơn hà” ra đời trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Tống đang diễn ra gay go, quyết liệt nhằm:
- Đánh đòn tâm lý vào kẻ thù khiến chúng hoang mang, lo sợ
- Khẳng định chủ quyền và chứng minh tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến của quân và dân Đại Việt
- Cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân Đại Việt.
=> Loại trừ đáp án: B
Những vị tướng dân tộc thiểu số tiêu biểu, có đóng góp lớn trong cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077) là
Nhờ chính sách “nhu viễn”, nhà Lý đã thắt chặt được mối quan hệ với đồng bào dân tộc thiểu số ở phía Bắc, biến họ trở thành một trong những lực lượng xung kích trong cuộc kháng chiến chống Tống xâm lược (1075-1077)
- Tôn Đản (Tông Đản) là người thuộc châu Quảng Nguyên (Cao Bằng). Cha của ông là châu mục châu Quảng Nguyên.
- Thân Cảnh Phúc biệt danh Phò mã áo Chàm là tù trưởng động Giáp châu Lạng tức Châu Quang Lang (Lạng Sơn). Năm 1066, Thân Cảnh Phúc được vua Lý Thánh Tông gả con gái là công chúa Thiên Thành và cho làm phò mã, được phong làm Châu mục Lạng Châu.
Trong cuộc tấn công sang đất Tống cuối năm 1075, Thân Cảnh Phúc và Tông Đản chỉ huy dân binh miền núi đánh vào Ung Châu- một trong số những căn cứ của quân Tống chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt.