3. Hãy tưởng tượng em là vợ ông giáo được chứng kiến toàn bộ câu chuyện bán chó của lão Hạc và kể lại câu chuyện ấy.

2 câu trả lời

Ở xóm Giữa của làng Đại Hoàng chỉ có khoảng vài chục nóc nhà. Lão Hạc là hàng xóm của gia đình tôi . Ông giáo Tri - chồng tôi là người có học, hiểu biết rộng và tử tế nên được dân làng tin cậy. Chiều chiều, lão Hạc thường xách cái vò đất nung sang nhà tôi để xin nước giếng. Lần nào ông ấy cũng giữ lão Hạc lại chuyện trò, uống bát nước chè tươi hoặc hút điếu thuốc lào… để cho lão bớt cảm thấy lẻ loi, cô độc. Vợ chết đã lâu, con trai lại đi phu cao su đất đỏ mãi tận Nam Kì, Lão Hạc sống thui thủi một mình trong căn nhà nát chỉ có mỗi chú chó Vàng làm bạn. Lão quý nó như quý con, cho nó ăn bằng bát như người.

Chiều nay, lão sang chơi sớm hơn mọi khi. Vừa thấy ông giáo, lão báo ngay : – Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ! Chồng tôi ngạc nhiên: – Cụ bán nó rồi ư? Sao cụ bảo là…? Lão Hạc gật đầu, cố lấy giọng vui vẻ nhưng miệng méo xệch và mắt thì đỏ hoe. Ôngấy nhìn lão ái ngại, lòng đầy thương xót: – Thế nó để cho bắt dễ dàng hả cụ? Bất chợt, lão Hạc bật khóc hu hu, khuôn mặt co rúm lại vì đau khổ – Khốn nạn… ông giáo ơi!… Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy hai cẳng sau dốc ngược lên. Cứ thế là thằng Mục với thằng Xiên, hai thằng chỉ loay hoay một lúc là trói chặt cả bốn chân nó lại. Đấy giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết!… Này! ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn! Nó kêu ư ử và nhìn tôi, như muốn trách tôi rằng: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão đối sử với tôi như thế này à?”. Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi mà còn đánh lừa một con chó. Nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó! Ông giáo vỗ an, an ủi lão: – Cụ cứ tưởng thế đấy chứ nó chả hiểu gì đâu! Vả lại, ai nuôi chó mà chả để bán hay giết thịt! Ta giết nó chính là hoá kiếp cho nó đấy, hoá kiếp để cho nó làm kiếp khác cụ ạ! Lão Hạc cố gượng cười: – Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra sung sướng hơn một chút… Kiếp người như kiếp tôi đây chẳng hạn! Biết lão đang tự mỉa mai, ông giáo nói: – Kiếp ai thì cũng thế cả thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng? Thôi, bây giờ có cái này là sung sướng: Cụ ngồi xuống phản chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai, nấu ấm nước chè, rồi tôi với cụ vừa ăn khoai, uống nước hút thuốc lào vừa nói chuyện, thế là sướng! Vẻ mặt lão Hạc nghiêm trang hẳn: – Xin phép ông giáo để cho khi khác! Tôi muốn nhờ ông giáo giúp cho một việc. – Việc gì thế cụ? – Chuyện là thế này, ông giáo ạ! Thế rồi lão Hạc kể lể về anh con trai của lão chỉ vì không có tiền cưới vợ mà phẫn chí bỏ nhà đi phu đồn điền cao su ở tận Nam Kì đã hơn năm nay. Lão nhờ ông trông coi hộ mảnh vườn ba sào để sau này, cọn trai lão vể thì có sẵn đất đấy mà làm ăn. Còn chuyện thứ hai là lão gửi ông giữ hộ ba mươi đồng bạc dành dụm từ việc bán chút hoa lợi còm cõi và tiền vừa bán chó. Lão bảo rằng lão đã già yếu, lại nay ốm mai đau, chẳng biết thế nào. Rủi có nằm xuống thì sẵn số tiền ấy, nhờ ông đứng ra lo liệu cho, thiếu đâu đành trông cậy vào hàng xóm. Lặng nghe lão Hạc nói, ông Tri trầm ngâm suy nghĩ. Lão Hạc vốn là người khái tính, ít chịu phiền ai. Không biết lão có ý định gì mà hôm nay lại nhắc đến những chuyện hệ trọng như thế?! Ông liền động viên lão Hạc: – Gớm, cụ cứ lo xa làm gì cho mệt? Cụ còn khoẻ lắm, chết là chết thế nào? Cụ cứ để tiền mà ăn, khi nào chết hãy hay, tội gì có tiền mà lại chịu nhịn đói?! Lão Hạc vẫn năn nỉ: – Mong ông giáo thương tình tôi già nua tuổi tác mà nhận cho! Được vậy thì tôi cảm ơn lắm! Không thể từ chối, ông giáo đành nhận lời, nhưng vẫn băn khoăn hỏi lại: – Có bao nhiêu tiền dành dụm, cụ gửi tôi cả thì từ mai lấy gì mà ăn? Lão Hạc xua tay tỏ ý không cần: – Ông giáo đừng lo, tôi đã sắp xếp đâu vào đấy cả rồi ạ! Xin phép ông giáo, tôi về! – Vâng! Cụ lại nhà! Lão Hạc chậm chạp lê từng bước chân ra cổng, ông nhìn theo cái dáng lòng khòng, lam lũ của lão mà động lòng thương. Dạo này, cà làng đói. Có người cả tháng không biết đến hạt cơm, chỉ củ khoai, củ sắn, mớ rau lang, rau má… sống lay lắt qua ngày. Lão Hạc cũng thế, nhưng lão thà nhịn đói chứ nhất quyết không bán mảnh vườn để dành cho con. Lúc bóng lão Hạc đã khuất sau rặng tre đầu ngõ, ông thở dài quay vào nhà, trong tay vẫn giữ chặt chiếc túi nhỏ màu nâu cũ kĩ đựng mấy chục đồng bạc của lão Hạc gửi. Ông lắc đầu, lẩm bẩm một mình: “Rõ khổ!”. kể lại truyện lão hạc bán chó Chứng kiến đầu đuôi câu chuyện, trong lòng tôi trào lên tình cảm xót xa và mến phục.

Cuộc sống của lão Hạc chẳng có gì vui. Cái nghèo đeo đẳng làm khổ lão suốt đời. Ông lão già nua, ốm yếu ấy sống âm thầm, lặng lẽ trong sự chờ đợi mỏi mòn đứa con trai yêu quý của mình. Ngày trở về của anh ấy chắc còn xa lắm, mà lão Hạc thì như ngọn đèn lắt lay trước gió. Tình thương và đức hi sinh của ông lão thật đáng cảm phục và bi kịch của cuộc đời ông lão khiến cho ta rơi nước mắt. Số phận bi đát của lão Hạc cũng là số phận chung của nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, khi chưa được Đảng giác ngộ và dẫn dắt vào con đường đấu tranh giải phóng khỏi ách nô lệ của chế độ thực dân, phong kiến vạn ác.

Lão Hạc là người hàng xóm của tôi, cuộc sống của lão rất nghèo khổ. Vợ lão mất sớm, lão ở vậy một mình nuôi người con trai duy nhất của mình khôn lớn, trưởng thành. Những tưởng, khi con trai lão trưởng thành, cha con lão sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn nhưng người con trai của lão vì không có tiền cưới vợ, phẫn chí đã bỏ đi đồn điền cao su biệt tích, để lại mình lão cùng tuổi già đau ốm, nghèo túng. Hằng ngày, lão sống cùng cậu Vàng trong túp lều nhỏ và cậu Vàng cũng chính là người bạn thân thiết nhất của lão. Nhưng biết làm sao khi cái nghèo, cái đau ốm cứ bủa vây lấy cuộc sống của lão để rồi cuối cùng lão phải bán con chó ấy. Tôi đã được chứng kiến cảnh lão Hạc bán đi cậu Vàng - một cảnh tượng thật xúc động, xót xa, khiến tôi mãi không quên.

Tôi vẫn nhớ như in buổi chiều ngày hôm ấy, lúc trời chạng vạng tối, đó cũng là lúc tôi đi làm đồng về qua nhà lão Hạc. Hôm nay tôi chợt thấy nhà lão có đông người hẳn lên, những tưởng con trai lão đã về nhưng không, nhìn dáng vẻ lão lúc ấy chả có chút gì vui sướng cả mà ngược lại một nỗi buồn, khổ đau đang hiện lên trên gương mặt khắc khổ của lão. Từ ngoài cổng nhà nhìn vào, tôi thấy lão đang cho cậu Vàng ăn, nhưng chả lão chả chuyện trò cùng cậu Vàng như ngày thường tôi vẫn thấy mà chỉ nhìn nó với ánh mắt trìu mến nhưng đầy vẻ tội lỗi. Cạnh lão và cậu Vàng lúc ấy tôi còn thấy thắng Mục và thằng Xiên, tôi thầm hiểu ra mọi chuyện - lão đang muốn bán cậu Vàng. Và quả đúng như tôi dự đoán, lúc cậu Vàng đang ăn thì thằng Mục đang nấp ở phía trong nhà, vội vàng tóm lấy hai cẳng sau nó dốc ngược nó lên. Và rồi, cứ như thế thằng Mục với thằng Xiên, hai thằng chúng nó trói chặt cả bốn chân nó lại. Đó cũng là lúc tiếng con chó ăng ẳng vang lên, nó cứ ư ử, ư ử, giương cặp mắt to của mình như oán trách lão Hạc. Dường như, lão không dám nhìn vào nó - người bạn tri kỉ của lão suốt quãng thời gian con trai lão đi vắng. Rồi gương mặt của lão, đột nhiên những vết nhăn xô lại với nhau, những giọt nước mắt cứ thế lăn dài trên gương mặt với đầy những nếp nhăn khắc khổ của người từng trải. Rồi lão khóc, khóc hu hu như một đứa trẻ rồi cứ thế nhìn dáng hình cậu Vàng xa dần ngôi nhà của lão với cặp mắt đầy những vẻ ăn năn, ân hận và khổ đau. Có lẽ, từ trước đến giờ, tôi chưa bao giờ thấy lão khóc và đau khổ đến như vậy. Và có lẽ, điều này sẽ ám ảnh cụ mãi không thôi, nỗi đau ấy sẽ còn mãi cạnh lão trong suốt những tháng ngày về sau.

Nhìn lão như vậy, tôi thấy thương lão thật nhiều và cũng thật cảm động trước tình cảm, tấm lòng của lão, tôi muốn chạy vào an ủi lão nhưng lại sợ làm một người giàu lòng tự trọng như lão bị tổn thương nên đành quay về nhà. Đã nhiều năm trôi đi, nhưng nét mặt khắc khổ, đau đớn và ánh mắt đầy vẻ dằn vặt, ăn năn của lão Hạc lúc bán cậu Vàng cứ vẫn mãi trong tâm trí tôi.