Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng

Thực dân có sự hậu thuẫn của Anh đã quay trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã quyết tâm chiến đấu chống Pháp, Trước ngày 6/3/2916, Đảng chủ trương hòa với Trung Hoa Dân quốc để tập trung đánh Pháp ở miền Nam; từ ngày 6/3/1946 đến 19/12/1946, Đảng chủ trương hòa với Pháp để đuổi quân Trung Hoa Dân quốc về nước, đánh dấu bằng việc kí với Pháp Hiệp định Sơ bộ

III. ĐẤU TRANH CHỐNG NGOẠI XÂM, NỘI PHẢN, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG

1. Kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược ở Nam Bộ

- Ngay sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, chính phủ Pháp thành lập đạo quân viễn chinh do tướng Lơcơléc chỉ huy, cử Đácgiăngliơ làm Cao ủy Đông Dương để tái chiếm Đông Dương.

- Ngày 02/09/1945, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức mít tinh chào mừng “Ngày Độc lập”, Pháp xả súng vào đám đông là nhiều người chết và bị thương.

- Ngày 6/9/1945 quân Anh vào giải giáp quân Nhật, đến Sai gòn, theo sau là quân Pháp, yêu cầu ta giải tán lực lượng vũ trang, thả hết tù binh Pháp

- Đêm 22 rạng sáng 23/09/1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, Pháp đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, xâm lược nước ta lần thứ hai.

Quân dân Nam Bộ nhất tề đứng lên chiến đấu chống quân xâm lược, đột nhập sân bay tân Sơn Nhất, đốt cháy Tàu Pháp, đánh kho tàng, phá nhà giam.

- Phối hợp với lực lượng vũ trang, nhân dân Sài Gòn phá nguồn tiếp tế của địch, dựng chướng ngại vật và chiến lũy trên đường phố, … chợ không họp tàu xe ngừng chạy, điện, nước bị cắt => Quân Pháp bị bao vây trong thành phố.

- Từ 5/10/1945, sau khi có thêm viện binh, Pháp phá vòng vây Sài Gòn – Chợ Lớn, mở rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

- Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch lãnh đạo cả nước chi viện cho Nam Bộ và Nam Trung bộ kháng chiến, các đoàn quân “Nam tiến” sát cánh cùng nhân dân Nam Trung Bộ chiến đấu; tổ chức quyên góp giúp nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến.

2. Đấu tranh với Trung hoa Dân Quốc và bọn phản cách mạng ở miền Bắc

a, Đối với quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng

- Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch chủ trương tạm thời hòa hoãn, tránh xung đột với quân Trung Hoa Dân Quốc tráng trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc.

- Tháng 3/1946 Quốc hội khóa I đồng ý:

+ Nhượng cho Việt Quốc, Việt cách 70 ghế trong Quốc hội,4 ghế Bộ trưởng trong Chính phủ liên hiệp, cho Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) giữ chức Phó Chủ tịch nước.

+ Kinh tế: cung cấp một phần lương thực thực phẩm, phương tiện giao thông vận tải, nhận tiêu tiền Trung Quốc.

- Ngày 11-11-1945, Đảng cộng sản Đông Dương tuyên bố “tự giải tán” nhưng là tạm thời rút vào hoạt động bí mật, tiếp tục lãnh đạo chính quyền cách mạng.

=> Nhằm giảm bớt sức ép của kẻ thù, tránh hiểu lầm và đảm bảo lợi ích dân tộc.

b, Đối với các tổ chức phản cách mạng, tay sai.

- Kiên quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại của chúng, nếu có đủ bằng chứng thì trừng trị theo pháp luật.

- Ban hành một số sắc lệnh trấn áp bọn phản cách mạng.

* Ý nghĩa: hạn chế mức thấp nhất các hoạt động chống phá của Trung Hoa Dân Quốc và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chúng.

3. Hòa hoãn với Pháp nhằm đẩy quân Trung Hoa Dân Quốc ra khỏi nước ta. Hiệp định Sơ bộ Việt - Pháp (6/3/1946)

a, Nguyên nhân việc ta hòa hoãn với Pháp (Hoàn cảnh ký Hiệp định Sơ bộ Việt - Pháp 6/3/1946):

- Sau khi chiếm Nam Bộ, Pháp thực hiện kế hoạch tiến quân ra bắc nhằm thôn tính cả nước ta.

- Ngày 28/2/1946, Pháp và Trung Hoa Dân Quốc ký “Hiệp ước Hoa – Pháp

+ Pháp trả lại một số quyền lợi về kinh tế, chính trị cho Trung Hoa Dân Quốc và cho Trung Quốc vận chuyển hàng hoá qua cảng Hải Phòng miễn thuế.

+ Đổi lại Trung Hoa Dân quốc cho Pháp đưa quân ra Bắc giải giáp quân đội Nhật.

- “Hiệp ước Hoa – Pháp” đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn:

+ Hoặc cầm súng chiến đấu chống thực dân Pháp.

+ Hoặc hòa hoãn, nhân nhượng Pháp để tránh tình trạng phải đối phó một lúc với nhiều kẻ thù.

- Ngày 3-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp, do Hồ Chí Minh chủ trì, chọn giải pháp “hòa để tiến”.

b, Nội dung Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946

Ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp bản “Hiệp định Sơ bộ” tại Hà Nội với nội dung:

- Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự do, có Chính phủ, Nghị viện, quân đội và Tài chính riêng là thành viên của Liên bang Đông Dương nằm trong khối Liên Hiệp Pháp.

- Chính phủ Việt Nam thỏa thuận cho 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay quân Trung Hoa Dân Quốc giải giáp quân Nhật, và số quân này sẽ đóng tại những địa điểm quy định và rút dần trong thời hạn 5 năm.

- Hai bên ngừng xung đột ở miền Nam, tạo thuận lợi đi đến đàm phán chính thức về vấn đề ngoại giao của Việt Nam, chế độ tương lai của Đông Dương, quyền lợi kinh tế và văn hóa của người Pháp ở Việt Nam.

c, Ý nghĩa

- Tránh được việc phải đương đầu cùng lúc với nhiều kẻ thù, đẩy được 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc và tay sai ra khỏi nước ta.

- Có thêm thời gian hòa bình để củng cố, chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến lâu dài chống Pháp.

d. Tạm ước Việt – Pháp (14 /9/1946)

- Ta tranh thủ điều kiện hòa bình để ra sức củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng về mọi mặt, chuẩn bị để đối phó với thực dân Pháp.

- Thực dân Pháp liên tiếp vi phạm Hiệp định: Gây xung đột ở Nam Bộ, tìm cách trì hoãn và phá hoại các cuộc đàm phán, làm cho cuộc đàm phán ở Phôngtennơblô giữa hai Chính phủ bị thất bại. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh đến gần.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Pháp Tạm ước 14/09/1946, nhân nhượng cho Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hóa, tạo điều kiện cho ta có thêm thời gian xây dựng, củng cố lực lượng, chuẩn bị vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp lâu dài.           

Câu hỏi trong bài