Tác giả, Tác phẩm văn 11 – Tương tư

Tương tư

I. Tác giả

1. Tiểu sử - Cuộc đời

- Nguyễn Bính (1918 - 1966), tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính.

- Quê quán: Làng Thiện Vịnh, xã Đồng Đội, Vụ Bản, Nam Định.

- Gia đình: nhà Nho nghèo, mồ côi cha mẹ sớm.

- 1945 - 1954: tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ.

- 1954 tập kết ra Bắc, tham gia công tác văn nghệ và làm báo.

- Mất đột ngột 20/01/1966.

- Nguyễn Bính là một người thông minh, nhạy cảm với thời đại đầy biến động, luôn muốn bảo tồn và duy trì những giá trị truyền thống của dân tộc.

2. Sự nghiệp văn học

a. Tác phẩm chính

- Ông làm thơ từ rất sớm (năm 13 tuổi), sáng tác nhiều thể loại (thơ, truyện thơ, chèo...).

- Các tác phẩm chính: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang (1940), Mười hai bến nước (1942), Truyện thơ Cây đàn Tỳ bà (1944), Gửi người vợ miền Nam (1955)...

b. Phong cách thơ

Nguyễn Bính là nhà thơ có hồn thơ đậm chất quê:

* Nội dung:

- Nhà thơ nhạy cảm với thời đại đầy biến động, đặc biệt là sự xáo trộn của văn chương, ông thể hiện sâu sắc nỗi day dứt không yên của tâm hồn thiết tha với những giá trị cổ truyền đang có nguy cơ bị mai một (Chân quê). Vì thế, Nguyễn Bính đã đào sâu, tích hợp và phát huy một cách xuất sắc nhữngtruyền thống dân gian trong sáng tạo Thơ mới. Thơ ông mang đậm chất quê, hồn quê trong cả nội dung và hình thức, là sự hòa quyện giữa giọng điệu quê, lối nói quê, lời quê.

- Gắn bó, thấu hiểu con người thôn quê Việt Nam.Dù viết về hình ảnh, cảnh sắc, con người nào thì tất cả đều thắm đượm một tình quê, duyên quê, hồn quê....

* Hình thức:

- Hình ảnh thơ bình dị: cây đa, bến nước...

- Thê thơ dân tộc: Lục bát.

- Ngôn ngữ: sử dụng yếu tố của ca dao dân ca...

II. Tác phẩm

1. Tìm hiểu chung

a. Xuất xứ - Hoàn cảnh ra đời

- Được rút trong tập Lỡ bước sang ngang (1940).

- Hoàn cảnh ra đời: Viết tại làng Hoàng Mai (quận Hoàng Mai, Hà Nội) năm 1939.

b. Nhan đề

- Tương tư: nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa, là hiện thân của tình yêu (một tâm hồn đang nhớ và một trái tim đang yêu).

- Khoảng cách về không gian, thời gian chính là cái cớ để tương tư => Tương tư là khao khát, là nỗ lực vượt không gian và chiến thắng thời gian để được gần kề.

=> Dạng thức đa dạng, phức tạp nhất nhưng cũng sống động nhất của tình yêu.

c. Bố cục: 2 phần

- Phần 1: 16 câu đầu: Nỗi tương tư của chàng trai.

- Phần 2: 4 câu còn lại: Ước vọng lứa đôi hòa hợp.

2. Tìm hiểu chi tiết

a. Nỗi tương tư của chàng trai

- Diễn biến tâm trạng của tương tư:

+ Nhớ nhung

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông.

Một người chín nhớ mười mong một người.

+ Băn khoăn, hờn dỗi

Hai thôn chung lại một làng

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này.

+ Than thở

Ngày qua ngày lại qua ngày

Cây xanh đã nhuộm thành cây lá vàng.

+ Hờn trách nhẹ nhàng

Bảo rằng cách trở đò giang

Không sang là chẳng đường sang đã đành.

+ Nôn nao mơ tưởng

Bao giờ bến mới gặp đò

Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau.

+ Ước vọng xa xôi

Nhà em có một giàn trầu…

Nhà anh có một giàn cau liên phòng.

=> Tất cả diễn ra theo lối xen lồng, chuyển hóa rất tự nhiên, chân thực.

- Sự phức tạp tâm lí mang quy luật của tình yêu:

+ Vô lí mà hữu tình: Tạo ra một tình huống để giãi bày nỗi niềm, tâm trạng tương tư.

+ Có mà không có:

Câu hỏi tu từ: Cớ sao…? Có xa xôi mấy mà…? Biết cho ai…? Bao giờ…?

=> Trách móc nhẹ nhàng, dễ thương; là lời trách yêu, lời độc thoại nội tâm vang lên vì thương nhớ.

=> Đó là những biến thể khác nhau của lời tình tứ mà thôi.

- Không gian và thời gian tương tư:

+ Không gian rộng mở, xa cách:

> Không gian thực rất gần (cách nhau một đầu đình, chung một làng…)

> Không gian tâm lí lại rất xa (tình xa xôi…)

=> Sự đối lập giữa cảnh và tình.

+ Thời gian tương tư là thời gian đằng đẵng, vô tận. (Tương tư thức mấy đêm rồi). Mấy đêm vốn không phải là nhiều như “nghìn đêm”, “ba thu” nhưng ở đây mang sắc thái như là vô hạn, triền miên.

=> Sự đối lập giữa thời gian vật lí và thời gian tâm lí: Thời gian càng chậm, tâm trạng càng nặng nề, tâm trạng càng mòn mỏi nôn nóng, thời gian càng chậm chạp lê thê.

- Câu lục với điệp từ “ngày” và cách ngắt nhịp 3/3, khiến chữ “lại” ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu.

=> Ngày mới chỉ còn lại là sự lặp lại ngày cũ một cách chán ngán, vô vọng. Giọng thơ vang lên như một lời than thở, kể lể ngán ngẩm.

- Câu thơ “Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng” diễn tả quan hệ thời gian và tâm trạng tinh tế và ý nhị.

+ Thời gian có màu. Chữ “nhuộm” diễn tả thời gian chậm chạp. ( So sánh với chữ “nhuốm” trong: Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san – Nguyễn Du ). “Nhuốm” là sự biến đổi sắc màu diễn ra ở bề mặt, chưa hoàn tất. Còn “nhuộm” có vẻ đã hoàn tất và thấm sâu vào bên trong. Chữ “nhuộm” để ngỏ chủ thể. Ai nhuộm? Không hẳn thời gian, không hẳn là nội tại của cây lá mà có lẽ là nỗi tương tư.

+ Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã “nhuộm” cây héo úa.

=> Kẻ tương tư và cây úa vàng có mối tương giao kì lạ. Cây vừa là nhân chứng vừa là đồng minh với kẻ tương tư; vừa là nạn nhân cũng là hiện thân của nỗi tương tư đó.

b. Bức tranh quê trữ tình nhuốm nỗi tương tư

- Sự hòa quyện của tình quê với cảnh quê:

+ Nỗi tương tư của chàng trai

+ Gắn liền với khung cảnh và cây cỏ chốn quê bao đời (Thôn làng, đầu đình, bến đò, hoa bướm, giàn trầu, hàng cau…)

=> Cảnh thôn quê trở thành phương tiện, ngôn ngữ để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị.

- Người tương tư, cảnh cũng tương tư: Bài thơ đã tạo ra hai nỗi tương tư song hành và chuyển hóa, gắn với hai chủ thể và hai đối tượng: Người nhớ người và thôn nhớ thôn. Sâu xa hơn nó còn biểu đạt quy luật tâm lí:khi tương tư thì cả không gian sinh tồn bao quanh chủ thể như cũng nhuốm nỗi tương tư ấy.

=> Vì thế có hai miền không gian nhớ nhung tràn ngập cả bài thơ.

- Dấu ấn dân gian trong bài thơ:

+ Dùng chất liệu ngôn từ:

> Địa danh (Thôn Đoài, thôn Đông); thành ngữ (chín nhớ mười mong)

> Dùng số từ (một, chín, mười); cách tổ chức lời thơ độc đáo: đẩy đối tượng về hai đầu câu thơ tạo khoảng cách xa (Một người…một người) giữa họ là nhịp cầu “chín nhớ mười mong”

> Cấu trúc câu trùng điệp (Gió mưa là…Tương tư là…, Nhà em có…Nhà anh có…)

> Phép điệp và phép đối quen thuộc của ca dao: (Ngày qua ngày lại qua ngày…)

> Đại từ phiếm chỉ “ai” ý nhị, duyên dáng, kín đáo (Biết cho ai hỏi ai người biết cho…) ... Tất cả các cách diễn đạt từ ca dao dân ca ấy hòa quyện vào từng câu thơ, ý thơ hết sức nhuần nhị.

+ Giọng điệu: Là giọng kể lể, giọng của điệu nói (Bảo rằng…, Đã đành…, Nhưng đây…, Có…mấy mà…).

c. Khát vọng lứa đôi trong tình yêu

- Sự hiện diện hàng loạt những hình ảnh cặp đôi cho thấy đằng sau nỗi tương tư là niềm khao khát gần kề, khao khát chung tình:

+ Thôn Đoài/ Thôn Đông

+ Một người/ một người

+ Gió mưa/ tương tư

+ Tôi/ nàng

+ Bên ấy/ bên này

+ Hai thôn/ một làng

+ Bến/ đò

+ Hoa khuê các/ bướm giang hồ

+ Nhà anh/ nhà em

+ Giàn trầu/ hàng cau

+ Cau thôn Đoài/ trầu thôn Không

+ Trình tự xuất hiện những cặp đôi: Từ xa đến gần, cuối cùng dừng lại ở cặp đôi trầu – cau.

=> Đó chính là khao khát nhân duyên. Tình yêu gắn với hôn nhân là quan niệm về tình yêu trong thơ Nguyễn Bính, cũng rất gần với quan niệm truyền thống của dân gian (Bài ca dao tát nước đầu đình)

=> Chất quê thấm vào hồn thơ Nguyễn Bính, làm nên giá trị nhân văn bài thơ.

d. Giá trị nội dung

- Bài thơ là tiếng lòng về một tình yêu trong sáng, đơn phương, mạnh mẽ.

- Thế hiện tình cảm chân thành, thấm đượm hồn quê Việt với nhiều nét đẹp văn hóa dân gian.

e. Giá trị nghệ thuật

- Thể thơ lục bát: đậm đà tính dân tộc, mang tính chất biểu cảm nổng nàn.

- Ngôn ngữ: dung dị, hồn nhiên, dân dã nhưng vẫn đậm chất lạng mạn, thơ mộng.

- Hệ thống ẩn dụ, hoán dụ đặc sắc và sáng tạo.

- Hình ảnh sóng đôi: trầu - cau, bến - đò, hoa - bướm, thôn Đoài - thôn Đông; quan niệm về tình yêu gắn bó, thủy chung...

- Thi liệu dân gian: Bài thơ mang vẻ đẹp chân quê, tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính.

III. Phân tích tác phẩm

a) Dàn ý

I. Mở bài

Trong các nhà Thơ mới, Nguyễn Bính được xem là nhà thơ thành công trong mảng thơ dân dã. Bài thơ dân dã nào của ông cũng dậy lên được hồn quê. Hồn quê ấy là sự hòa điệu của nhiều yếu tố thuộc cả nội dung và hình thức, nhưng nổi bật vẫn là sự hòa quyện giữa giọng điệu quê với lối nói quê và lời quê, đặc biệt là qua bài thơ Tương tư (Ghi lại bài thơ).

II. Thân bài

A. Tương tư

– Tương tư là nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa. Nhưng trên thực tế, từ “tương tư” thường dùng diễn tả nỗi nhớ đơn phương. Tương tư là tâm trạng nảy sinh khi có sự xa cách về không gian và cả về thời gian (cũng có nhưng khi chưa có xa cách thực, vẫn nảy sinh tương tư). Ngọn nguồn của nỗi tương tư là khao khát được gần kề, được chung tình.

Vì thế, tâm lí tương tư thường có hai mặt trái ngược và biện chứng với nhau. Một mặt, khoảng cách thực được nhân lên gấp bội, trở nên xa diệu vợi hơn sự thực. Mặt khác, nhớ thương chính là một nỗ lực để vượt lên khoảng cách, giăng qua thời gian và không gian như một nhịp cầu vượt qua mọi xa cách. Đồng thời, tâm lí tương tư cũng phức tạp: không chỉ có nhớ nhung, thương cảm, mà còn đầy những ước ao và có cả giận hờn, trách móc.

Vì vậy khi giãi bày nỗi tương tư, không chỉ có nhưng lời bộc bạch xuôi chiều, còn có cả nhưng lời dỗi hờn bóng gió, thậm chí nhưng lối nói mát mẻ, vòng vo, lấp lửng. Nhưng do xuất phát từ nỗi nhớ thương và khao khát dành cho nhau nên tất cả những lời ấy đều dễ thương, dễ nghe. Như vậy, tương tư chính là dạng thức sống động nhất của tình yêu, không chỉ biểu hiện nỗi nhớ nhung đơn thuần mà còn là một phức hợp cảm xúc đa dạng với những diễn biến không hề xuôi chiều.

– Nỗi tương tư trong bài thơ này diễn biến qua những sắc thái cảm xúc chính đanxen và chuyển hóa nhau rất tự nhiên, chân thực:

Nhớ nhung: câu 1 – câu 4.

Băn khoăn hờn dỗi: câu 5, câu 6.

Than thở: câu 7, câu 8.

Hờn trách mát mẻ: câu 9 – câu 14.

Nôn nao mơ tưởng: câu 15, càu 16.

Ước vọng xa xôi: câu 17 – câu 20.

B. Lời bộc bạch của chàng trai

- Trong bài thơ, chàng trai có ý trách cô gái.

Bề ngoài, điều này là vô lí. Trong tình yêu, người chủ động phải là anh con trai, đằng này anh lại trong vai thụ động ngồi đợi chờ. Đã thụ động đợi chờ mà còn trách móc.

Nhưng bên trong lại không vô lí. Tác giả tạo ra một tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm. Đặt chàng trai vào vai thụ động chờ đợi mới có thể bộc bạch được tâm trạng tương tư. Hơn nữa, chàng trai hờn trách vì yêu. Do nỗi nhớ dày vò, người trong cuộc dễ tưởng mình bị hờ hững, nên sinh ra “hờn ngược trách xuôi”. Nói khác đi, trách chỉ là một cách bộc bạch tình yêu, cũng gọi là “trách yêu”.

Nỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái càng đậm nét chân quê hơn vì gắn liền với cảnh vật chốn quê: thôn làng, Đoài – Đông, đò giang, đầu đình, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau… Tất cả tạo ra không gian quê kiểng cho nhân vật trữ tình bày tỏ mối tương tư, vừa là phương tiện vừa là ngôn ngữ để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị. Và như thế, tình và cảnh sẽ quyện vào nhau.

C. Đặc sắc nghệ thuật

Thể thơ lục bát là dấu ấn sâu đậm trong phong cách thơ Nguyễn Bính. Trong bài Tương tư này, những câu lục bát của tác giả vừa hiện đại vừa phảng phất ca dao, mang được cái hồn của ca dao ở giọng điệu, cách ví von, cách lựa chọn và tổ chức lời thơ, cách đưa khẩu ngữ nhuần nhuyễn vào thơ.

Tạo hình ảnh độc đáo: hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gái thôn Đông khiến cho thi sĩ mở rộng ra, khái quát lên thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Đây không chỉ đơn thuần là cách nói vòng, mà tạo ra hai nỗi nhớ song hành và chuyển hóa, gắn với hai chủ thể và hai đối tượng: người nhớ người và thôn nhớ thôn. Chính vì có người nhớ người mà có thôn nhớ thôn, tạo cơ sở cho thủ pháp nhân hóa: Thôn Đoài ngồi nhớ… Nhưng sâu xa hơn, lời thơ còn biểu đạt được một quy luật tâm lí. Khi tương tư, cả không gian bao quanh chủ thế cũng nhuốm nỗi tương tư ấy (nhìn theo con mắt người trong cuộc), vì thế mà có hai miền không gian nhớ nhau. Tràn đầy cả bầu không gian tạo ra bởi hai thôn ấy là một nỗi nhớ nhung.

Nghệ thuật dùng chất liệu ngôn từ chân quê, dân gian: địa danh thôn Đoài, thôn Đông, thành ngữ chín nhớ mười mong, số từ “một”, “chín”, “mười”, “một”. Cách tổ chức lời thơ độc đáo đã đẩy đối tượng về hai đầu câu thơ tạo khoảng cách xa: Thôn Đoài… thôn Đông, Một người… một người. Nhất là câu sau, hai đối tượng ở hai đầu xa cách, giữa họ là nhịp cầu chín nhớ mười mong. Lối sử dụng ngôn ngữ này gợi được phong vị dân dã, góp phần thể hiện được giọng điệu kể lể rất phù hợp với việc bộc bạch nỗi nhớ mong.

III. Kết bài

Bài thơ Tương tư ghi đậm phong cách thơ Nguyễn Bính với thể lục bát tích hợp và phát huy một cách xuất sắc những truyền thống dân gian trong sáng tạo Thơ mới. Bài thơ cũng thể hiện tâm trạng tương tư của một chàng trai quê với những diễn biến chân thực mà tinh tế, trong đó mối duyên quê và cảnh quê hòa quyện với nhau thật nhuần nhị.

b) Phân tích tác phẩm

Phân tích tác phẩm Tương tư – Bài văn mẫu số 1

Nguyễn Bính (1918 - 1966) tên khai sinh là Nguyễn Bính Tuyết. Thuở nhỏ, ông học ở quê nhà, biết làm thơ từ năm 13 tuổi. Năm 1937, tập thơ Tâm hồn tôi được Tự lực văn đoàn trao giải. Năm 1945, Nguyễn Bính vào Nam Bộ. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ rồi kháng chiến chống Pháp, ông ở lại tham gia kháng chiến Nam Bộ, phụ trách đoàn Văn hóa Cứu quốc tỉnh Rạch Giá. Sau đó, ông chuyển sang công tác ở Ban văn nghệ khu Tám, sáng tác thơ, viết truyện kí và tùy bút. Năm 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, tiếp tục sáng tác, là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1956, ông chủ trương tờ báo Trâm hoa. Cuối đời, ông sống ở Nam Định.

Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Song trong khi hầu hết các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của thơ ca lãng mạn Pháp thì Nguyễn Bính về với văn hóa dân gian, gắn bó với môi trường bình dị, thân thuộc của đồng quê, qua những hàng cau, giàn trầu, rặng mồng tơi, cây đa, giếng nước, sân đình... Cùng với Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân... ông đã góp một dòng thơ, phái thơ riêng - Thơ mới dân gian, làm phong phú hơn cho thơ mới.

Tương tư rút tong tập thơ Lỡ bước sang ngang, tập thơ nổi tiếng và tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính trước cách mạng. “Tương tư’ có nghĩa là nhớ nhau, nhưng tâm trạng tương tư không chỉ đơn thuần là nhớ nhung. Nỗi tương tư trong bài thơ này là một phức hợp các cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không hề xuôi chiều. Bắt đầu là sự nhớ nhung:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười thương một người

Rồi đến băn khoăn hờn dỗi:

Hai thôn chung lại một làng

Cớ sao bên ấy không sang bên này?

Đến than thở:

Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

Đến hờn trách mát mẻ:

Bảo rằng cách trở đò ngang

Không sang là chẳng đường sang đã đành

Nhưng đây cách một đầu đình

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?

Rồi nôn nao mơ tưởng:

Bao giờ bến mới gặp đò

Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nha

Đến những ước vọng xa xôi:

Nhà em có một giàn giầu

Nhà anh có mốt hàng cau liên phòng

Tất cả diễn biến theo lối xen lồng và chuyển hóa nhau rất tự nhiên, chân thực. Trong bài thơ, chàng trai có ý trách móc cô gái: Bề ngoài, điều này là vô lí. Trong tình yêu, người chủ động đi đến phải là người con trai, đằng này lại trong vai thụ động ngồi chờ đợi mới có thể bộc bạch được tâm trạng tâm tư của một người trai quê như thế.

Thứ hai, lối trách móc này không phải vì ghét, không giống như sự qui kết trách nhiệm, đỗ lỗi thông thường. Mà trách vì yêu. Do quá mong nhớ, bị nỗi nhớ mong giày vò người trong cuộc dễ tưởng mình bị hờ hững, nên sinh ra “hờn ngược, trách xuôi” thôi, không có hàm ý ghét bỏ. Nói khác đi, trách chỉ là một cách bộc bạch tình yêu. Người đời cũng gọi thế là “trách yêu”. Người xưa nói:

“Nhất nhật bất kiến như tam thu hề”

(Một ngày không gặp mặt dài như ba mùa thu)

Để chỉ nỗi nhớ mong của những người đang yêu. Trong bài thơ này, tâm trạng đang chờ đợi, nhớ mong cũng được diễn đạt bằng những hình ảnh thật sắc sảo:

Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm dã thành cây lá vàng

Câu lục ngắt nhịp 3/3 phá đi cái nhịp thông thường của thơ lục bát (2/2/2). Ý và lời vế sau lặp lại vế trước. Cách ngắt nhịp này khiến chữ” lại” ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó gợi được dòng thời gian cứ trôi qua hết sức chậm chạp, ngày mới chỉ còn là sự lặp lại ngày cũ một cách chán ngán và vô vọng.

Cả việc ngắt nhịp, lặp lại vế câu và nói nhấn giọng ở chữ “lại” khiến cho giọng thơ vang lên như một lời than thở, kể lể ngán ngẩm. Tất cả điều đó làm hiện lên hình ảnh của một người con trai với tâm trạng nóng lòng chờ trông đến mỏi mòn.

Câu hát diễn tả thời gian và tâm trạng một cách thật tinh tế và ý nhị. Thời gian diễn ra ở câu trên đã chậm chạp sốt ruột, nhưng mới qua lời kể lể thôi. Đến câu này, thời gian mới hiện lên sinh động. Thời gian có màu, đúng hơn, thời gian hiện lên qua việc chuyển màu: lá xanh chuyển thành lá vàng. Ngày anh bắt đầu đợi chờ, cây hãy còn xanh, đến nay lá xanh đã ngả sang vàng cả rồi, thế mà vô vọng vẫn hoàn vô vọng.

Thời gian càng chậm, tâm trạng càng nặng nề, tâm trạng càng mỏi mòn nôn nóng, thời gian càng chậm chạp lê thê. Nhưng điều tinh tế nhất là ở chữ “nhuộm". Thứ nhất, “nhuộm” diễn tả được thời gian chậm chạp. Thứ hai,” nhuộm” để ngỏ chủ thể. Ai nhuộm? Chủ thể này hàm ẩn. Không gian thời gian, cũng không hẳn là sự chuyển biến nội tại của cây lá.

Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã nhuộm cây héo úa. Kẻ tương tư và cái cây ấy có mối tương giao thật kì lạ. Cây vừa là nhân chứng của mối tương tư, là đồng minh của kẻ tương tư, là nạn nhận của bệnh tương tư, mà tựu trung, là hiện thân của nỗi tương tư đó. Có thể xem cái kia cũng là cây tương tư được chứ sao!.

Lối diễn đạt như thế thật tinh tế, ý nhị. Nỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái này càng đậm nét chân quê hơn vì nó gắn liền với khung cảnh và cây cỏ chốn quê.

Trong nỗi nhớ nhung của chàng trai hiện lên những chi tiết về những địa danh, cảnh vật, cây cỏ... thuộc về chốn quê bao đời: thôn Đoài, thôn Đông, đò giang, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau... Những chi tiết này vừa tạo ra không gian quê kiểng cho nhân vật trữ tình bày tỏ mối tương tư, vừa là phương tiện, thậm chí, là ngôn ngữ nữa để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị.

Có như thế, tình và cảnh mới có thế hòa quyện vào nhau được. Trong bài thơ này, trước hết thể hiện ở cách tạo ảnh độc đáo: hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gái thôn Đông, đã khiến cho thi sĩ mở rộng ra và khái quát thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông.

Đây không chỉ đơn thuần là cách nói vòng, mà quan trọng hơn, nó tạo ra hai nỗi nhớ song hành và chuyển hóa, gắn với hai chủ thể và hai đối tượng: người nhớ người và thôn nhớ thôn, chính vì có người nhớ người mà có thôn nhớ thôn. Nó tạo ra cho thủ pháp nhân hóa: “Thôn Đông ngồi nhớ...”. Nhưng sâu xa hơn, nó còn biểu đạt được cả một quy luật tâm lí. Khi tương tư, thì cả không gian sinh tồn bao quanh chủ thể như cũng nhuốm mọi tương tư ấy, vì thế mà có hai miền không gian nhớ nhau. Tràn đầy cả bầu không gian tạo ra bởi hai thôn ấy là một nỗi nhớ nhung.

Thứ hai, nó được thể hiện nghệ thuật sử dụng các chất liệu ngôn từ chân quê, dân gian, địa danh “thôn Đoài”, “thôn Đông” dùng thành ngữ “chín nhớ mười mong”, dùng số từ “một”, “chín”, “mười”,... cách tổ chức lời thơ độc đáo: nhà thơ đã sử dụng bút pháp tài tình để tạo ra khoảng cách, “thôn Đoài... thôn Đông”, “một người... một người”.

Nhất là ở câu sau, hai đối tượng ở hai đầu xa cách, giữa họ là nhịp cầu “chín nhớ mười mong”. Lối sử dụng ngôn từ này đã gợi được phong vị chân quê và thể hiện được giọng điệu kể lể rất phù hợp với việc bộc bạch nỗi tương tư của nhân vật trữ tình.

Khát vọng lứa đôi trong mối tương tư này còn được biểu hiện tinh vi bằng nhiều cặp đôi trong bài: thôn Đoài – thôn Đông, một người - một người, gió mưa - tương tư, tôi - nàng, bên ấy - bên này, hai thôn - một làng, bến - đò. hoa khuê các - bướm giang hồ, nhà anh - nhà em, giàn giầu - hàng cau, cau thôn Đoài - giầu thôn Đông.

Các cặp đôi trên xuất hiện theo trình tự từ xa đến gần, cuối cùng dừng lại ở cặp đôi giầu - cau. Điều ấy cho thấy rõ, bên dưới nỗi tương tư là niềm khát khao gần kề, khao khát chung tình, khao khát nhân duyên, tình yêu gắn với hôn nhân là một đặc điểm quan niệm tình yêu trong thơ Nguyễn Bính(cũng giống với ca dao). Điều này thêm một minh chứng để khẳng định thêm rằng chất truyền thống, chất chân quê đã thấm sầu và hồn thơ Nguyễn Bính.

Những nét truyền thống về nghệ thuật: Đề tài tương tư, những hình ảnh thơ truyền thống (lá trầu xanh, trầu vàng, cau liên phòng, cách trở đò giang...) thể thơ lục bát... Những cách tân nghệ thuật: Vận dụng sáng tạo thành ngữ “cách trở đò giang” - Yêu nhau mấy núi cũng trèo/ Mấy sông cũng lội mây đèo cũng qua”, “chín nhớ mười mong”...

Phân tích tác phẩm Tương tư – Bài văn mẫu số 2

Với phong cách thơ bình dị, nhẹ nhàng, chân chất; Nguyễn Bính được xem là nhà thơ của đồng nội. Thơ Nguyễn Bính đi sâu vào tâm hồn người đọc bằng chất "quê" đặc biệt, chất "quê" của nông thôn Việt Nam. Tình yêu trong thơ ông rất đỗi ngọt ngào, sâu lắng và dìu dặt như chính con người ông. Bài thơ "Tương tư" rút trong tập "Lỡ bước sang ngang" giãi bày tâm sự thầm kín của một người đang yêu, đang thương nhớ, đang khắc khoải và mong chờ đau đáu.

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Bính đặt tên bài thơ là "Tương tư", đây là cảm giác nhớ thương của một kẻ đang yêu, nói đúng hơn là của kẻ yêu đơn phương, đang mong chờ được đáp lại. Mối tình ấy được ấp ủ, được dồn nén thành lời qua những vần thơ mộc mạc, chân thành nhất:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người

Nắng mưa là bệnh của giời

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng

Một không gian thôn quê hiện lên thật bình dị, đơn sơ, và yên bình đến lạ. Thủ pháp nhân hóa được sử dụng rất tài tình, tinh tế. Tác giả mượn "thôn Đoài" và "thôn Đông" để nói lên nỗi nhớ từ tận sâu đáy lòng của mình. Chắc hẳn rằng người mà tác giả đang tương tư ở thôn Đông, còn tác giả lại ở thôn Đoài. Mối tình ấy ẩn mình trong sự thanh mát và bình dị của đồng quê.

Tinh tế và sâu sắc hơn nữa tác giả đã mượn chuyện nắng của của giời để trải lòng mình. Tác giả coi "tương tư" là một căn bệnh đã tiềm ẩn trong chính con người mình, cũng rất đỗi bình thường như bao chuyện khác, giống như quy luật của đất trời.

Chỉ với 4 câu thơ ấy, đã khiến người đọc thích thú muốn tìm hiểu về mối tương tư của anh chàng thôn Đoài và cô nàng thôn Đông này. Tuy nhiên đến những câu thơ tiếp theo, dường như lại là lời trách móc nhẹ nhàng và rất chừng mừng. Trách cô gái hững hờ, trách người ta sao lại vờ như không biết gì như thế:

Hai thôn chung lại một làng,

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

Ngày qua ngày lại qua ngày,

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.

Bảo rằng cách trở đò giang,

Không sang là chẳng đường sang đã đành.

Những đây cách một đầu đình,

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?

Tương tư thức mấy đêm rồi,

Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?

Bao giờ bến mới gặp đò?

Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?

Những câu hỏi dồn dập, nối tiếp nhau tạo nên sự bối rối, lo lắng và chồng chất nỗi niềm trong lòng chàng trai đang yêu. Tác giả đã mượn lối nói dân gian của ca dao, dân ca để hỏi dò cô gái sao lại hững hờ như vậy. Giọng điệu của câu thơ nhẹ nhàng, uyển chuyển, tha thiết như truyền tải thông điệp đến cho cô gái.

Từ "cớ sao" như một lời trách nhưng lại rất tế nhị, đáng yêu. Mối tương tư của chàng trai trằn trọc suốt bao nhiêu đêm, nhưng chẳng biết ngỏ cùng ai, rồi cũng chẳng ai thấu cho. Bởi vậy mà chàng trai chỉ chờ đợi "bến gặp đò" để mình có thể gặp nàng. Nỗi băn khoăn trong lòng chàng trai cứ chồng chất, cứ dai dẳng và đợi chờ. Và rồi chàng trai lại tự hỏi:

Nhà em có một giàn giầu,

Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

Nhịp điệu của thơ lục bát uyển chuyển, nhẹ nhàng, tha thiết. Tác giả mượn "giàn trầu" và "hàng cau" để diễn tả nỗi nhớ da diết và quấn quýt như dây trầu quấn lấy thân cau. Nguyễn Bính thật khéo léo và tài hoa khi diễn tả nỗi nhớ bằng những hình ảnh thân quen và mộc mạc ấy. Ở 4 câu thơ này, người đọc nhận ra có sự thay đổi giữa cách xưng hô, tác giả đã mạnh dạn chuyển "tôi-nàng" thành "anh-em" rất táo bạo. Dấu hiệu này chứng tỏ mối tình này đã quá lớn, đã quá sâu và chàng trai muốn giãi bày trực tiếp với cô gái.

Cái "tôi" trữ tình của Nguyễn Bính đã được đẩy cao lên, dám bày tỏ, dám yêu. Nhưng tình cảm đó không táo bạo mà ngược lại rất chân thành, mãnh liệt, đồng thời lại rất tế nhị.

Bằng những vần thơ gần gũi, chân thành, đậm hương vị đồng quê, tác giả đã gieo vào lòng người đọc những tình cảm nhẹ nhàng, tha thiết nhất của những người đang yêu. Bài thơ như một nốt nhạc trong lành và yên bình nhất.

Phân tích tác phẩm Tương tư – Bài văn mẫu số 3

Nguyễn Bính là nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám. Giữa những giọng điệu mới lạ, thơ Nguyễn Bính vẫn giữ được âm hưởng gân gũi với ca dao dân ca, giản dị hồn nhiên mà ngọt ngào, thắm thiết. Tương tư in trong tập Lỡ bước sang ngang, xuất bản năm 1940 tại Hà Nội. Tập thơ này đã mang lại tiếng vang cho tác giả và dấy lên trong đông đảo người đọc một phong trào thuộc thơ, yêu thơ Nguyễn Bính.

Bài thơ Tương tư nói lên tâm trạng khắc khoải chờ mong của một chàng trai đang yêu với tình yêu đơn phương không được đáp đền. Mối tương tư ấy được đặt vào khung cảnh nông thôn với dáng dấp một mối tình chân chất như trong ca dao và mang hương vị đồng quê mộc mạc…

Tâm lí của những kẻ đang yêu là luôn muốn được gần gũi bên nhau. Bởi vậy, một ngày không gặp dài bằng ba thu. Những người đang yêu nhớ nhau mà không gặp được nhau thì sinh ra tương tư. Thường là một người thương nhớ một người mà không được đền đáp lại, trường hợp này trong văn chương mới gọi là tương tư.

Lịch sử tình yêu xưa nay đã ghi nhận bao trái tim Trương Chi tan nát bởi mối hận tình. Chàng trai trong bài thơ này cũng tương tư nhưng có phần nhẹ nhàng hơn bởi tình yêu chưa đặt được cơ sở rạch ròi. Bốn câu thơ đầu bày tỏ nỗi nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu. Chàng trai không giấu là mình tương tư:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

Một người chín nhớ mười mong một người.

Nắng mưa là bệnh của giời

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng…

Mối tương tư ấy được thể hiện bằng những hình thức quen thuộc trong ca dao xưa, ở đây, lối hoán dụ nghệ thuật, thủ pháp nhân hóa và thành ngữ dân gian kết hợp với nhau hài hòa, tự nhiên: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, rồi bệnh của giời, bệnh của tôi… Dường như đất trời cũng chia sẻ nhớ mong, dự phần tương tư với con người.

Tôi yêu nàng, tôi tương tư, nào có khác chi trời lúc gió lúc mưa. Tâm trạng tương tư của chàng trai cũng tự nhiên như quy luật của trời đất vậy. “Cái tôi” trong thơ Nguyễn Bính xuất hiện cùng với những “cái tôi” khác trong Thơ mới lúc bấy giờ; có điều nó mang màu sắc độc đáo bởi nó thiết tha, chân thành, gần gũi với cuộc đời bình dị của người dân quê.

Nó có thôn Đông, thôn Đoài, có chín nhớ mười mong, có giầu, có cau… Tưởng như một đôi trai gái đồng quê mới bén duyên nhau bên hàng rào dâm bụt, bên giậu mùng tơi, vừa rõ ràng mà vừa mơ hồ. Nhân vật tôi thì đã rõ, còn nhân vật nàng thì vẫn thấp thoáng, vu vơ. Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ nói thật là mình đang tương tư thì đến ba khổ thơ sau, nhà thơ trách người mình yêu sao quá hững hờ:

Hai thôn chung lại một làng,

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

Ngày qua ngày lại qua ngày,

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.

Bảo rằng cách trở đò giang,

Không sang là chẳng đường sang đã đành.

Nhưng đây cách một đầu đình,

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?

Tương tư thức mấy đêm rồi,

Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?

Bao giờ bến mới gặp đò?

Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?

Vậy là chàng trai đang nhớ thật, đang tương tự thật, nhưng khổ tâm ở chỗ nhớ thương có đi mà không có lại. Âm điệu thơ lục bát uyển chuyển, mượt mà rất hợp với cách thể hiện dung dị: nào là hai bên chung lại một làng, bên ấy, bên này; nào là Cách nhau có một đầu đình; Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…

Trách móc rồi tự bộc bạch là mình Tương tư thức mấy đêm rồi và ước mong: Bao giờ bến mới gặp đò, Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau? Trách, hỏi liên tiếp, dồn dập mà người ta vẫn hững hờ, xa xôi. Ở đời có những tình yêu như thế bởi đối tượng mình yêu đến tương tư kia lại mơ hồ, vô định. Trách và hỏi đều rơi vào khoảng trống khiến cho nỗi tương tư càng trở nên xót xa, vô vọng.

Vẫn là bên ấy, bên này cách biệt. Ngày qua ngày lại qua ngày, Lá xanh nay đã thành cây lá vàng. Thời gian cứ lạnh lùng trôi mà bên ấy vẫn bằn bặt bóng chim tăm cá. Hỏi làm sao bên này chẳng chờ đợi đến hao mòn, tàn úa? Mơ làm chi đến chuyện bao nhiêu ngói bấy nhiêu tình hay chuyện tam tứ núi, ngũ lục sông…?

Thế là đã rõ: Tất cả đều vu vơ, chỉ có một điều rất thật là nỗi buồn da diết của chàng trai đang tương tư. Yêu người mà chẳng được người yêu, nhớ mong mà chẳng gặp. Một mối tình như thế sẽ kết thúc ra sao? Chàng trai trở lại với ước mơ thầm kín về một cuộc hôn nhân tốt đẹp cùng nỗi băn khoăn, khắc khoải của lòng mình:

Nhà em có một giàn giầu,

Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

Đến lúc này thì không cần vòng vo, ẩn giấu chi nữa, chàng trai không còn xưng tôi mà mạnh dạn xưng là anh và gọi nàng bằng em. Cũng chẳng cẩn bóng gió xa xôi: Bao giờ bến mới gặp đò… hay Tương tư thức mấy đêm rồi… mà nói thẳng đến chuyện hôn nhân:

Nhà em có một giàn giầu,

Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

Thử hình dung cau ấy, giầu này mà kết thành một mâm xinh đẹp thì thật tà đúng nghi lễ cưới xin. Nhưng trớ trêu làm sao: giầu thì ở nhà em, cau lại ở nhà anh. Em ở thôn Đông, anh ở thôn Đoài: Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông. Vậy: Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ? Như vậy là tương tư chưa đi quá nỗi nhớ và nỗi nhớ vẫn chỉ là một bên, một chiều.

Tuy có nhích lên một chút cho thân mật hơn trong cách xưng hô anh và em, nhưng rồi lại quay về nơi ẩn náu cũ: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, nghĩa là chẳng tiến lên được một bước nào. Mon men tới chuyện trầu cau nhưng vẫn không thoát khỏi nỗi buồn bởi nhớ nhung người ta mà chẳng được người ta đền đáp lại.

Cho nên đành chấm dứt nỗi sầu bằng một câu hỏi tu từ: Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ? “Cái tôi” hiện đại bộc lộ một cách tự nhiên dưới hình thức quen thuộc của ca dao xưa: thôn Đoài, thôn Đông… và nhờ dó mà nỗi đau dường như vợi bớt. Cho nên nỗi tương tư cũng mới chỉ đến mức chín nhớ mười mong hoặc thức mấy đêm rồi, kể cả sự vô vọng dường như kéo dài dằng dặc trong không gian và thời gian kia cũng chỉ là chuyện bến chưa gặp đò, hoa chưa gặp bướm mà thôi.

Nguyễn Bính sáng tác Tương tư năm 1939. Bài thơ là một mảnh hồn của nhà thơ, là “cái tôi”mang đậm phong cách Nguyễn Bính: giản dị, hồn nhiên, dân dã mà không kém phần thơ mộng, lãng mạn. Nhà thơ nói chuyện tương tư, kì thực là nói tới khao khát tình yêu và hạnh phúc.

Qua dó khẳng định “cái tôi cá nhân” với quyền được sống đúng nghĩa của nó. Tương tư là một trong nhiều dẫn chứng chứng minh cho nhận xét tinh tế của Tô Hoài: Nguyễn Bính là nhà thơ của tình quê, chân quê, hồn quê.

Phân tích tác phẩm Tương tư – Bài văn mẫu số 4

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét Nguyễn Bính rằng:" Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường". Đúng vậy, con người ấy sống trong từ câu thơ, từng nỗi nhớ da diết. Nỗi nhớ ấy thể hiện rõ nhất trong bài thơ Tương Tư trích từ tập Lỡ Bước Sang Ngang- một tập thơ tiêu biểu của ông trước cách mạng.

Ai trong chúng ta đã một lần " tương tư" sầu nhớ chắc hẳn sẽ thấu hiểu cảm xúc ấy. Tương tư là thương, là nhớ, là bồi hồi khi nghĩ về hình bóng yêu thương. Nó là phức hợp cảm xúc, dậy lên như từng đợt sóng trong lòng:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười thương một người

Nắng mưa là bệnh của giời

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

Mở đầu khổ thơ là nỗi nhớ nhưng là nỗi nhớ gián tiếp qua không gian. Đó là "thôn Đoài" nhớ "thôn Đông", nỗi tương tư giăng mắc khắp không gian bởi lối hoán dụ quen thuộc trong ca dao xưa. Kín đáo mà không kém phần tâm tình tha thiết và sâu sắc hơn nữa tác giả lấy chuyện nắng chuyện mưa, mượn "căn bệnh" vốn dĩ của giời để trải lòng mình.

Tác giả coi "tương tư" là một căn bệnh đã tiềm ẩn trong chính con người mình, cũng rất đỗi bình thường như bao chuyện khác, giống như quy luật của thiên nhiên tạo hóa vậy. Bốn câu thơ ấy mở ra nỗi nhớ khiến người đọc thích thú tò mò về mối tương tư của anh chàng thôn Đoài và cô nàng thôn Đông ngày ấy.

Đến những câu thơ tiếp theo, ta như nghe thấy lời trách móc nhẹ nhàng và rất kín đáo thôi. Trách cô gái hững hờ, trách cô gái kia sao lại vờ như không biết gì về nỗi lòng ta:

Hai thôn chung lại một làng

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này

Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

Bảo rằng cách trở đò giang

Không sang lại chẳng đường sang đã đành

Nhưng đây cách một đầu đình

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi

Tương tư thức mấy đêm rồi

Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?

Bao giờ bến mới gặp đò?

Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?

Nhịp thơ nhanh, câu hỏi dồn dập của nhân vật trữ tình hỏi người thương của mình. Vì sao nàng chẳng sang? Hai thôn ấy chung một làng mà sao nghe cách xa đến vậy, nếu mà nhớ người ta thì phải tìm đường mà sang thăm người ta chứ đằng này lại còn trách người ta không sang với mình. Cũng không biết được rằng có phải cô gái không sang không hay là tại vì nỗi tương tư kia khiến cho người tương tư thấy thời gian quá dài, và không gian thật gần mà trở nên xa xôi quá.

Một khi con người ta tương tư, cũng hay nghĩ rằng nửa kia không quan tâm, vô tâm vô tình lắm. Rồi cứ thế " ngày qua ngày lại qua ngày" điệp từ ngày lặp lại hai lần trong một câu thơ kết hợp với hai từ "qua, lại" khiến ta cảm thấy thời gian chờ đợi đang dần trôi đi thật chậm và thật đều, dài tựa ba thu.

Thời gian làm cảnh vật trở nên thiếu sức sống, lá xanh cũng đã bị thời gian nhuộm vàng mà người thương vẫn không sang thăm. Câu hỏi cất lên vừa thương nhớ vừa có một chút trách móc nửa kia của mình nhưng nó vang lên mãi không tìm thấy lời đáp. Hình ảnh bến đò trong những câu thơ tình lại hiện lên trong tương tư của Nguyễn Bính, đó là ước muốn được ở bên nhau, gắn bó khăng khít. Càng về cuối, những câu thơ vang lên như một ước nguyện với một tình yêu viên mãn vững bền và hạnh phúc:

Nhà em có một giàn giầu

Nhà anh có một hàng cau liên phòng

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

Hình ảnh trầu cau thể hiện ước nguyện được ở bên nhau của nhà thơ với người mình thầm thương trộm nhớ. Trầu cau từ xưa là thứ không thể thiếu trong tập tục cưới hỏi và nó là hình tượng thể hiện mối tình trăm năm hạnh phúc. Giàn giầu như đang chờ đợi hàng cau đến để têm thành miếng trầu kết duyên vợ chồng trăm năm. Từ nỗi tương tư da diết của nhà thơ đã biến thành mong muốn được nên duyên một đời.

Miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu như gợi ta nhớ đến sự tích trầu cau hay truyện cổ tích Tấm Cám xưa. Nét mộc mạc giản dị trong từng miếng trầu ấy, đậm đà tình quê. Câu thơ “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông” một lần nữa vang lên tao hiệu ứng đầu cuối tương ứng, tiếng yêu như da diết không nguôi cho đến cuối bài.

Như vậy mở đầu bằng nỗi nhớ thì cuối cùng nhà thơ cũng kết thúc bằng một nỗi nhớ. Trách móc hờn giận mà tràn đầy tình ý, nhẹ nhàng và sâu lắng.Tương Tư của Nguyễn Bính là một trong những bài thơ góp phần tạo nên tên tuổi của ông và nó làm giàu cho phong trào thơ mới nói riêng và nên thơ ca Việt Nam nói chung. Đọc bài thơ ta biết, nỗi nhớ ấy sẽ còn vọng mãi qua bao thời đại thi ca.

Phân tích tác phẩm Tương tư – Bài văn mẫu số 5

Tác giả Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ đi tiên phong và tiêu biểu cho phong trào thơ mới. Tuy nhiên khác với các nhà thơ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn Pháp thì thơ của Nguyễn Bính lại thường đậm đà truyền thống dân tộc, văn hóa dân gian, gắn bó với sự bình dị, mộc mạc của đồng quê. Bài thơ “Tương tư” của ông nằm trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang” là một bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách thơ của ông.

Nhan đề bài thơ là “Tương tư” ám chỉ một trạng thái của con người, tương tư có nghĩa là nhớ nhung, nhưng lại không đơn thuần là nhớ nhung mà còn chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau nữa. Sự tương tư thường bắt đầu với những con người đang yêu, và trong bài thơ này, nhân vật trữ tình tương tư là một chàng trai quê chân thật, chất phác. Diễn biến trong tâm trạng của chàng trai chính là mạch cảm xúc của bài thơ, trong bốn câu thơ đầu ta cảm nhận được nỗi nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu:

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông…

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”

Nỗi nhớ ấy được tác giả thể hiện bằng những hình thức quen thuộc của ca dao xưa, có thể thấy hình ảnh hoán dụ “thôn Đoài” và “thôn Đông” chính là con người, và chính là chàng trai của thôn Đoài đang nhớ tới người mình yêu ở thôn Đông. Rồi lại đong đếm cụ thể nỗi nhớ mong ấy bằng thành ngữ dân gian “chín nhớ mười mong”.

Có thể thấy nỗi nhớ ấy đã quá đong đầy, chan chứa. Hình ảnh ví von đầy hài hước “nắng mưa” là bệnh của trời đó là lấy cái quy luật của tự nhiên, của trời đất để thể hiện cho sự tương tư trong tình yêu cũng là một lẽ tự nhiên như thế. Tưởng như đó là một đôi trai gái đã bén duyên nhau, nhưng thực ra lại vừa rõ ràng vừa mơ hồ, tình cảm của chàng trai thì đã rõ, còn cô gái thì vẫn thấp thoáng, vu vơ. Bởi thế mà trong ba khổ thơ sau, lời hờn trách của chàng trai được bộc lộ ra, trách sao người mình yêu quá hững hờ:

“Hai thôn chung lại một làng…

Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”

Nỗi nhớ tương tư của chàng trai đang dần rơi vào nỗi khổ tâm, bởi có thương đi mà chẳng có thương lại. Sự trách móc nhẹ nhàng sao gần nhau chỉ cách nhau có “một đầu đình” mà bên ấy lại chẳng sang bên này, để cho bên này chờ mong mòn mỏi.

Trách móc rồi lại tự bộc bạch rằng vì tương tư về người mình yêu mà đã thức trắng bao đêm, chỉ mong ước được gặp người mình yêu, thế nhưng càng nhớ, càng trách, càng hỏi thì người ta vẫn cứ hững hờ, xa xôi. Tình yêu như thế ở đời không phải ít, một bên thì yêu đến si tình, tương tư đến khổ tâm còn một bên lại mơ hồ, vô định.

Vậy nên có trách móc hay tương tư cũng đều rơi vào khoảng không, không ai cảm thấu, càng khiến cho nỗi tương tư thêm xót xa, chua chát. Sự cách biệt giữa bên ấy bên này ngày càng xa xôi, thời gian đã dài đằng đẵng “ngày lại qua ngày” đến nỗi la xanh nhuộm chuyển thành lá vàng, thế nhưng thời gian trôi lạnh lùng như chính sự lạnh lùng của bên ấy. Hỏi cứ như vậy làm sao bên này lại chẳng chờ đợi đến héo mòn, khô úa.

Như vậy cho đến những khổ thơ này ta đã rõ: tất cả đều là từ một phía, chỉ là nỗi tương tư chân thành của chàng trai không được đáp lại. Yêu người nhưng chẳng được người yêu lai, nhớ mong nhưng chẳng được gặp gỡ, bởi người ta cũng chẳng muốn gặp mình, chàng trai lại đành quay lại với chính mình, trở lại với niềm mơ ước thầm kín của mình về một mối nhân duyên tốt đẹp:

“Nhà em có một giàn giầu…

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

Chàng trai đã mạnh dạn xưng “anh” và gọi người mình yêu là “em”, chẳng cần bóng gió, vòng vo xa xôi nữa mà đi thẳng tới vấn đề muốn được kết tóc se duyên, muốn được ở bên cạnh người mình yêu thương. Thế nhưng thật trớ trêu thay chàng trai vẫn không thoát khỏi được nỗi nhớ mong chẳng được đền đáp, vẫn là câu hỏi không ai hồi đáp.

Qua bài thơ “Tương tư” chúng ta thấy được một mảnh hồn thơ của Nguyễn Bính trong đó, đó chính là cái giản dị, hồn nhiên mà dân giã, không kém phần thơ mộng, lãng mạn. Chỉ là nói chuyện tương tư nhưng sâu thẳm là nhà thơ đang nhắc tới khát khao tình yêu và hạnh phúc.