Chiếu cầu hiền (Ngô Thì Nhậm)
I. Đôi nét về tác giả Ngô Thì Nhậm
- Ngô Thì Nhậm (1746- 1803), hiệu là Hi Doãn
- Ông từng đỗ Tiến sĩ làm quan cho nhà Lê- Trịnh, sau đi theo phong trào Tây Sơn và có nhiều đóng góp tích cực. Nhiều văn kiện giấy tờ Tây Sơn do ông soạn thảo
- Ông là người có tài năng và ý chí lớn
- Các tác phẩm chính:
+ về văn: Kim mã hành dư (Lúc làm việc công nhàn rỗi), Hàn các anh hoa (Tinh hoa nơi gác văn), Bang giao hảo thoại (Lời hay trong các bang giao)
+ về thơ: Yên Đài thu vịnh (Vịnh cảnh thu nơi Yên Đài), Cúc hoa bách vịnh (Trăm vần thơ vịnh hoa cúc)
+ ông còn là tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí
- Đặc điểm sáng tác: ông là cây đại bút về văn chính luận
II. Đôi nét về tác phẩm Chiếu cầu hiền (Ngô Thì Nhậm)
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Bài chiếu được viết vào khoảng những năm 1788- 1789 nhằm thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ (Lê- Trịnh) ra cộng tác với triều đại Tây Sơn
2. Bố cục
- Phần 1 (từ đầu đến ý trời sinh ra người hiền vậy) :mối quan hệ giữa người hiền và thiên tử
- Phần 2 (tiếp đến buổi ban đầu trẫm hay sao?): cách ứng xử của hiền tài khi Tây Sơn ra bắc diệt Trịnh
- Phần 3 (còn lại): đường lối cầu hiền của vua Quang Trung
3. Giá trị nội dung
- Bài chiếu là một văn kiện quan trọng thể hiện chủ trương đúng đắn của nhà Tây Sơn nhằm động viên trí thức Bắc Hà tham gia xây dựng đất nước
4. Giá trị nghệ thuật
- Bài chiếu được viết với nghệ thuật thuyết phục, đặc sắc và thể hiện tình cảm của tác giả với sự nghiệp xây dựng đất nước
III. Dàn ý phân tích Chiếu cầu hiền (Ngô Thì Nhậm)
1. Mối quan hệ giữa hiền tài với thiên tử
- Hình ảnh so sánh được sử dụng: hiền tài – ngôi sao sáng đã bày tỏ sự trân trọng, khẳng định, đề cao vị trí của người hiền tài đối với quốc gia, dân tộc
- Giữa thiên tử và người hiền tài có mối quan hệ khăng khít: người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử giống như các sao sáng trên trời quy tụ về sao Bắc Đẩu ⇒ hình ảnh so sánh lấy ý từ câu nói của Khổng Tử trong Luận ngữ càng tăng thêm tính thuyết phục cho bài viết
- Bài chiếu còn nêu lên quy luật xử thế nữa của những người hiền tài đã là hiền tài thì không được bỏ phí tài năng phải đem ra giúp đời giúp nước: Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy
- Các quy luật mà bài chiếu nêu ra ai ai cũng phải thừa nhận
2. Thực tế cách ứng xử của hiền tài Bắc Hà và thực trạng đất nước
- Các sĩ phu Bắc Hà vì nhiều lí do khác nhau chưa ra giúp đời, giúp nước, tài năng chưa được trọng dụng, phát huy:
+ bỏ đi mai danh ẩn tích muốn lẩn trốn suốt đời để uổng phí tài năng
+ làm quan với nhà Tây Sơn nhưng sợ hãi, im lặng kiêng dè không dám lên tiếng, làm việc gõ mõ, cầm chừng, canh cửa
+ chán nản tiêu cực, hủy hoại thân mình ra biển vào sông, oan uổng tài năng, chết đuối trên cạn
- Thực tế cách ứng xử như thế không phù hợp với quy luật đã nêu trên, cũng không phù hợp với thực tế. Hàng loạt các câu hỏi được đưa ra khiến người nghe phải suy ngẫm: Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?
⇒ Người viết đang thầm phê phán kín đáo, thâm úy
- Để thuyết phục tác giả đưa ra thực trạng đất nước lúc bấy giờ khiến kẻ sĩ có lương tâm không thể thờ ơ trách nhiệm với dân với nước:
+ đất nước đương buổi đầu của thời hưng thịnh, công việc vừa mới mở ra cần người hiền tài
+ đất nước nhiều nhân tài lẽ nào lại không có: Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này......buổi ban đầu của trẫm hay sao?
3. Các cách phát huy người tài, tiến của hiền tài và niềm mong mỏi, niềm tin có được hiền tài của vua Quang Trung
- Từ quan lại cho đến thứ dân người nào có tài năng, mưu lược hay đều được tỏ bày sự việc, ý kiến
- Tự mình dâng sớ bày tỏ việc nước
- Các quan tiến cử người hiền
- Hiền tài tự tiến cử
⇒ Đường lối hết sức rộng mở, cách tiến cử rất dễ làm thái độ nhà vua hết sức thành tâm, độ lượng
4. Nghệ thuật
- Kết cấu mạch lạc, lập luận chặt chẽ, hợp lí
+ mở bài nêu ra tiền đề có tính chất chân lí
+ thân bài soi sáng tiền đề mang chân lí, tính quy luật vào thực trạng kẻ sĩ Bắc Hà từ đó chỉ ra cách ứng xử không phù hợp với quy luật, thực tế đất nước
+ rút ra kết luận
- Ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật, truyền cảm, giàu thuyết phục
IV. Phân tích tác phẩm
Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền – Bài văn mẫu số 1
Có thể nói rằng trong kho tàng văn học nước ta thì không chỉ có những bài thơ ngôn từ hay và mượt mà, hay là những áng văn xuôi đậm chất trữ tình. Mà còn có những thể loại riêng nhưng lại có thể góp phần đa dạng và phong phú cho nền văn học chung của nước ta. “Chiếu cầu hiền” của vua Quang Trung được xem là một tác phẩm đặc sắc nó là một bản chiếu vua ban và có sức mạnh to lớn của một quốc gia dân tộc.
“Chiếu cầu hiền” đã được viết khi mà vua Lê Chiêu Thống đã “mời” quân Thanh vào xâm lược nước ta. Lúc bấy giờ Nguyễn Huệ đã lên ngôi vua và đã lấy hiệu là Quang Trung. Quang Trung đã đem quân ra Bắc để quét sạch hết 20 vạn quân Thanh và cả bọn tay sai và bè lũ bán nước. Khi đã thua trận Lê Chiêu Thống cùng như đã cùng bọn quân Thanh đi theo Tôn Sĩ Nghị. Và lúc này thì triều Lê sụp đổ, thay thế vào đó là triều Nguyễn được vua Quang Trung lập lên. Có thể thấy rằng trước sự kiện trên đã có một quan thần trong triều Lê khả năng là do theo trung quân ái quốc lỗi thời với thời Lê. Và dường như hai là có thể do sợ hãi triều đại mới nên dường như tất cả đều trốn tránh ẩn nấp và cũng đã không ra phò tá giúp đỡ vua Quang Trung phát triển đất nước. Và khi đã đoán biết tình hình đất nước nhà như vậy Quang Trung cũng như đã liền phái Ngô Thì Nhậm để có thể thay mình viết chiếu cầu hiền dùng làm để kêu gọi những người tài giỏi ra cứu dân, giúp nước.
Qua hành động này ta như thấy được vua Quang Trung rất đỗi khôn ngoan khi đã nghĩ ra kế sách này. Đồng thời cũng đã thể hiện được việc nhà vua rất trọng người hiền tài trong thiên hạ. Ngô Thì Nhậm được thay vua Quang Trung viết “Chiếu cầu hiền” vì ông là người tài giỏi cũng là bậc bề tôi trung thành với vua. Thể “chiếu” được xem là văn thu mà vua chúa ban bố một mệnh lệch cho dân chúng. Thật dễ thấy được vua Quang Trung đã đưa ra việc tìm người hiền tài chứ không phải ban bố những mệnh lệnh điều này cũng như đã thấy được vai trò to lớn và cấp thiết nhất là phải tìm được người hiền tài ra giúp dân giúp nước.
Trong bài chiếu có thể thấy được đầu tiên mà tác giả nói đến chính là vai trò cũng như là sức mạnh của hiền tài cho quốc gia. Chẳng thế mà dường như ta thấy ngay tên bài chiếu nọ đã nói lên được tất cả những vai trò to lớn của các bậc hiền tài. Và có thể nói rằng đó chính là nhan đề mà ta đã thấy được Thân Nhân Trung trước cũng đã viết đó là “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Và có thể chính vì thế tác giả cũng như đã nêu cao vai trò của người hiền tài trong cả sự nghiệp để có thể phát triển đất nước. Tác giả dường như cũng đã so sánh hiền tài như một “ sao sáng trên trời cao”. So sánh như vậy để thấy được tầm vóc của những hiền tài giống như những gì vĩnh hằng và quan trọng, rực rỡ của thiên nhiên. Đây chính là một sự tôn vinh như được khen ngợi đối với những bậc hiền tài. Mà ta như thấy được rằng dường như ở những bậc hiền tài ấy cũng như sẽ phải theo Bắc thần đó là một quy luật hiển nhiên. Người tài được biết đến là do trời sinh ra và dường như ở người tài ấy phải có phận là biết sử dụng tài năng của mình cống hiến cho đất nước. Và đây cũng là cách mà tác giả Ngô Thì Nhậm như cũng đã muốn cho sĩ phu hiền tài thấy được vua Quang Trung như thật đã biết trọng người tài và rất mực cầu hiền để cùng vua giúp nước. Từ đó như cũng đã góp phần như có thể xóa đi những nghi ngờ những nỗi sợ hãi của những bậc hiền tài. Và ta như thấy được nó rất hợp lý khi đã tạo ra chính tính chính danh và đây là một tính rất quan trọng cho chiếu cầu hiền.
Có thể thấy khi đến đoạn văn tiếp theo dường như cũng đã nói về nguyện vọng của nhà vua khi mà ông đã mong muốn những hiền tài của quốc gia ra mặt góp sức góp tài cho công cuộc xây dựng đất nước. Tác giả dường như đã đi sâu vào phân tích tình hình khó khăn của đất nước và cả chính tình hình ấy phải cần đến sự giúp đỡ của hiền tài quốc gia. Có lẽ ta như thấy được cách trình bày thẳng thắn cho thấy được ra những sự trung thực thật thà cũng như là một sự quang minh chính địa của vua Quang Trung. Cũng như thông qua đó ta thấy được sự chân thành và đó còn chính là tình cảm của nhà vua dành cho những hiền tài. Đồng thời đó còn là tâm trạng lo lắng của vua Quang Trung ở đây được ví như “trời còn tăm tối”hay là “đương ở buổi đầu của nền đại định” và cả “công việc vừa mới mở ra” đó như cũng chính là những khó khăn bức thiết của triều đại nhà Nguyễn, hơn hết đó là đất nước như cũng đang rơi vào tình thế khó khăn. Ta cũng như đã thấy được chính hình ảnh đất nước được hiện ra qua những câu văn của Ngô Thì Nhậm hiện lên thật rõ nét. Đó chính là một đất nước mà dường như ở đời đầu mới ở buổi rất khó khăn, hơn nữa là tương lai còn chưa sáng rõ. Ở buổi đầu khó khăn như vậy thì việc thiếu nhân tài thì làm sao có thể sáng được cơ chứ, và cũng chính vì thế mà vua khẩn thiết cầu hay mời hiền tài về để có thể được phụng sự giúp đỡ vua xây dựng đất nước thái bình thịnh trị. Trong buổi đầu đó thì dường như cả “kỉ cương còn nhiều khiếm khuyết, hay ngay cả việc biên ải chưa chưa yên, và nhân dân còn nhọc mệt, đức hóa của chúng chưa nhuần thấm” cùng với đó chính là “một cái cột không thể đỡ nỗi một căn nhà lớn”. Khi nhìn vào thực tế thì “mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Và cũng chính vì thế mà ta như thấy được vua Quang Trung như thật sáng suốt biết bao khi đã biết được tầm quan trọng của người hiền tài.
Cho đến cuối cùng thì bài chiếu như đã nê ra đó là chính sách cầu tài của vua Quang Trung. Dường như ở phần này tác giả chỉ ra những điểm nổi bật trong những đường lối chính sách của vua mà thôi. Và chúng ta có thể đánh giá đó là những chính sách công bằng cho tất cả mọi người, và cho thấy được vua Quan Trung là một vị vua anh minh, thương yêu nhân dân
Thêm vào đó nữa chính là cách tiến cử hết sức rộng mở đó chính là việc tự mình dâng sớ tâu bày tất cả các sự việc, do các quan văn quan võ tiến cử, cho phép đang sớ tự tiến cử. Thông qua bài chiếu ta thấy được tài năng biết trọng người tài, luôn lắng nghe ý kiến của quần chúng. Và đây quả thực là một tác phẩm vừa mang ý nghĩa chính trị vừa lại là một tác phẩm văn học có giá trị.
Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền – Bài văn mẫu số 2
Sau khi dẹp xong giặc và loạn lạc ở miền Bắc, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế và giao cho Ngô Thì Nhậm soạn Chiếu Cầu Hiền nhằm thu phục người tài ra giúp dân giúp nước. Bài chiều thể hiện tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, đặc biệt cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của một nhà lãnh đạo kiệt xuất.
Để viết được những tác phẩm chiếu, yêu cầu người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ để qua đó tập hợp lại sức lực vì vận mệnh quốc gia. Đối với Ngô Thì Nhậm, ngoài những yêu cầu trên ông còn là một người sắc sảo trong nghệ thuật thuyết phục. Có thể nói bài Chiếu cầu hiền đã thể hiện một tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã dẫn lời của Khổng Tử nhằm tạo dấu ấn mạnh đối với các nho sĩ:
"Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng".
Đoạn mở đầu muốn khẳng định người hiền tài là những tài sản quí giá của đất nước, giống "như sao sáng trên trời", mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng với "ý trời" đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài Chiều. Hình ảnh "sao sáng trên trời" tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.
Sang đoạn tiếp theo, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Điều đó làm trăn trở nhà vua vì phí hoài nhân tài một cách vô ích đó. "Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời". Nhà vua có ý muốn trách những người tài của đất nước. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết: "Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết". Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nghị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.
Việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết. Vì vậy, nhà vua luôn "sớm hôm mong mỏi".
Vua Quang Trung không chỉ làm phận sự của một vị tướng tài là dẹp giặc, trừ bạo mà còn lo toan đến đời sống của người dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì "dân khổ chưa hồi sức" nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. "Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình". Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Đoạn thứ ba của bài chiếu cho thấy thầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung là xuất chúng, thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc gia đều được lựa chọn vào trong triều giúp vua gây dựng đất nước. "Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc".
Có thể nói ở đây, tính dân chủ đã được hình thành và phát huy cao độ. Điều đó nói lên tính cấp thiết của đất nước trong việc trọng dụng người tài vào nắm giữ các chức vụ khác nhau trong triều đình mới.
Trong lịch sử ít có một nhà vua nào đề cao tối đa tính dân chủ trong việc tuyển dụng nhân tài giúp nước như vua Quang Trung. Cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ nhà vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, đã thấy được tương lai sau này của đất nước. Sự tiên tri đó nói lên tài phán đoán, tiên tri của một vị vua anh minh đối với quốc gia, dân tộc, bởi vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát vọng làm sao cho dân no ấm, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng chính là mơ ước của người dân nhằm canh tân nước nhà.
Bài Chiếu cầu hiền là tấm lòng của vua Quang Trung đối với dân với nước, tấm lòng đó là niềm mong muốn được cống hiến vì sự phồn vinh của nước nhà mà vua Quang Trung đã từng nung nấu. Qua bài chiếu này ta có thể thấy, tài nhìn xa trông rộng của nhà vua anh minh Quang Trung và tình yêu nước nồng nàn của một vị vua kiệt xuất.
Quang Trung xứng đáng đi vào lịch sử như một nhân vật tài ba nhất trong lịch sử trung đại nước nhà.
Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền – Bài văn mẫu số 3
“Chiếu cầu hiền” là bài chiếu mà vua Quang Trung- Nguyễn Huệ giao cho Ngô Thì Nhậm viết bài chiếu để chiêu mộ người có đức, có tài ra phục vụ triều đình giúp dân, giúp nước. Thay tâm nguyện của đức vua Ngô Thì Nhậm đã thể hiện cho muôn dân thấy được tấm lòng vì dân, vì nước của vua Quang Trung, cũng như sự hiểu biết và tầm nhìn xa trông rộng của đức vua.
Yêu cầu đối với một bài chiếu là rất cao, rất khắt khe, đòi hỏi người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những nhu cầu của đất nước lúc bấy giờ, phải dùng được những lời lẽ để thuyết phục được lòng dân, khiến muôn dân tâm phục khẩu phục. Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi có trình độ uyên tâm lỗi lạc, là người rất có tài thuyết phục lòng người. Qua tác phẩm “Chiếu cầu hiền” chúng ta đã thấy được tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ lời lẽ rõ rằng, tao nhã.
Ngay từ những câu mở đầu của bài chiếu, với những lời lẽ sâu sắc, tác giả đã khiến lòng người phải nể phục.
“Từng nghe người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần, người hiền tất phải do thiên tử sử dụng”.
Tác giả đã thay mặt nhà vua khẳng định với muôn dân rằng, người hiền tài là những tài sản quý giá của đất nước, giống như “sao sáng trên trời”, mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng đáng với “ý trời” đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã tăng thêm tính thuyết phục của bài chiếu. Hình ảnh “sao sáng trên trời” tượng trương cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.
Sau khi đã chỉ ra tầm quan trọng của người tài đối với vua, đối với đất nước, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Nếu không thu phục được hết người tài thì thật là phí hoài. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để đất nước được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết”. Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.
Nhân tài là báu vật mà ông trời đã ban cho đất nước, vì vậy việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc rất quan trọng hơn lúc nào hết, nhà vua luôn sớm hôm mong mỏi. Vua Quang Trung là vị vua anh minh của dân tộc, sau khi đã dẹp tan giặc, ông rất quan tâm đến đời sống của nhân dân. “Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chống nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không đựng được thái bình”. Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của nhà vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ tới cuộc sống của nhân dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua một lòng vì dân vì nước, dâng hiến cả cuộc đời cho dân tộc. Có một vị vua và lý tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Qua đó ta thấy được tình yêu nước, thương dân nồng nàn của một đức minh quân tài ba. Vua Quang Trung là một trong những vị vua đầu tiên luôn đề cao tính dân chủ trong việc tuyển dụng nhân tài giúp nước, cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ nhà vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, để thấy được tương lai sau này của đất nước. Vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu mộ khát vọng làm sao cho dân ấm no, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng là mơ ước của nhà vua nhằm canh tân đất nước.
Bài “Chiếu cầu hiền” thể hiện cái tâm, cái tài của vua Quang Trung và cũng là cái tài, cái tâm của Ngô Thì Nhậm. Với tài năng của mình Ngô Thì Nhậm đã truyền tải hết được tấm lòng đối với dân với nước của vua Quang Trung, khiến cho muôn dân phải thán phục. Với tài năng và đứ độ của vị vua anh minh này dân tộc ta đã có một thời gian được ấm no, hạnh phúc, đó là thời kì thịnh vượng của nước nhà.
Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền – Bài văn mẫu số 4
Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803), hiệu là Hi Doãn, quê ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ), nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông đỗ tiến sĩ năm 1775, từng làm quan dưới triều Lê - Trịnh; sau đi theo Tây Sơn và có nhiều đóng góp nên được Quang Trung trọng dụng. Tác Phẩm Chiếu Cầu Hiền được viết theo yêu cầu của Vua Quang Trung, nhằm cổ vũ động viên tinh thần cho các chiến sĩ cũng như kêu gọi người tài giúp dân cứu nước.
Khi đọc tác phẩm chắc ai cũng biết là một người bình thường không thể nào có những lời văn hay, rõ ràng và có sức thuyết phục như vậy, chứng tỏ Quang Trung là một vị vua tài nhìn xa trông rộng của nhà vua anh minh Quang Trung và tình yêu nước nồng nàn của một vị vua kiệt xuất. Quang Trung xứng đáng đi vào lịch sử như một nhân vật tài ba nhất trong lịch sử trung đại nước nhà.
Mỡ đầu bài Chiếu tác giả đã đưa được giả thuyết của bậc hiền tài rất đơn giản mà lại có sức thuyết phục cao.
Từng nghe nói rằng: Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.
Ở đây ý tác giả muốn khẳng định người hiền tài là một người có đức lẫn tài, được so sánh ví như ngôi sao sáng trên trời. Và các nhân tài đó sinh ra để giúp vua cứu nước. Cách dùng hình ảnh để nói lên một cách đơn giản mà dể hiểu là: Hiền tài là tinh hoa của trời đất nên lẽ đương nhiên là tài đức của họ phải được cống hiến cho dân, cho nước.
Tiếp theo tác giả lại đưa ra những chi tiết về việc phân chia Nước làm hai Đàng là Đàng trong và Đàng ngoài thì đất nước trở nên khó khăn trong việc quản lý cũng như là sự đảm bảo hòa bình cho đất nước. Ngô Thi Nhậm đã dùng nhiều điển tích rút từ các sách kinh điển Nho gia, dùng lời dạy của Khổng Tử để đặt vấn đề và đưa ra cách ứng xử có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với trí thức Bắc Hà. Cách diễn đạt đó đã tạo ra ấn tượng sâu sắc, đánh trúng vào tâm lí của tầng lớp trí thức, cho nên có sức thuyết phục lớn, khiến họ không thể không mang tài đức ra giúp triều đình Tây Sơn.
Tác giả còn đưa ra nhiều dẫn chứng khác để nói lên sự nhút nhát của các nhân tài, cũng như việc lẫn tránh trách nhiệm với đất nước như: Trước đây thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời.
Tiếp theo đó là những lời của Khổng Tử và nêu lên quy luật của đất trời là những người tài đức phải giúp vua dựng nước, tác giả nói đến tình cảnh của kẻ sĩ lúc bấy giờ: mệt số người tài đức thì đi ở ẩn trong khe núi, trốn tránh việc đời, bỏ phí tài năng. Những người ra làm quan với triều Tây Sơn thì hoặc sợ hãi im lặng, hoặc làm việc cầm chừng. Một số khác ở ẩn, khác chi như người bị chết đuối trên cạn. Thậm chí một số người tự tử để giữ lòng trung với vua Lê. Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nghị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy. Việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết. Đây là những Lời nói khiêm nhường, chân thành và lập luận có lí có tình cùng chính sách sử dụng hiền tài rộng rãi của nhà vua khiến các bậc hiền tài không thể không đem tài đức ra giúp triều đại mới.
Tác giả không nói thẳng mà dùng hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng lấy trong kinh điển Nho gia. Làm như vậy vừa tế nhị, vừa có tính chất phê phán nhẹ nhàng, lại tỏ ra người viết có kiến thức sâu rộng, có tài văn chương, khiến người nghe nể trọng, không những không tự ái mà còn tự cười, tự trách về thái độ ứng xử chưa thoả đáng của mình.
Vua Quang Trung không chỉ làm phận sự của một vị tướng tài là dẹp giặc, trừ bạo mà còn lo toan đến đời sống của người dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì "dân khổ chưa hồi sức" nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. "Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình". Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Tác phẩm Chiếu cầu hiền là một bài văn nghị luận có tính mẫu mực, thể hiện ở sự chặt chẽ và tính lôgíc của các luận điểm, ở tài thuyết phục khéo léo và thái độ khiêm tốn, chân thành của người viết. Các điển cố được sử dụng trong bài Chiếu cho thấy nhận thức tinh tế của người viết về đối tượng cần thuyết phục là tầng lớp trí thức. Người viết tỏ ra có trình độ hiểu biết sâu rộng, đủ khả năng thuyết phục một đối tượng như thế. Bài Chiếu cầu hiền thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung trong việc nhận thức về vai trò quan trọng của hiền tài đối với đất nước. Hiền tài là nguyên khi quốc gia.
Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền – Bài văn mẫu số 5
Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm được ra đời sau khi Nguyễn Huệ lên ngôi, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm viết bài chiếu để chiêu mộ người có đức có tài ra phục vụ triều đình, giúp dân giúp nước. Thay tâm nguyện của nhà vua, Ngô Thì Nhậm đã thể hiện cho muôn dân thấy được tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, cũng như sự hiểu biết, tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung.
Yêu cầu của một bài chiếu là rất cao, rất khắt khe, người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ, dùng những lời lẽ để thuyết phục được lòng dân, khiến muôn dân tâm phục khẩu phục. Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi, có trình độ uyên thâm lỗi lạc, là người có tài thuyết phục lòng người. Tác phẩm Chiếu cầu hiền đã thể hiện một tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
Ngay từ những câu mở đầu của bài chiếu, với những lời lẽ sâu sắc, tác giả đã khiến lòng người phải nể phục.
"Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng".
Tác giả đã thay mặt nhà vua mà khẳng định với muôn dân rằng, người hiền tài là những tài sản quí giá của đất nước, giống "như sao sáng trên trời", mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng với "ý trời" đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài Chiếu. Hình ảnh "sao sáng trên trời" tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.
Sau khi đã chỉ ra tầm quan trọng của người tài đối với vua, đối với dân với nước, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Nếu không thu phục được hết người tài thì thật là phì hoài. "Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời". Nhà vua có ý muốn trách những người tài của đất nước. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết: "Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết". Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nghị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.
Nhân tài là vật báu mà ông trời đã ban cho đất nước đó, vì vậy việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết, nhà vua luôn "sớm hôm mong mỏi". Vua Quang Trung là một trong những vị vua anh minh của dân tộc, sau khi đã dẹp xong giặc, ông rất quan tâm đến đời sống của nhân dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì "dân khổ chưa hồi sức" nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. "Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình". Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Toàn bộ bài Chiếu thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc gia đều được lựa chọn vào trong triều giúp vua gây dựng đất nước. "Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc".
Vua Quang Trung là một trong những vị vua đầu tiên luôn đề cao tối đa tính dân chủ trong việc tuyển dụng nhân tài giúp nước Cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ nhà vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, đã thấy được tương lai sau này của đất nước. Sự tiên tri đó nói lên tài phán đoán, tiên tri của một vị vua anh minh đối với quốc gia, dân tộc, bởi vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát vọng làm sao cho dân no ấm, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng chính là mơ ước của người dân nhằm canh tân nước nhà.
Bài Chiếu cầu hiền thể hiện cái tài, cái tâm của vua Quang Trung và cũng là cái tài, cái tâm của Ngô Thì Nhậm. Với tài năng xuất chúng của mình, Ngô Thì Nhậm đã truyền tải hết được tấm lòng đối với dân với nước của vua Quang Trung, khiến muôn dân thán phục. Với tài năng và đức độ của vị vua anh minh này, dân tộc ta đã có một thời kì được ấm no, hạnh phúc, đó là thời kì thịnh vượng của nước nhà.