Chiều tối
I. Đôi nét về tác giả Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh (1890 - 1969) xuất thân trong gia đình nhà nho yêu nước
- Thuở bé học chữ Hán sau đó học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp, rất am hiểu văn hóa, văn học phương Đông (Trung Quốc) và văn hóa, văn học phương Tây (Pháp) ⇒ hai dòng phương Đông và Phương Tây quyện chảy trong huyết mạch văn chương.
- Quá trình hoạt động cách mạng:
+ 1911: ra đi tìm đường cứu nước.
+ 1918 – 1922: hoạt động Cách mạng trên đất Pháp, tích cực viết báo, viết sách tuyên truyền chống chủ nghĩa thực dân và đoàn kết các dân tộc thuộc địa.
+ 1923 – 1941: chủ yếu hoạt động ở Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan.
+ 1942-1943: bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt và giam giữ ở các nhà ngục Quảng Tây, Trung Quốc.
+ 2- 9 – 1945: đọc bản Tuyên ngôn độc lập…
⇒ Vị lãnh tụ vĩ đại đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn với di sản văn học quí giá.
- Các tác phẩm chính:
+ văn chính luận: Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gì quí hơn độc lập tự do (1966)…
+ truyện và kí: Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922), Vi hành (1923), Những trog lố hay là Varen và Phan Bội Châu (1925)…
+ thơ ca: tập thơ Nhật kí trong tù và nhiều bài thơ sáng tác tại Việt Bắc
- Phong cách nghệ thuật
+ Hồ Chí Minh xem văn nghệ là hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp Cách mạng
+ Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức
+ Hồ Chí Minh luôn quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân thật.
+ Hồ Chí Minh đòi hỏi nhà văn phải chú ý đến hình thức biểu hiện, tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề.
II. Đôi nét về tác phẩm Chiều tối (Hồ Chí Minh)
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ rút ra từ tập thơ Nhật kí trong tù, tập thơ sáng tác khi tác giả bị chính quyền Tưởng Gới Thạch bắt giam trong suốt 13 tháng
- Cảm hứng được gợi lên bởi cuộc chuyển lao của Hồ Chí Minh từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo
2. Bố cục
- Phần 1 (hai câu đầu): bức tranh thiên nhiên
- Phần 2 (hai câu cuối): bức tranh đời sống con người
3. Giá trị nội dung
- Bài thơ cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt của nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh
4. Giá trị nghệ thuật
- Bài thơ đậm sắc thái nghệ thuật cổ điển mà hiện đại
III. Phân tích tác phẩm
a) Dàn ý
1. Bức tranh thiên nhiên
- Hình ảnh cánh chim
+ ý nghĩa tả thực: cánh chim chiều nên dáng bay mệt mỏi nhưng hướng bay có mục đích: về rừng tìm chốn ngủ. Chiều tối với vạn vật là sự trở về nghỉ ngơi. Hoạt động của chim có động lực thúc đẩy
+ ý nghĩa liên tưởng:
• giữa chủ thể trữ tình và hình ảnh cánh chim có nét tương đồng là đều mệt mỏi, chim bay liên tục, người tù cũng đi liên tục
• nét khác biệt: chim cố gắng bay về tổ ấm còn người tù tiếp tục đi cũng chỉ đến một nhà lao khác; nếu chim có động lực thúc đẩy thì người tù chẳng có động lực nào cả
• ẩn sấu trong đó còn là nỗi nhớ nhà, nhớ nước của người con bị tù đày ở nơi xa xứ
- Hình ảnh chòm mây:
+ ý nghĩa tả thực: chòm mây lẻ loi trôi lững lờ giữa tầng không
+ ý nghĩa liên tưởng: đám mây lẻ loi giữa bầu trời cũng như sự lẻ loi cô đơn của người tù giữa núi rừng bao la
- Thiên nhiên được miêu tả bằng bút pháp cổ điển
+ bút pháp ước lệ (hình ảnh chim bay về núi chỉ thời gian chiều tối)
+ hình ảnh chọn lọc nói lên cái đẹp của cảnh nhưng tĩnh lặng, u buồn
+ tả cảnh ngụ tình
2. Bức tranh đời sống con người
- Hình ảnh thiếu nữ xay ngô là trung tâm của bức tranh. Đó là vẻ đẹp khỏe khoắn của người lao động. Sự xuất hiện của thiếu nữ xay ngô khiến bài thơ có tiến triển mới:
+ thiên nhiên đi vào nghỉ ngơi nhưng nhịp sống con người vẫn dẻo dai
+ cảnh trong hai câu đầu rất tĩnh còn ở hai câu cuối này nhờ hoạt động con người mà trở nên sinh động hơn
+ hình ảnh lò than rực hồng trong đêm tối như đang nhem nhóm lên niềm vui, niềm lạc quan, xua tan đi cảm giác lạnh lẽo, cô dơn trong lòng người xa xứ
- Hai câu thơ cuối tả người bằng tinh thần hiện đại:
+ hình tượng thơ có sự vận động tích cực
+ bài thơ kết thúc ở màu hồng
+ đằng sau cặp mắt quan sát tinh tế là tâm hồn người cộng sản luôn hướng tới niềm vui, lạc quan tin tưởng bước về phía trước
3. Nghệ thuật
- Đậm màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại
- Ngôn từ tả ít, gợi nhiều, ý tồn tại ngoài lời
b) Phân tích tác phẩm
Phân tích tác phẩm Chiều tối – Bài văn mẫu số 1
Hồ Chí Minh là một cái tên mà tất cả con dân Việt Nam đều ghi tạc trong tim với một lòng yêu quý, kính trọng vô bờ bến. Trong quá trình tìm lại tự do cho dân tộc, Bác đã phải chịu rất nhiều khổ cực, gian khó, đã rất nhiều lần bị bắt giam, chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác, bị đánh đập, tra tấn dã man.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ở Người vẫn ánh lên một tinh thần lạc quan, một niềm tin vào một ngày mai tươi sáng. Bài thơ "Chiều tối" nằm trong tập thơ "Nhật kí trong tù" đã thể hiện được phần nào tinh thần ấy của Người. Bài thơ chỉ đơn giản là tả lại cảnh nơi thôn dã vào một buổi chiều tối, thế nhưng ẩn chứa trong đó là một ước mơ tự do cho bản thân, ước mơ được quay trở lại quê hương để tiếp tục sứ mệnh của mình.
Bài thơ được sáng tác khi Bác bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Bức tranh chiều tối được nhìn qua cặp mắt của người tù tay đeo gông chân vướng xiềng:
"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không."
Dịch thơ:
"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không."
Buổi chiều thường là lúc đoàn tụ, nhưng cũng là khi con người ta thấy vô cùng cô đơn nếu không có một chốn để về. Cánh chim mỏi sau một ngày kiếm ăn cũng đã bay về tổ của mình. Trên không trung chỉ còn lững lờ một chòm mây. Giữa thiên nhiên bao la hùng vĩ, con người và cảnh vật đều như dừng lại, chỉ có chòm mây ấy vẫn nhẹ nhàng trôi, càng làm nổi bật lên sự yên ắng, êm ả của buổi chiều tối nơi rừng núi.
Chòm mây ấy cũng giống như Bác, đang trong tình cảnh tù tội, vẫn phải cô độc bước đi. Chòm mây cô đơn, lặng lẽ, Bác cũng lặng lẽ, cô đơn. Tuy thế, phải là một người có lòng yêu thiên nhiên, phải có một tâm thái ung dung, bình tĩnh, lạc quan, vượt lên mọi gông cùm về thể xác để ngắm thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên như thế. Thân xác mỏi rã rời vì phải đi cả ngày đường vất vả, nhưng Bác vẫn dõi mắt theo cánh chim về tổ, tầng mây lững lờ trôi lúc chiều về.
Tuy chỉ hai câu thơ bảy chữ, nhưng cũng đã khiến cho người đọc tưởng tượng ra được cảnh chiều muộn nơi rừng núi thật mênh mông, âm u, vắng vẻ, quạnh quẽ. Đồng thời, cũng nói lên niềm mong ước quay trở về với quê hương, ước mong được tự do như đám mây kia.
Trong khung cảnh thiên nhiên mênh mông, đượm nét buồn lúc chiều muộn nơi rừng núi, bỗng xuất hiện con người:
"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng."
Dịch thơ:
"Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng."
Giữa cảnh buồn của thiên nhiên như trong thơ cổ, cô sơn nữ hiện lên như một điểm sáng, làm cho cả bức tranh trở nên sinh động, vui tươi hơn. Đó chính là nét cổ điển mà hiện đại trong thơ của Hồ Chí Minh. Bức tranh vừa có người, vừa có hoạt động khỏe khoắn của con người trong đó.
Đó chính là nét đẹp, nét đáng quý của người dân lao động. Cô gái đang miệt mài xay ngô bên lò than rực hồng để chuẩn bị bữa tối. Ở đây, bản dịch thơ không đảm bảo được nghệ thuật của bản chữ Hán. Bác đã lặp lại hai chữ "bao túc" ở cuối câu thứ ba và đầu câu thứ tư, như những vòng xay nối tiếp nhau của cô gái, như sự tuần hoàn của thời gian, trời đã tối, tối dần.
Bức tranh vừa ấm áp bởi cảnh tượng lao động khỏe khoắn của người thôn nữ lao động, vừa bởi cái ánh hồng của bếp lò. Đó chỉ là một thứ hạnh phúc bình dị, vậy mà Bác vẫn gạt bỏ hết những đau đớn, mệt mỏi về thân xác để cảm nhận được.
Nhà văn Nam Cao đã viết: "Khi người ta đau chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác được.", để nói rằng, con người ta thường có xu hướng lo cho những đau khổ của bản thân. Thế nhưng, ở Bác Hồ – một người lúc nào cũng lo nỗi lo của dân tộc, của đất nước – vậy mà cũng vẫn luôn quan tâm đến những thứ nhỏ nhặt nhất, bình dị nhất. Đó chính là nhân cách cao đẹp của vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta.
Bài thơ "Chiều tối" là một bài thơ tiêu biểu cho nét đẹp cổ điển và hiện đại trong thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ chỉ đơn giản là tả về phong cảnh thiên nhiên và con người nơi xóm núi khi chiều muộn, đồng thời, cũng ẩn chứa trong đó nỗi niềm ước mong được tự do, được sum họp của Người. Đồng thời, ở Bác, chúng ta vẫn luôn thấy ánh lên một vẻ đẹp của tinh thần quên mình, của một trái tim giàu lòng yêu thương luôn biết quan tâm đến những điều bình dị nhất.
Phân tích tác phẩm Chiều tối – Bài văn mẫu số 2
"Nhật ký trong tù" của Hồ Chí Minh được viết từ 2/8/1942 đến 10/9/1943 khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ, đầy đoạ khắp các nhà lao tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trong số 133 bài thơ "Nhật ký trong tù" có một số bài ghi lại những thời khắc đáng nhớ trong ngày: Buổi sớm, Buổi trưa, Quá trưa, Chiều hôm, Chiều tối, Hoàng hôn, Nửa đêm... Mỗi bài là một nỗi niềm trong những tháng ngày "ác mộng".
"Chiều tối" (Mộ) là bài thất ngôn tứ tuyệt số 31 trong "Nhật ký trong tù". Bài thơ số 32 là bài "Đêm ngủ ở Long Tuyền". Vậy, bài "Chiều tối" ghi lại cảnh xóm núi lúc ngày tàn trên con đường từ Thiên Bảo đến Long Tuyền vào tháng 10/1942.
Đây là nguyên tác bài thơ:
"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không,
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng''.
Một cái nhìn man mác, một thoáng ước mơ thầm kín về một mái ấm, một chỗ dừng chân...của nhà thơ trên con đường lưu đày khổ ải muôn dặm, được hé lộ qua bài thơ, đọc qua tưởng như chỉ tả cảnh chiều tối nơi xóm núi xa lạ.
Hai câu đầu tả bầu trời lúc ngày tàn. Hai nét vẽ "động" cánh chim mỏi mệt (quyện điểu) bay về rừng xa, tìm cây trú ẩn, một áng mây cô đơn, lẻ loi (cô vân) đang lửng lơ trôi (mạn mạn). Cấu trúc hai câu thơ đăng đối, âm điệu thơ nhẹ, thoáng buồn. Người chiến sĩ bị lưu đày ngước mắt nhìn bầu trời, dõi theo cánh chim bay và áng mây trôi nhẹ mà lòng man mác. Rất tinh tế, nét vẽ ngoại cảnh đã thoáng hiện tâm cảnh. Câu thơ dịch của Nam Trân tuy chưa thể hiện được chữ "cô" trong "cô vân" nhưng khá hay:
"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không".
Hai câu thơ 1, 2 mang vẻ đẹp cổ điển: tả ít mà gợi nhiều chỉ 2 nét phác họa (chim bay, mây trôi) mà gợi lên cái hồn cảnh vật, ngày tàn, màn đêm buông xuống dần, tạo vật như đang chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi, mệt mỏi. Nghệ thuật lấy điểm vẽ điện, lấy động tả tĩnh được vận dụng sáng tạo.
Nhìn chim bay, mây trôi mà cảm thấy bầu trời bao la hơn, cảnh chiều tối êm ả, tĩnh lặng hơn. Cảnh chiều tối ở xóm núi này còn mang tính ước lệ, nó mở rộng liên tưởng và cảm xúc thẩm mỹ trong tâm hồn mỗi chúng ta,...nhớ về một cánh chim bay trong "Truyện Kiều": "Chim hôm thoi thót về rừng"; nhớ đến một cánh chim bay mỏi và hình ảnh người lữ thứ trong chiều sương lạnh nhớ nhà:
"Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa, khách bước dồn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Trở lại bài "Chiều tối", áng mây cô đơn lẻ loi đang lơ lửng, trôi nhẹ trên bầu trời là hình ảnh ẩn dụ về người lưu đày trên con đường khổ ải xa lắc! Ngôn ngữ thơ hàm súc, biểu cảm, vừa tả cảnh vừa tả tình, thoáng nhẹ mà đầy ấn tượng, dư ba. Tiếp theo câu cuối 3 - 4 từ cảnh bầu trời tác giả nói về cuộc sống con người nơi núi. Thiếu nữ và lò than hồng là trung tâm của bức tranh này:
"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng".
Một nét vẽ trẻ trung, bình dị, đáng yêu: Thiếu nữ xóm núi đang xay ngô. Ba chữ "ma bao túc" ở cuối câu ba được láy lại "bao túc ma hoàn..." ở đầu câu 4, động tác nhịp nhàng xay ngô, vừa diễn tả sự chuyển động vòng tròn của cái cối đá xay ngô thủ công. Đức tính cần mẫn của thiếu nữ xóm núi được cảm nhận và trân trọng. Nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đã làm cho thơ liền mạch và có về nhạc điệu.
Câu thơ địch: "Cô em xóm núi xay ngô tối", với 2 chữ cô em đã làm lạc phong cách thơ Hồ Chí Minh; chữ "tối" thêm vào đã làm cho ý thơ lộ, còn đâu nữa ý tại ngôn ngoại trong bài thơ chữ Hán này?.
Sự vật như nối liếp theo dòng chảy thời gian mà xuất hiện: Khi ngô xay xong than đã rực hồng, sáng bừng lên, vô cùng ấm áp. Khi màn đêm đã bao mịt mùng, lò than đỏ rực lên, cảnh vật ấy thu hút tâm trí người tù đang bị giải đi. Buồn biết bao cảnh bếp lạnh tro tàn! ấm áp biết bao một ngọn đèn, một bếp hồng trong đêm lạnh.
Hình ảnh thiếu nữ xóm núi xay ngô và lò than rực hồng tượng trưng cho một mái ấm đoàn tụ gia đình, nó đã làm vợi đi bao nỗi cô đơn tĩnh mịch. Hướng về một cảnh sinh hoạt dân dã bình dị: thiếu nữ xay ngô, dõi nhìn bếp lửa, lò than rực hồng, khi chân tay mang nặng xiềng xích, bị giải đi trong chiều tối, Bác đã tìm thấy nơi nương lựa tâm hồn mình. Hình như nỗi cô đơn, lẻ loi, lạnh lẽo bị xua tan.
Một thoáng ước mơ thầm kín về một mái ấm gia đình đã đến với nhà thơ trên con đường đi đày xa xứ trong màn đêm buông xuống. Cảm hứng thơ dào dạt chất nhân bản. Cái bình dị mà đầy chất thơ. Chất thơ ấy là hồn người và tình người. Hai nét vẽ về thiếu nữ xay ngô và lò than rực hồng là hai nét vẽ bình dị, ấm áp, khỏe và trẻ trung, làm thơ Bác có sự hoà hợp giữa màu sắc cổ điển và chất hiện đại vẻ trung bình dị.
Nhiều bài thơ khác cho thấy trên con đường khổ ải, lưu đày người chiến sĩ cách mạng trong "Nhật ký trong tù" hầu như ít cảm thấy cô đơn, tâm hồn luôn luôn gắn bó với nhịp sống, làm chủ hoàn cảnh và lạc quan yêu đời. Trong cảnh hoàng hôn gió rét căm, vượt lên gian khổ. Người xúc động hướng tới một tiếng chuông chùa, một tiếng sáo mục đồng mà mạnh bước:
"Gió sắc tựa gươm mài đá núi,
Rét như dùi nhọn chích cành cây
Chùa xa chuông giục người nhanh bước,
Trẻ dẫn trâu về tiếng sáo bay".
Nam Trân dịch
Có lúc trong cảnh bị cùm trói "Thừa cơ rét rệp xông vào đánh" mà Người vẫn "thoát ngục" tìm được một chút niềm vui nâng đỡ tâm hồn mình: "Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần" (Đêm ngủ ở Long Tuyền). Điều đó cho thấy, sự sống và tự do là khát vọng của Người. Thiên nhiên và con người hiện diện trong thơ Bác bằng những nét vẽ đẹp, bình dị, đáng yêu, đó là sự sống mà Bác gắn bó, mến yêu suốt đời.
"Chiều tối" - một bài thơ đáng yêu: màu sắc cổ điển hàm súc kết hợp với tính chất trẻ trung, hiện đại, bình dị. Tứ thơ vận động từ cảnh đến tình, từ trong bóng tối đến sự sống, đến ánh sáng và tương lai. Nét vẽ linh tế, thể hiện một hồn thơ "bát ngát tình". Bài thơ thấm đượm một tình yêu mênh mông đối với tạo vật và con người. Trong đoạ đầy gian khổ, tâm hồn Bác vẫn dào dạt sự sống.
Phân tích tác phẩm Chiều tối – Bài văn mẫu số 3
Hồ Chí Minh được nhân loại biết đến không chỉ là một vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam mà còn được biết đến như một nhà văn, nhà thơ lớn của thế kỷ XX. Ngoài văn chính luận, người còn để lại cho đời một sự nghiệp thơ ca đáng trân trọng. Trong đó nổi bật nhất là tập thơ Nhật ký trong tù.
Tập thơ này như một cuốn nhật ký bằng thơ ghi lại những chặng đường giải lao đầy gian nan vất vả của người tù. Nhưng bằng bản lĩnh thép, tinh thần thép Người đã vượt qua hoàn cảnh tù đày để hướng về ánh sáng. Bài thơ Chiều tối là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của tập Nhật ký trong tù:
"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng"
Tháng 8/1942, Bác Hồ sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của bạn bè quốc tế về cuộc cách mạng ở Việt Nam. Sau mười lăm ngày đi bộ khi vừa tới thị trấn Túc Vinh, tỉnh Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ và bị "mười bốn trăng tê tái gông cùm" trong gần ba mươi nhà lao của tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian này Người đã sáng tác tập thơ Nhật ký trong tù gồm 134 bài thơ bằng chữ Hán. Bài thơ "Mộ" (Chiều tối) được xem là áng thơ tuyệt bút, được Người làm trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo.
Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà trên đường Bác bị giải lao. Chỉ vài nét chấm phá, hai câu đầu của bài thơ đã để lại một tiểu họa về cảnh thiên nhiên vùng sơn cước ở thời điểm "chiều tối".
"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không"
Thiên nhiên hiện lên với hai nét chấm phá: cánh chim và áng mây mang màu sắc cổ thi rõ nét. Hai hình ảnh ấy tạo nên bầu không gian khoáng đãng, cao rộng, thể hiện điểm nhìn lên của tác giả "luôn ngẩng cao đầu trong hoàn cảnh tù đày".
Buổi chiều ấy dường như ta đã bắt gặp đâu đó trong thơ xưa: "Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà" hay "Chiều tà bảng lảng bóng hoàng hôn" (Bà Huyện Thanh Quan). Cánh chim và chòm mây vốn là những thi liệu rất quen thuộc trong thơ cổ thường dùng để miêu tả cảnh chiều tối như một bút pháp miêu tả thời gian. Lý Bạch trong bài thơ Độc tọa Kính Đình san cũng đã từng viết:
"Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
(Chim trời bay đi mất
Mây lẻ trôi một mình)"
Điều mới mẻ ở đây là nếu như trong thơ cổ, cánh chim thường bay về chốn vô tận vô cùng, vô định, gợi cảm giác xa xăm, phiêu dạt, chia lìa, mang cái buồn thương u uẩn thì cánh chim trong thơ Bác lại gần gũi yêu thương hơn bao giờ hết. Nó chỉ là cánh chim tìm về tổ ấm sau một ngày dài mỏi mệt kiếm ăn.
Cái hay nằm ở chỗ, nhìn cánh chim bay mà thấy được "quyện điểu", thấy được trong dáng bay của cánh chim có sự mỏi mệt của nó. Nghĩa là nhà thơ nhìn thấy được sự vận động bên trong của cánh chim kia. Đây chính là tình cảm nhân đạo của Hồ Chí Minh. Cái nhìn ấy thể hiện tình cảm nhân ái bao la của Người đối với cảnh vật.
Đúng như Tố Hữu đã từng viết "Bác ơi tim Bác mênh thống thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người". Qua đó ta thấy thêm một nét nghĩa mới: người tù dường như cũng đồng cảm với cánh chim kia, Người như cũng muốn được dừng chân sau một ngày đày ải "Năm mươi ba cây số một ngày/ Áo mũ dầm mưa rách hết giày".
Cùng với "Quyện điểu quy lâm", là "Cô vân mạn mạn". Bài thơ dịch khá uyển chuyển, nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi, trôi nổi, lững lờ của đám mây. Người dịch đã bỏ sót chữ "cô" và chưa thể hiện được hết nghĩa của hai từ láy "mạn mạn". Căn cứ vào phần nguyên âm ta thấy, hình ảnh đám mây cô đơn, lẻ loi đang chầm chậm trôi qua bầu trời.
Nó không chỉ làm cho bầu trời thêm cao, thêm khoáng đãng mà còn gợi lên nỗi buồn bâng khuâng của người tù trên đất khách quê người. Nhưng buồn mà không bi lụy, không hiu hắt như trong thơ cổ điển. Mặc dù câu thơ dịch: "Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không" chưa được sát nghĩa nhưng dù sao cũng thấy cái hay riêng của nó.
Chòm mây trôi nhẹ nhàng, nhàn tản như chính tâm hồn người tù chiến sĩ ung dung tự tại, bị giải tù mà như đang thưởng ngoạn cảnh trời chiều và thả tâm hồn thi sĩ chứ không còn là cảnh tù đày mệt mỏi nữa. Qua đó ta thấy tác giả không hề để lộ cái mệt mỏi, cô đơn của chính mình. Đó chính là TINH THẦN THÉP vĩ đại của người tù – thi sĩ Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, hai câu đầu bài thơ có phảng phất nỗi buồn của lòng người, của tâm trạng người tù nhưng cảnh buồn mà không chút bi lụy. Th.s Nguyễn Đức Hùng nhận xét rằng "Những buổi chiều như vậy, đâu có thiếu trong văn chương cổ kim; nhưng nếu cảnh ấy qua cái nhìn của một Lý Bạch tiêu diêu, một Khuất Nguyên u uất chắc chắn sẽ đầy ảm đạm, thê lương. Còn ở đây, nếu không rõ xuất xứ, nhiều người sẽ lầm tưởng "Mộ" là bài thơ của thời Thịnh Đường"
Cảnh chiều tà nơi vùng sơn cước có chút hiu hắt vắng lặng gợi lên cái bâng khuâng man mác trong lòng người đọc nhưng sự biến chuyển của hai câu sau nhanh chóng xóa đi cái hiu hắt vốn có của núi rừng. Đó chính là lúc mà đôi mắt yêu thương và trái tim nhân ái bao la của Người bắt gặp vẻ đẹp của con người lao động:
"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng"
Sinh thời Hồ Chí Minh chỉ có một ao ước lớn:"Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Nghĩa là ao ước của Người luôn hướng về nhân dân, nhân dân ở đây không chỉ hiểu là dân tộc Việt Nam ta mà còn là nhân dân cần lao trên thế giới. Đó chính là tinh thần nhân đạo cao cả của Quốc tế cộng sản.
Câu thơ nguyên bản"Sơn thôn thiếu nữ" dịch là "Cô em xóm núi" đứng trên bình diện nghĩa của từ thì không có gì sai. Nhưng câu thơ dịch đã không thể hiện được cái nhìn trân trọng của nhân vật trữ tình đối với con người; giọng điệu trang trọng của câu thơ nguyên tác không hiện diện trong lời thơ dịch.
Người phụ nữ đã nhiều lần có mặt trong thơ chữ Hán, nhưng phần lớn họ đều thuộc giới thượng lưu hoặc chí ít cũng gần gũi với giới thượng lưu. Phần lớn người phụ nữ trong cổ thi đều mang nỗi buồn thương man mác vì chiến tranh sinh ly tử biệt hay lỡ dỡ tình duyên, Vương Xương Linh đời Đường từng viết Khuê oán:
"Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu."
Dịch thơ
"Cô gái phòng the chửa biết sầu
Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu
Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu
Hối để chồng đi kiếm tước hầu."
Cái mới ở đây là cũng viết về hình ảnh người phụ nữ nhưng thơ Bác lại viết về người dân lao động với cái nhìn trân trọng yêu thương mang niềm vui của tấm lòng nhân đạo. Hai chữ "thiếu nữ" gợi lên vẻ trẻ trung, tươi tắn của cô gái cùng với hoạt động xay ngô đã làm hiện lên vẻ đẹp khỏe khoắn, nhịp nhàng trong lao động. Hình ảnh này đã làm xôn xao cả buổi chiều cô quạnh mang đến cho bức tranh thơ sức sống và niềm vui lan tỏa.
Có lẽ cũng chính vì vậy mà có một nhà phê bình nào đó từng nhận xét rằng "Không rõ trước Hồ Chí Minh đã có một "sơn thôn thiếu nữ" thực sự là người lao động bước vào thế giới của nàng thơ hay chưa? Chỉ biết rằng việc đặt hình ảnh "sơn thôn thiếu nữ"ở vị trí trung tâm của bức tranh phong cảnh chiều tối đã làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh về cuộc sống con người.
Sự chuyển đổi ấy thể hiện một khuynh hướng vận động của hình tượng thơ và quan điểm nhân sinh của Bác. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh cũng gắn bó với cuộc sống con người nơi trần thế đặc biệt là cuộc sống nhân dân lao động".
Tính hiện đại ở đây nữa chính là nghệ thuật biểu hiện. Tài hoa của Người là ở chỗ tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh chiều tối mà không phải dùng đến một tính từ chỉ thời gian nào. Cả bài thơ không hề có chữ tối nào cả mà người đọc vẫn nhận ra chữ tối. Người dùng ánh lửa đỏ để thể hiện thời gian (trời có tối mới nhìn thấy lò than rực hồng). Hơn nữa, người đọc còn cảm nhận được bước đi của thời gian từ chiều đến tối.
Cô gái xay ngô từ khi trời còn ánh sáng; xay xong thì trời đã tối. Điệp ngữ liên hoàn (điệp ngữ vòng) "ma bao túc – bao túc ma hoàn" đã cho ta cảm nhận được thời gian đang vận động đang xoay theo từng vòng quay của cối xay ngô. Phải chăng Hồ Chí Minh đã có một phát hiện mới trong bút pháp tả thời gian.
Rõ ràng, ngay cả khi tả cảnh chiều tối, thơ Hồ Chí Minh vẫn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Vòng quay của chiếc cối chấm dứt, công việc kết thúc (bao túc ma hoàn) thì lò than cũng vừa đỏ (lô dĩ hồng), ánh lửa đỏ ấm nồng xuất hiện thật bất ngờ, tỏa sáng vào đêm tối xua tan đi cái lạnh lẽo hiu hắt của núi rừng. Đó cũng là lúc mà cô gái kia được quây quần bên mâm cơm ấm cúng của gia đình.
Chữ "hồng" nằm ở cuối bài thơ nhưng có một vị trí đặc biệt. Trong nghệ thuật Đường thi, chữ hồng được xem là nhãn tự là con mắt thần. Nó tạo nên cái thần thái đặc biệt cho bài thơ. Hoàng Trung Thông nhận xét rằng: Với một chữ "hồng", Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn ra trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối.
Chữ "hồng" trong nghệ thuật thơ đường người ta gọi là "con mắt thơ" (Thi nhãn hoặc là nhãn tự (chữ mắt nó sáng bùng lên, nó căn lại, chỉ một chữ thôi với hai mươi bảy chữ khác dẫn đầu nặng đến mấy đi chăng nữa. Với chữ "hồng" đó có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhọc nhằn nữa đâu, mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình, cả lao động của cô gái đáng yêu kia. Đó là màu đỏ tình cảm Bác.
Như vậy chữ "hồng" rất xứng đáng là "ông thánh thứ hai mươi tám" của bài thơ. Ánh hồng ấy không chỉ tỏa ra từ chiếc bếp lửa bình dị của một "sơn thôn thiếu nữ" mà chủ yếu được tỏa ra từ tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh. Về nét nghĩa khác, chữ "hồng" còn là biểu hiện của cuộc vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Thơ Hồ Chí Minh bao giờ cũng vậy, luôn hướng về ánh sáng. Trong bài thơ Tảo giải, chữ Hồng ấy cũng đã từng xuất hiện:
"Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng tối đêm tàn sớm sạch không"
Chữ hồng ấy với chữ hồng trong Chiều tối có cùng một nét nghĩa là chỉ ánh sáng, chỉ niềm vui, sự lạc quan của người tù. Con đường cách mạng Việt Nam cũng vậy đi từ trong đêm trường nô lệ, đi trong chông gai để đến với con đường vinh quang.
"Đầu tường sớm sớm vầng dương mọc,
Chiếu cửa nhà lao, cửa vẫn cài;
Trong ngục giờ đây còn tối mịt,
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi."
(Trích nhật ký trong tù)
Thành công của bài thơ chính là yếu tố cổ điển kết hợp với hiện đại, giữa tâm hồn thi sĩ và tinh thần thép của người tù cách mạng. Bài thơ đã làm người đọc xúc động trước tình cảm nhân ái bao la của người tù chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh dù trong hoàn cảnh tù đày nơi đất khách quê người nhưng Người vẫn vượt lên trên tất cả mọi sự khổ đau, đọa đày vè thể xác để đưa đến cho người đọc những vần thơ tuyệt bút.
Qua bài thơ ta càng hiểu, càng yêu hơn lãnh tụ Hồ Chí Minh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Xin được mượn bốn câu thơ của nhà thơ Tố Hữu thay cho lời kết:
"Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung"
Phân tích tác phẩm Chiều tối – Bài văn mẫu số 4
Không chỉ là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc mà Hồ Chí Minh còn là một trong những nhà thơ với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Trong đó tập thơ “Nhật ký trong tù”, nó được đánh giá như một viên ngọc quý của nền văn thơ Việt Nam. Đặc biệt nhất là bài thơ “Chiều tối”được Bác sang tác trên đường đi đày từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo.
Hình ảnh bình dị của một làng quê nơi thôn dã vào buổi chiều tối được Bác miêu tả rất chân thực, nhưng trong đó lại ẩn chứa một ước mơ, mong muốn sự tự do để có thể tiếp tục sứ mệnh giải phóng đất nước vô cùng lớn lao.
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Dịch thơ:
“Chim bay mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Hình ảnh những chú chim bay về tổ chính là lúc chiều tà, trên nền trời lững lờ trôi nhẹ một chòm mây làm toát lên vẻ đẹp yên bình, lặng lẽ của một buổi chiều nơi thôn dã, núi rừng. Bác ví mình như chòm mây trôi lặng lẽ, cô đơn không có một chốn để trở về, thế nhưng trên đường chuyển nhà lao vất vả Bác vẫn có được tâm thái ung dung tự tại, lạc quan.
Chỉ với hai câu thơ mở đầu ngắn gọn nhưng trong đó ẩn chứa rất nhiều hàm ý sâu sa, không chỉ vậy mà khung cảnh thiên nhiên còn được khắc họa vô cùng sinh động. Không chỉ mang hàm ý cô đơn mà hình ảnh chòm mây trôi nhẹ còn được Bác sử dụng để nói lên niềm khao khát, ước mong được tự do, được trở về với quê hương, anh em đồng chí.
Khung cảnh nơi rừng núi hoang vu, vắng vẻ được thể hiện rất chân thực qua con mắt của một người đang trong tình cảnh tù tội, gông cùm xiềng xích. Trong hoàn cảnh đó người tù vẫn thể hiện được khí phách hiên ngang, phong thái ung dung. Trong hai câu thơ cuối bài hình ảnh cô sơn nữ được đưa vào như một nét chấm phá bất ngờ mà tác giả muốn mang đến cho người đọc.
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”
Dịch thơ:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng.”
Như một điểm sáng hiện lên giữa cảnh đồi núi bao la hùng vĩ khiến cho bức tranh sơn dã thêm sinh động và tươi vui hơn. Đây là nét đẹp vừa cổ điển mà lại hiện đại đặc trưng trong các sáng tác của Hồ Chí Minh. Sự xuất hiện của hình ảnh cô sơn nữ càng làm tăng thêm nét đẹp khỏe khoắn, đặc biệt nó là vẻ đẹp vô cùng đáng quý của người dân lao động.
Bản dịch thơ dường như không thể nào diễn tả được hết nghệ thuật, ý nghĩa mà tác giả sử dụng. Bạn có thể thấy rằng Bác đã dùng lặp lại từ “bao túc” ở trong hai câu thơ cuối, điều đó diễn tả được sự liên tiế, sự tuần hoàn như vòng xoay của cô sơn nữ. Cô gái đang miệt mài xay ngô bên bếp than hồng để chuẩn bị bữa tối, đó đều là những hình ảnh vô cùng giản dị nhưng lại có được sức cuốn hút rất lớn.
Kết lại, bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh cho chúng ta thấy được một trái tim yêu nước, yêu thiên nhiên, yêu con người đến quên mình của Bác. Người luôn biết quan tâm đến những thứ bình dị và thân thuộc nhất, đó là một trong những đức tính vô cùng đáng quý và cao đẹp của một vị lãnh tụ.
Phân tích tác phẩm Chiều tối – Bài văn mẫu số 5
"Bác Hồ, Người là tình yêu thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại". Trong cuộc sống đời thường, Bác giản dị với nếp sống thanh cao. Trong công việc, Bác là người nghiêm túc và chu toàn. Đến với thơ ca, tâm hồn và vẻ đẹp của Bác được thể hiện rõ nét qua những vần thơ với sức truyền cảm mạnh mẽ.
"Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình"
Thơ Bác đâu chỉ hãy thôi mà còn đẹp nữa, đẹp bởi chính hồn thơ, bởi chính tinh thần "thép" trong thơ và bởi chính tình ý của thơ. Chiều tối là một bài thơ tiêu biểu cho thơ Bác, thể hiện rõ sự kết hợp giữa nét cổ điển và tinh thần hiện đại, một tác phẩm thành công của nền văn học nước nhà.
Bài thơ chiều tối được sáng tác vào năm 1943, trong khoảng thời gian Bác bị chính sách quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, chịu nhiều đày ải, khi chuyển từ nhà giam Tĩnh Tây đến nhà giam Thiên Bảo, lấy cảm hứng từ buổi chiều chuyển lao. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, tứ thơ độc đáo, vận động một cách tài tình.
Người tù đang bị áp giải giữa núi rừng bạt ngàn, chiều dần buông xuống khiến lòng người thấp thoáng nỗi buồn chơi vơi. Có lẽ, trong các khoảng khắc thời gian của một ngày, thì buổi chiều là lúc con người chất chứa nhiều tâm trạng và nỗi lòng nhất, cũng bởi vậy mà trong thơ cổ thường dùng cánh chim chiều hoàng hôn để gợi nỗi buồn.
"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không"
Cảnh được gợi lên bằng bút pháp ước lệ tượng trưng quen thuộc trong thơ xưa, cánh chim mòn mỏi chiều tà gợi sự xót xa, thương cảm."Cô vân mạn mạn", giữa vô vàn chòm mây trên bầu trời thì có một chòm mây lại cô độc, đơn lẻ giữa khoảng không.
Đó là hình ảnh ẩn dụ cho người tù bị lưu đày nơi đất khách quê người, dường như giữa cảnh vật và con người có sự đồng điệu, cảm thông, hoà quyện giữa hồn và cảnh. "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", cảnh vật thể hiện tâm trạng, có chút gì đấy lẻ loi, mủi lòng sâu thẳm nơi đáy lòng người chiến sĩ.
Hai câu thơ mang phong vị Đường thi nhưng vẫn chất chứa nét riêng trong thơ Bác.Thiên nhiên phảng phất nét buồn nhưng không bi lụy. Mỏi mệt thì nghỉ ngơi để rồi ngày mai lại bắt đầu cuộc hành trình mới, một cuộc sống mới. Đó là sự nỗ lực, là tâm hồn hướng tới sự sống, khát khao thoát khỏi những tù túng, vươn tới tự do như cánh chim ngang trời, nhẹ nhàng mà an nhiên. Nếu hai câu đầu là bức tranh thiên nhiên cao rộng thì dòng cảm xúc hai câu cuối là bức tranh sinh hoạt đời thường:
"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng."
Hình ảnh người con gái được thể hiện nhiều trong thơ ca, nếu trong văn học trung đại, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng yếu đuối và số phận đầy long đong, lận đận, chìm nổi,trong thơ lãng mạn họ phảng phất nét buồn thì trong thơ Bác đó là con người giản dị, bình thường, công việc tuy vất vả nhưng đáng yêu và đáng trân trọng.
Hình ảnh"cô em" nổi bật trước thiên nhiên, con người đang làm chủ cuộc sống, trẻ trung và đầy khoẻ khoắn, làm việc hăng say thật đáng quý biết bao. Bức tranh thiên nhiên hoà quyện hình ảnh con người dường như càng sinh động, ấm áp hơn. "Ma bao túc....bao túc ma hoàn", sự sáng tạo trong điệp ngữ vòng tạo nên sự nhịp nhàng trong vòng quay của công việc.
Không gian từ trời đất cao rộng, bao la dần thu hẹp lại bên không gian sinh hoạt gia đình-bếp lửa "Xay hết lò than đã rực hồng" . Chỉ bằng một từ "hồng", được coi là nhãn tự bài thơ cùng bút pháp điểm xuyết khiến cho bao nhiêu cảm xúc ý tứ dường như được dồn nén, chất chứa bấy lâu được bung toả. "Hồng" - đó là ánh sáng của niềm tin, hy vọng, là ngọn lửa của ánh sáng xua tan bầu trời đêm, là ngọn lửa của hơi ấm xua tan đi lạnh lẽo, cô độc, là ngọn lửa của niềm vui, niềm lạc quan của tan nỗi buồn, mệt nhọc của thực tại.
Tâm hồn thi sĩ giờ đây chất chứa tình yêu, niềm thương mến hướng về đất nước, về mong ước ngày dân tộc hoà bình, thứ ánh sáng ấy to lớn và cao đẹp biết nhường nào. Bác vẫn như thế, dẫu thực tại có gian khổ đến đâu, Người vẫn luôn hướng về thiên nhiên, vẫn đau đáu nỗi lo cho cuộc sống ấm no của dân tộc.
Bằng biện pháp kết hợp hài hoà hình ảnh cổ điển và tinh thần hiện đại, cách diễn đạt cô đọng mà hàm súc, cảm xúc dồn nén vào bên trong ý tưởng. Bút pháp gợi với những hình ảnh quen thuộc bình dị mà giàu cảm xúc, bài thơ Chiều tối đã thể hiện được tâm hồn Bác, con người dù trong đau khổ trong xiềng xích vẫn vững niềm tin phía trước, vẫn giữ tinh thần thép trong cuộc sống.
Qua bài thơ ta thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước và ý chí sắt đá của người chiến sĩ. Đồng thời, bài thơ cũng minh chứng cho nét độc đáo trong phong cách thơ Bác như một nhà thơ từng nhận định rằng "Thơ Bác đi từ ngôn ngữ đến hình tượng thơ luôn luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh sáng, tương lai".