Chạy giặc (Nguyễn Đình Chiểu)
I. Tác giả
1. Tiểu sử
- Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), sinh ra tại quê mẹ - làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh).
- Cuộc đời gặp nhiều bất hạnh, mất mát
2. Sự nghiệp văn học
a. Tác phẩm chính
- Cuộc đời sáng tác của ông được chia làm hai giai đoạn chính: trước và sau khi thực dân Pháp xâm lược:
+ Ở giai đoạn đầu, ông viết hai truyện thơ dài: Truyện Lục Vân Tiên và Dương Từ- Hà Mậu.
+ Giai đoạn sau: Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, Ngư Tiều y thuật vấn đáp,...
b. Nội dung thơ văn
- Thể hiện lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa và lòng yêu nước, thương dân
c. Phong cách nghệ thuật
- Đậm sắc thái Nam Bộ
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc.
- Năm 1861, vào đêm 14-12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại.
2. Thể loại
- Văn tế (ngày nay gọi là điếu văn) là thể văn thường dùng để đọc khi tế, cúng người chết, nó có hình thức tế – tưởng.
- Bài văn tế thường có các phần:
+ Lung khởi (cảm tưởng khái quát về người chết)
+ Thích thực (hồi tưởng công đức của người chết)
+ Ai vãn (than tiếc người chết)
+ Kết (nêu lên ý nghĩa và lời mời của người đứng tế đối với linh hồn người chết).
3. Bố cục (4 phần)
- Lung khởi (Từ đầu đến “...tiếng vang như mõ”): cảm tưởng khái quát về cuộc đời những người nghĩa sĩ Cần Giuộc.
- Thích thực (Tiếp theo đến”... tàu đồng súng nổ”):hồi tưởng cuộc đời và công đức của người nghĩa sĩ.
- Ai vãn (Tiếp theo đến “...cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”): lời thương tiếc người chết của tác giả và người thân của các nghĩa sĩ.
- Kết (Còn lại): tình cảm xót thương của người đứng tế đối với linh hồn người chết.
4. Giá trị nội dung
Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khác nên hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một bi kịch lớn của dân tộc - bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tôi của dân tộc ta - thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc - những người sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.
5. Giá trị nghệ thuật
- Ngôn ngữ chân thực, giàu cảm xúc
- Lời văn biền ngẫu, uyển chuyển, giàu hình ảnh
- Thủ pháp liệt kê, đối lập,...
III. Dàn ý
a. Phần 1 - Lung khởi
- Mở đầu: “Hỡi ôi!”:
+ Tiếng than thể hiện tình cảm thương xót đối với người đã khuất
+ Tiếng kêu nguy ngập, căng thẳng của đất nước trước giặc ngoại xâm
-> tiếng than lay động lòng người, nỗi xót xa, đau đớn trong lòng tác giả
+ Nghệ thuật đối: “Súng giặc đất rền” – “Lòng dân trời tỏ” -> phác họa khung cảnh bão táp của thời đại
+ Hình ảnh không gian to lớn đất, trời kết hợp những động từ gợi sự khuếch tán âm thanh, ánh sáng rền, tỏ -> sự đụng độ giữa thế lực xâm lược hung bạo với vũ khí tối tân và ý chí chiến đấu của nhân dân ta.
- Mười năm công võ ruộng – Một trận nghĩa đánh Tây
+ Người nông dân trở thành người nghĩa sĩ, yếu tố thời gian phản ánh sự chuyển biến, sự vùng dậy đấu tranh mau lẹ của người dân yêu nước.
+ Hoàn cảnh đất nước bị Pháp xâm lược và sự phản ứng mạnh mẽ đấu tranh chống trả của nhân dân.
b. Phần 2 - Thích thực ( Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ )
- Trước khi giặc đến:
+ Lai lịch: là những người nông dân
+ Cuộc sống: cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy vốn quen làm...
+ Sử dụng từ láy ( cui cút ) tái hiện cuộc sống chịu khó, lam lũ, bao lo toan, vất vả nhưng vẫn nghèo túng của những người nông dân. Đó là cuộc sống gắn bó với ruộng đồng, con trâu, cái cày => họ hiền lành, chất phác.
+ Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ,...=> xa lạ, không hiểu biết với công việc nhà binh, chiến tranh.
- Khi giặc đến:mùi tinh chiên vấy vá.../ ghét thói mọi..../bữa thấy bòng bong...=> hành động tội ác và sự hoành hành ngang nhiên, khiêu khích của quân thù diệt tàn cuộc sống của người nông dân
+ Lòng căm thù giặc kìm nèn qua các yếu tố thời gian: hơn 10 tháng, đã 3 năm đến mức phản ứng tự nhiên mà quyết liệt: muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ,...
+ Nhận thức: một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu -> nhận thấy trách nhiệm của mình trước hoàn cảnh đất nước.
+ Hành động: Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình ; chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ -> tự nguyện bổ sung vào đội quân chiến đấu với quyết tâm sắt đá.
- Cuộc chiến đấu với kẻ thù của nghĩa sĩ Cần Giuộc:
+ Điều kiện chiến đấu:
Lực lượng: không quen binh đao
Vũ khí: vật dụng thô sơ
Binh thư, binh pháp: không quen, không biết
=> Vô cùng khó khăn
+ Chiến đấu:
Tinh thần: theo tình cảm tự nhiên, không tính toán, quả cảm, khí thế vũ bão
Hành động: đạp, xô, đấm, đánh, đâm, chém,...
-> Sử dụng một loạt các động từ gợi sức mạnh, tư thế hiên ngang, tinh thần quả cảm của nghĩa sĩ.
-> Bức tranh chiến trận thể hiện rõ tinh thần bão táp, hào hùng của người nghĩa sĩ Cần Giuộc.
-> Tượng đài nghệ thuật sừng sững, rực rỡ về hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc.
c. Phần 3 – Ai vãn
- Bày tỏ lòng tiếc thương, sự cảm phục của tác giả và nhân dân đối với người nghĩa sĩ -> bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của người viết
- Tiếng khóc được cổng hưởng từ nhiều nguồn cảm xúc khác nhau:
+ Nỗi tiếc, ân hận của người phải hi sinh khi sự nghiệp còn dang dở, chí nguyện chưa thành.
+ Nỗi xót xa của những gia đình mất người thân, tổn thân không thể bù đắp đối với những người mẹ già, vợ trẻ.
+ Nỗi căm giận kẻ thù gây nên nghịch cảnh éo le hòa chung tiếng khóc uất ức, nghẹn ngào trước tình cảnh đau thương của đất nước.
+ Niềm cảm phục và tự hào vì những người nông dân bình thường đã dám đứng lên bảo vệ từng tấc đất, ngọn rau, lấy cái chết làm rạng ngời chân lí cao đẹp: chết vinh còn hơn sống nhục.
+ Biểu dương công trạng của người nghĩa sĩ đời đời được nhân dân ngưỡng mộ và Tổ quốc ghi công.
-> Tiếng khóc không chỉ thể hiện tình cảm riêng tư mà cao hơn, tác giả đã thay mặt nhân dân cả nước khóc thương và biểu dương công trạng của người liệt sĩ. Tiếng khóc không chỉ gợi nỗi đau thương mà còn khích lệ tinh thần chiến đấu của người còn sống.
d. Phần 4 - Kết (Ca ngợi linh hồn bất diệt của nghĩa sĩ)
- Hai câu cuối thể hiện niềm thành kính thiêng liêng của tác giả trước hình tượng người nghĩa sĩ nông dân: nước mắt anh hùng lau chẳng ráo -> giọt nước mắt chân thành của Nguyễn Đình Chiểu.
- Bài văn tế kết thúc trong giọng điệu trầm buồn. Ngữ điệu câu không trọn vẹn -> giây phút mặc niệm, cái nấc nghẹn ngào đến đau đớn của Đồ Chiểu, của bao người gửi đến những nghĩa sĩ đã ngã xuống vì đất nước
-> Ngợi ca công đức của họ
IV. Phân tích tác phẩm Chạy giặc
Phân tích tác phẩm Chạy giặc – Bài văn mẫu số 1
Có những tác phẩm văn chương bất tử khi nó trở thành chứng nhân lịch sử, nó gắn liền với nỗi vui, buồn của một dân tộc. Bài thơ "Chạy giặc" là một bài thơ mang ý nghĩa như vậy.
Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định. Trước họa xâm lăng, Nguvễn Đình Chiểu đã viết bài thơ “Chạy giặc". Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, phản ánh nỗi đau thương của dân tộc, căm thù lên án tội ác quân Pháp xâm lược và thể hiện lòng thương xót nhân dân:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
...Nỡ để dân đen mắc nạn này?"
Hai câu đề nói lên một cục diện bi thảm của đất nước ta hồi bấy giờ. Giặc Pháp nổ súng đánh chiếm thành Gia Định. Trận đánh diễn ra như "một bàn cờ thế" phút chốc thay đổi bất ngờ “phút sa tay". Thành Gia Định thất thủ, Đồng Nai, Bến Nghé rơi vào tay giặc. Vần thơ cất lên như một lời than:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay."
Các từ ngữ: “vừa nghe tiếng súng Tây”, “phút sa tay" làm nổi bật thời gian, sự việc diễn ra bất ngờ, nhanh chóng và nói lên nồi kinh hoàng của nhà thơ, của nhân dân khi thành Gia Định bị giặc Tây nổ súng đánh chiếm. "Một bàn cờ thế" là một ẩn dụ, cách nói ước lệ, hàm súc về một cục diện chiến trường, một tình thế chiến tranh hồi ấy (1859).
Hai câu thực 3,4 tả cảnh chạy loạn, chạy giặc trong nỗi kinh hoàng của nhân dân. Các từ ngữ: "bỏ nhà". “lơ xơ chạy". "mất ổ” “dáo dát bay" đặc tả sự tan nát. hoảng sợ, hãi hùng. Nhà thơ lấy thế giới con người là "lũ trẻ” lấy thế giới thiên nhiên là "đàn chim", hai hình ảnh ấy điển hình cho nỗi đau thương của nhân dân trước thảm họa đất nước, quê hương bị xâm lược:
"Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dát bay”
Phép đảo ngữ đặt vị ngữ trước chủ ngữ để nhấn ý các chữ "bỏ nhà" và “mất ổ" tạo nên nỗi ám ảnh bi thương về cảnh chạy giặc của dân lành. Hai câu luận 5,6 đối nhau làm hiện lên hai cảnh tang thương điêu tàn nơi Bến Nghé và Đồng Nai. Gần 200 năm về trước, Bến Nghé đã là cảnh đô hội, sầm uất, trên bến dưới thuyền buôn bán tấp nập. Đồng Nai là vựa lúa miền Nam. Thế mà chỉ trong chốc lát đã bị giặc Pháp bắn giết, đốt phá, cướp bóc rất dã man.
Tài sản của nhân dân ta bị chúng cướp phá sạch sành sanh '"tan bọt nước". Nhà cửa, phố phường, làng xóm của đồng bào ta bị quân xâm lược đốt phá tan hoang. Lửa khói ngút trời, bao phủ một vùng rộng lớn "nhuốm màu mây". Nhà thơ tả ít mà gợi nhiều. Chi bằng hai hình ảnh so sánh rất chọn lọc, đổi nhau: “của tiền tan bọt nước”, “tranh ngói nhuốm màu mây" đã căm thù lên án tội ác tày trời của quân xâm lược. Nỗi đau đớn và căm thù chứa đầy vần thơ:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây."
Tội ác quân giặc không thể nào kể xiết! Nhà thơ tưởng như cất lời than uất hận trước tội ác ghê tởm của giặc Pháp:
“Bình tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé,
làm cho bốn phiá mây đen ;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai,
ai cứu một phường con đỏ
( Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc)
Sau khi hạ thành Gia Định, giặc Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Cả một vùng rộng lớn của đất nước ta chìm trong máu lửa, Phan Văn Trị, người bạn thân của Nguyễn Đình Chiểu đã căm giận viết khi nghe tiếng kèn giặc:
“Tò te kèn thổi tiếng năm ba,
Nghe lọt vào tai dạ xót xa.
Vốn khúc sông Rồng mù mịt khói,
Vắng hoe thành Phụng ủ sầu hoa..."
(Cảm tác)
Hai câu kết, cảm xúc nghẹn lại bỗng trào lên, biểu lộ một tâm trạng đau đớn, lo âu. Lo âu cho tính mạng và tài sản của nhân dân ta đang bị giặc Pháp bắn giết, cướp bóc dã man. Lo âu cho vận mệnh đen tối của đất nước. Câu hỏi tu từ thể hiện tình thương xót nhân dân đau khổ trước họa xâm lăng:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
“Chạy giặc” là bài ca yêu nước thể hiện sâu sắc lòng căm thù giặc Pháp và tình thương xót nhân dân trước họa xâm lăng. Những cảnh mà nhà thơ nghe thấy tiếng súng Tây, nhìn thấy, cảm thấy (lũ trẻ lơ xơ chạy, đàn chim dáo dát bay, của tiền tan bọt nước, tranh ngói nhuốm màu mây) là những chi tiết nghệ thuật rất hiện thực mang giá trị lịch sử sâu sắc. Bài thơ “Chạy giặc" là một chứng tích về tội ác giặc Pháp trong những ngày tháng đầu chúng xâm lược đất nước ta.
Ngôn ngữ hàm súc, nghiêm trang, chứa chan tình cảm, bài thơ thể hiện tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu. Nó cho thấy tính mẫn cảm chính trị của nhà thơ yêu nước "đâm mấy thằng gian bút chẳng tà". Với ông “thơ là súng là gươm". ("Đọc thơ Đồ Chiểu" – Lê Anh Xuân)
Phân tích tác phẩm Chạy giặc – Bài văn mẫu số 2
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ 19. Mắt bị mù lòa giữa thời trai trẻ, con đường, công danh sự nghiệp dở dang, nhưng ông đã không chịu khoanh tay trước những bất hạnh cay đắng. Ông đã mở trường dạy học, làm thầy thuốc săn sóc sức khỏe của nhân dân, viết văn làm thơ, tiếng tăm lừng lẫy, trở thành ngôi sao sáng trong nền văn nghệ Việt Nam cuối thế kỉ 19.
Tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với những truyện thơ đậm đà màu sắc cổ điển như truyện “Lục Vân Tiên", truyện "Ngư Tiều y thuật vấn đáp" ... Đỉnh cao về tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu là những bài văn tế, những bài thơ yêu nước như "Chạy giặc”, "Xúc cảnh", “Văn tế Trương Công Định", "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, v.v...
Đánh giá giá trị các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu trong những năm thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ, có ý kiến khẳng định: “Sáng tác của ông sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước…”. Nếu các truyện thơ "Lục Vân Tiên", “ Ngư Tiều y thuật vấn đáp".... sáng ngời tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp thì những bài văn tế, những bài thơ như "Chạy giặc” đã làm "sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước...
Thơ, văn tế của Nguyễn Đình Chiểu “ca ngợi những người anh hùng, suốt đời tận trung với nước, và than khóc những người liệt sĩ đã trọn nghĩa với dân. Ngòi bút, nghĩa là tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả, thật là sinh động và não nùng, cảm tình của dân tộc đối với người chiến sĩ của nghĩa quân vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước.'' (Phạm Văn Đồng). Khi Tổ quốc bị xâm lăng “súng giặc đất rền", những người áo vải chân đất "dân ấp dân lân” đã quật khởi đứng lên đánh giặc với ý chí căm thù sôi sục:
"Bữa thấy bòng bong che trắng lấp, muốn tới ăn gan,
Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ"
Họ đánh giặc là để bảo vệ "tấc đất ngọn rau", để giữ lấy “bát cơm manh áo ở đời” Vì thế, chỉ một lưỡi dao phay, một gậy tầm vông cũng ào ào xung trận. Tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang lẫm liệt:
“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ."
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Đất nước quê hương bị giặc Pháp giày xéo, tuy bị mù lòa, ông vẫn dùng ngòi bút và tấm lòng tham gia đánh giặc. Ông gọi lòng trung nghĩa của mình là "lòng đạo" chung thủy, sắt son, sáng ngời:
“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương"
Có thể nói, những câu văn, vần thơ của Nguyễn Đình Chiểu chứa chan tinh thần yêu nước, đã làm "sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước... Vì thế mà niềm mơ ước của ông vẫn là niềm mơ ước của hàng triệu con người Việt trong thế kỉ qua:
“Chừng nào thánh đế ân soi thấu,
Một trận mưa nhuần rửa núi sông.''
(Xúc cảnh)
Phân tích tác phẩm Chạy giặc – Bài văn mẫu số 3
Các nhà thơ, nhà văn được coi là những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa nghệ thuật, thật vậy, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng là một trong số các tác giả như thế. Ông đã dùng ngòi bút sắc nhọn của mình để chĩa thẳng mũi súng căm thù vào quân xâm lăng, bài thơ "Chạy giặc" là một trong những bài thơ khắc họa khung cảnh khi quê hương bị thực dân Pháp xâm lược, đó cũng là lời tố cáo của Nguyễn Đình Chiểu về tội ác của chúng.
Bài thơ được viết sau khi thực dân Pháp tấn công vào thành Gia Định - quê hương của nhà thơ (17/2/1859). Chứng kiến cảnh tượng ấy, ông không khỏi xót xa. Là một người yêu quê hương, dân tộc có ai lại không đau đớn khi mảnh đất máu thịt bị xâm chiếm, nhân dân bị áp bức tàn bạo. Hai câu thơ đầu bài thơ đã mở ra hiện thực đất nước đầy đau thương:
"Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay".
Thời điểm bắt đầu cuộc tấn công của thực dân Pháp vào Gia Định là thời điểm "tan chợ". Mọi người trong phiên chợ vừa mới bước chân ra về thì tiếng súng bắt đầu nổ. Chắc hẳn nơi ấy đã diễn ra trận càn quét của quân địch. Tiếng súng vang lên như xé tan cuộc sống yên ổn nơi đây vốn có, thay vào đó là sự lo sợ bởi chủ quyền đất nước bị xâm phạm.
"Tiếng súng Tây" là tiếng súng của thực dân Pháp. Phép ẩn dụ bàn cờ phút "sa tay" ám chỉ triều đình đã để thành Gia Định rơi vào tay giặc. Nói cách khác, quân thực dân đã xâm chiếm được đất Gia Định. Cảnh chạy giặc của nhân dân được tác giả miêu tả chi tiết mà đau xót biết nhường nào:
"Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay".
Đảo ngữ "bỏ nhà" và "dáo dác" giàu sắc thái biểu cảm khiến cho câu thơ nhuốm màu bi thương. Tiếng súng phát ra như báo trước một điều không hay sẽ xảy đến. Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng nhiều từ ngữ có khả năng gợi hình cao cùng phép đảo ngữ khiến người đọc có thể hình dung ra sự chết chóc, hoang tàn mà tác giả miêu tả. Đám trẻ con chạy không định hướng vì không có người dẫn dắt.
Chúng chạy một cách thất thần để tránh sự nguy hiểm đang ập tới. Không chỉ có con người hoảng loạn, những loài vật như đàn chim cũng bay một cách hốt hoảng, không phương hướng vì bị mất ổ, mất nơi cư trú. Từ láy "lơ xơ" và "dáo dác" đã gợi tả một khung cảnh tan tác, mọi thứ bị đảo lộn vì tiếng súng.
"Lũ trẻ" là những đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ, vô tội. Đáng lẽ chúng phải được hưởng cuộc sống thanh bình, no ấm nhưng sự xâm lược của thực dân đã khiến tuổi thơ của những đứa trẻ phải sống trong sợ hãi. Hiện lên trước mắt người đọc còn là cảnh tượng chết chóc, điêu tàn:
"Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây".
Miền Nam đang chìm trong khói lửa nghi ngút. Thành Gia Định và miền Đông Nam Bộ đã chìm trong ngọn lửa. Đi đến đâu, quân địch thực hiện càn quét, cướp bóc, giết hại dân lành đến đấy. Hành động của chúng vô cùng tàn ác, gây bao thiệt hại cho nhân dân ta. Bến Nghé hay Đồng Nai đều rơi vào tình trạng tiền của, tài sản tan nhanh chóng như bọt nước.
Những tội ác của thực dân Pháp đã được diễn đạt qua hai câu thơ có sức khái quát lớn. Nhưng những tang tóc, đau thương nhân dân ta phải gánh chịu còn nhiều hơn thế gấp nhiều lần. Đến cả những gì vô tri vô giác như con rạch, con sông cũng ngùn ngụt chí căm thù. Các ngôi nhà đổ vỡ, ngập chìm trong lửa đốt. Phải chứng kiến cảnh tượng những mái nhà bị thiêu cháy, tiền bạc của mình bỗng chốc tiêu tan có mấy ai không xót xa? Trước cảnh tượng tàn khốc như vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã cất lên câu hỏi đầy mỉa mai:
"Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mặc nạn này".
Câu hỏi tu từ đã lột tả được khung cảnh tan tác, hoảng loạn khi nhân dân chạy giặc. Đây là câu hỏi không chỉ của riêng ông mà còn là câu hỏi của nhân dân nói chung đối với triều đình phong kiến lúc bấy giờ. Nhân dân lầm than, khổ cực, rất cần một con đường giải thoát, chống lại ách áp bức nhưng "trang dẹp loạn" lại vắng bóng. Vua quan, triều đình nhà Nguyễn đi đâu vắng lại không xuất hiện và cứu giúp nhân dân đang chịu cảnh cơ cực?
Hai câu thơ cuối không chỉ thể hiện sự xót thương của tác giả trước cảnh nước mất nhà tan mà còn bộc lộ thái độ căm thù giặc sâu sắc, sự thất vọng khi triều đình không chăm lo cho cuộc sống nhân dân mà họ còn nhu nhược, bắt tay với thực dân Pháp.
Sự hèn nhát của triều đình, của những người có trách nhiệm bảo vệ đất nước, chăm lo cho cuộc sống nhân dân thật đáng mỉa mai, khinh bỉ. Sự bất lực của nhà Nguyễn đã khiến nhân dân ta rơi vào cảnh điêu đứng, không lối thoát. Câu hỏi tu từ đó cũng nhằm mục đích thức tỉnh những người con yêu nước đứng lên chống lại sự đô hộ, mang lại cuộc sống ấm no cho "dân đen".
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có kết cấu đề - thực - luận - kết chặt chẽ. Là một người con của đất Gia Định nên ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Đình Chiểu mang đậm màu sắc Nam Bộ. Bút pháp hiện thực - trữ tình được tác giả vận dụng rất triệt để và đạt hiệu quả cao. Ẩn chứa đằng sau bức tranh "Chạy giặc" là tấm lòng yêu nước thương dân sâu nặng.
Nguyễn Đình Chiểu không chỉ miêu tả chân thật cảnh tượng đất nước bị quân thực dân chà đạp, giày xéo mà còn thể hiện một tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tuy rằng ông bị mù lòa, không thể trực tiếp ra trận nhưng ngòi bút chiến đấu của ông vô cùng sắc sảo. Bài thơ "Chạy giặc" là một bài thơ tiêu biểu của văn học yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX, là lời tố cáo đanh thép, hùng hồn về tội ác của thực dân Pháp.
Phân tích tác phẩm Chạy giặc – Bài văn mẫu số 4
Bài thơ “Chạy giặc" là một bài ca yêu nước chống xâm lăng. Năm 1859, thực dân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Đất nước rơi vào thảm họa - Nguyễn Đình Chiểu viết bài thơ “Chạy giặc" bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật ghi lại sự kiện bi thảm này.
Hai câu đề nói lên thời cuộc và thế nước. Giặc Pháp tấn công thành Gia Định vào lúc “tan chợ":
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay"
Cảnh họp chợ, cảnh tan chợ là nhịp sống yên bình của nhân dân ta. Tiếng súng Tây bất ngờ nổ rền trời đã làm cho nhịp sống ấy bị đảo lộn. Cảnh chiến tranh đã bắt đầu. "Một bàn cờ thế” là hình ảnh ẩn dụ nói về thời cuộc, về cuộc chiến giằng co, ác liệt.
Ba tiếng “phút sa tay” trong câu thơ “Một bàn cờ thế phút sa tay” nói lên sự thất thủ của quân Triều đình tại thành Gia Định diễn ra quá nhanh chóng. Hai câu thơ đầu như một thông báo về sự kiện lịch sử bi thảm diễn ra vào năm 1859. Đằng sau câu thơ là nỗi lo lắng và kinh hoàng của nhà thơ trước thảm họa quê hương đất nước thân yêu của mình bị giặc Pháp chiếm đóng và giày xéo.
Hai câu trong phần thực đối nhau, phép đảo ngữ được vận dụng sắc sảo: Vị ngữ “bỏ nhà" và “mất ổ được đặt lên đầu câu thơ nhằm nhấn mạnh nỗi đau thương tang tóc của nhân dân ta khi giặc Pháp tràn tới:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ, đàn chim dáo dát bay"
Nếu viết "Lũ trẻ bỏ nhà lơ xơ chạy" và “Đàn chim mất ổ dáo dát bay” thì ý vị câu thơ và giá trị biểu cảm sẽ không còn gì nữa! từ láy “lơ xơ” và “dáo dát" gợi tả sự hoảng loạn và kinh hoàng đến cực độ. Cảnh trẻ con lạc đàn, chim vỡ tổ là hai thi liệu chọn lọc, điển hình theo cách nói của dân gian tả cảnh chạy giặc vô cùng thảm thương.
Hai câu luận, ý thơ được phát triển và mở rộng. Tác giả lên án tội ác của giặc Pháp càn quét, đốt nhà, giết người, cướp của tàn phá quê hương. Phép đối và đảo ngữ được vận dụng sáng tạo. Nhà thơ không viết: “Cửa tiền Bến Nghé tan bọt nước" và “Tranh ngói Đồng Nai nhuốm mầu mây", mà viết:
"Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây"
Câu thơ đã vẽ lên một vùng địa lý bao la và trù phú (Bến Nghé, Đồng Nai) phút chốc biến thành đống tro tàn. Bến Nghé, Đồng Nai trong thế kỉ 19 vốn đã là vựa lúa và nơi buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền thế mà đã bị giặc Pháp cướp phá tan hoang. Tiền của, tài sản của nhân dân ta bị giặc cướp phá sạch ‘'tan bọt nước". Nhà cửa xóm làng quê hương nhà thơ bị đốt cháy, lửa khói nghi ngút “nhuốm màu mây". Hai hình ảnh so sánh "Tan bọt nước" và “nhuốm màu mây" là cách nói cụ thể của dân gian đặc tả cảnh điêu tàn do giặc Pháp gây ra.
Có thể nói hai cặp câu trong phần thực và phần luận là tiếng nói căm thù của nhà thơ lên án tội ác giặc Pháp xâm lược. Người đọc cảm nhận một cách sâu sắc bài thơ “Chạy giặc" đã làm "sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước”. Các nhà thơ Việt Nam sau này đã học tập và kế thừa Nguyễn Đình Chiếu để viết nên những vần thơ căm giận quân xâm lược:
“Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau”
( Núi Đôi - Vũ Cao)
"Giặc về giặc chiếm đau xương máu,
Đau cả lòng sông, đau cỏ cây”
(Quê mẹ -Tố Hữu)
Trong hơn một thế kỷ qua, có biết bao xương máu của nhân dân đã đổ xuống vì bom đạn lũ xâm lược. Cho nên tiếng nói căm thù là cảm xúc chủ đạo của các bài thơ yêu nước. Trở lại hai câu kết bài “Chạy giặc", ta xúc động trước câu hỏi của nhà thơ:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?"
Trang dẹp loạn" cũng là trang anh hùng hào kiệt. “Rày đâu vắng": hôm nay, bữa nay đi đâu mà không thấy xuất hiện? Nhà thơ vừa trách móc quan quân Triều đình hèn yếu, thất trận để giặc chiếm đóng quê hương, vừa mong đợi người anh hùng tài giỏi ra tay đánh giặc để cứu nước cứu dân thoát khỏi cảnh lầm than.Câu kết chứa đựng biết bao tình yêu thương của Nguyễn Đình Chiểu đối với nhân dân đang quần quại trong bom đạn giặc! “Chạy giặc" là bài ca yêu nước mở đầu cho thơ văn yêu nước của dân tộc ta từ cuối thế kỷ 19.
Bài thơ “Chạy giặc" được viết bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân dã đậm đặc màu sắc Nam Bộ (lũ trẻ lơ xơ, ổ, dáo dát, tan bọt nước, nhuốm màu mây, rày, nỡ, dân đen). Phép đối, phép đảo ngữ, ẩn dụ so sánh là những biện pháp nghệ thuật được tác giả vận dụng sáng tạo để viết nên những vần thơ hàm súc, biểu cảm.
“Chạy giặc" là bài thơ mang giá trị lịch sử to lớn. Nó ghi lại sự kiện đau thương của đất nước ta cuối thế kỷ 19. Nó là bài ca yêu nước căm thù giặc" sống dậy và hướng tới chúng ta khát vọng độc lập, tự do".
Phân tích tác phẩm Chạy giặc – Bài văn mẫu số 5
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của Việt Nam. Ông là gương mặt tiêu biểu của nhân dân Nam Bọ trong phong trào thơ ca yêu nước chống quân xâm lược. Những tác phẩm của ông thường có tính đấu tranh vô cùng mạnh mẽ. Phê phán và lên án sự tàn bạo của quân thực dân xâm lược. Bài thơ “Chạy giặc” là một tác phẩm điển hình cho phong cách thơ của ông.
Bài thơ dường như đã tái hiện được khung cảnh xã hộ Việt Nam trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, với những sự hoang tàn, bi đát. Hôm nay chúng ta hãy cùng nhau phân tích và nghị luận bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu.
Thực dân Pháp đô hộ nước ta vào những năm 1958. Chúng đã thể hiện sự bành trướng của mình, khiến cho nhân dân ta lâm vào cảnh khổ cực khốn cùng. Trước những cảnh đau thương thương tang tóc này. Nguyễn Đình Chiểu đã không khỏi đau xót thương tâm.
Lòng yêu nước trỗi dậy, sự căm thù quân xâm lược càng dâng cao. Và trong cái tình cảnh ấy, ông đã sáng tác bài thơ “Chạy giặc” như là một sự minh chứng về thời kỳ lầm than của dân tộc ta trong bối cảnh hỗn loạn. Bài thơ cũng thể hiện sự căm thù đến tột cùng đối với quân xâm lược tàn bạo. Mở đầu bài thơ là một sự tái hiện về những tiếng súng dữ dội của kẻ thù”
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng tây
Một bàn cờ thế phút sa tay”
Mở đầu bài thơ, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện lại không khí đầy dữ dội khi tiếng súng Tây. Làm cho mọi người trở nên hoảng loạn, mọi vật đều nhuốm màu bi thương. Không gian mà nhà thơ tái hiện đó chính là không gian của một khu chợ. Và thời điểm được gợi nhắc đến đó chính là thời điểm “tan chợ”.
Lúc này chính là lúc người người đang tấp nập rủ nhau ra về sau buổi chợ. Khi ấy thì tiếng súng Tây bắt đâu nổ dồn, đây là sự hủy diệt tàn bạo của lũ giặc cướp nước. Bởi chúng nhằm vào thời điểm con người mất cảnh giác nhất, tập trung đông đúc nhất để nổ súng, sát hại người dân ta. Ở đây tác giả vừa thể hiện được hành động tàn bạo, vô nhân tính của quân Pháp. Vừa thể hiện được thái độ căm thù của mình với chúng.
Hai từ “súng Tây” như một kiểu nói cộc lốc. Một sự coi thường quân cướp nước, một sự lên án của những kẻ chỉ muốn dùng vũ lực bằng súng. Và trong cái tiếng súng đột ngột đó khiến cho rất nhiều người phải sợ hãi, hoảng loạn. “Một bàn cờ thế lúc sa tay” với ý nghĩa là khi đang chơi một ván cờ thế. Bỗng dưng do tiếng súng kia là cho giật mình và làm những quân cờ sa xuống bàn cờ. Tội ác của kẻ thù thực sự đáng ghê sợ, một hành động đáng bị lên án.
Hai từ “súng Tây” đã thể hiện được điều đó, tác giả không lên án trực tiếp bọn thực dân Pháp mà gọi chúng với cái tên đầy coi thường. Bọn Tây, tức những người khác chúng ta về chủng tộc, mang trong mình âm mưu thâm độc, thấp hèn đáng coi thường, chúng dùng bạo lực chèn ép dân ta, hành động thật đáng lên án. Trong một tác phẩm khác của mình, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng thể hiện được thái độ căm thù khôn siết của mình đối với bọn giặc.
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Tiếng súng Tây đột ngột nổ dồn khiến cho mọi người có mặt trong khung cảnh ấy hoảng loạn, sợ hãi “Một bàn cờ thế lúc sa tay”. Câu thơ này có thể hiểu là những người chơi cờ vì bị tiếng súng làm cho giật mình mà làm sa những quân cờ xuống bàn cờ.
Hoặc ta cũng có thể hiểu bàn cờ thế lúc sa tay này chính là thực trạng của Việt Nam lúc bấy giờ, là lúc dân tộc ta đang thất thế trước quân giặc. Chúng đã lợi dụng tình hình bất ổn của đất nước ta mà nhảy vào xâm lược, gây ra bao nhiêu cảnh đau khổ. Khung cảnh khi có tiếng súng Tây cũng thật hỗn loạn, xơ xác. Không chỉ con người mà ngay cả những loài vật cũng hoảng loạn, tìm đường chạy chốn, ẩn náu:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay”
Đó là cảnh những đứa trẻ vì bị tiếng súng dọa cho giật mình, sợ hãi mà bỏ nhà chạy toán loạn. Muốn chạy trốn tiếng súng cũng như sự hủy diệt đáng sợ ấy “Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy”, chúng mới chỉ là những đứa con nít. Hàng ngày phải sống trong khung cảnh dữ dội, hủy diệt của bom đạn quả thực vô cùng đáng thương. Chúng đang ở tuổi hồn nhiên nhất của cuộc đời, là những lúc vô lo, vô nghĩ nhất nhưng lại sinh ra trong giai đoạn đất nước đầy biến động, bạo loạn.
Không chỉ có lũ trẻ sợ hãi, mà ngay cả những loài vật trong tự nhiên cũng bị sự hủy diệt của kẻ thù mà mất đi nơi sinh sống. Hoảng loạn mà bay dáo dác khắp nơi để tìm chỗ trú ẩn. Không khí mà nhà thơ gợi ra ở đây thật hỗ loạn, bi thương.
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”
Một địa danh của Gia Định là Bến Nghé, khi bị xâm phạm. Những thứ vô tri như bến nước, dòng sông cũng đã bị lay động. Những đồng cảm của những thứ vốn vô tri đó với thực cảnh đất nước đang trong chiến tranh. Bọt nước vỡ tan ở Bến Nghé, khung cảnh yên bình không còn nữa. Sự vỡ tan ấy cũng như sự phẫn nộ của đất trời, thiên nhiên vô tri trước tội ác của quân giặc.
Dòng sông Đồng Nai cũng bị nhuốm màu của bi thương, đau khổ. Đó chính là sự đồng cảm, hòa quyện giữa thiên nhiên và lòng người. Cái cảnh đau thương của con người, cũng làm cho cảnh vật vô tri cũng có cảm xúc. Nó chính là một sự phẫn nộ trước sự tàn phá của kẻ thù.
“Hỏi trang dẹp loạn này đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này”
Như một câu hỏi trước sự thật đau lòng. Đất nước đang bị tàn phá, người dân phải chịu khổ cực. Một câu hỏi như là một lời trách móc đối với cái triều đình vô dụng nhà Nguyễn. Một triều đình thực sự nhu nhược, chỉ biết đến lợi ích của mình mà quên đi những người dân đang sống trong cảnh mắc nạn. Để cho quân xuân lược chèn ép, áp đặt “mắc nạn này”. Một sự chờ đợi mong mỏi, có một người tài trí, một vị tướng tài ba sẽ đứng lên chống lại kẻ thù. Nhưng vào thời điểm này, thì đâu có xuất hiện ai bởi cái triều đình thối nát đó.
Qua “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta thấy được đây thực sự là một tuyệt phẩm thơ của ông trong thời kỳ biến loạn của đất nước dưới sự xâm lực của quân thực dân. Bài thơ đã thể hiện được tình yêu đất nước, và qua đó cũng thể hiện sự căm thù quân xâm lược. Bài thơ là một sự thể hiện cảm xúc thực, tình cảm thực của chính Nguyễn Đình Chiểu.