Người trong bao (Sê-khốp)
I. Đôi nét về tác giả Sê-khốp
- An-tôn Páp-lô-vích Sê-khốp (1860-1904) là đại biểu lớn cuối cùng của văn học hiện thực Nga thế kỉ XIX, nhà cách tân thiên tài về hai thể loại truyện ngắn và kịch nói
- Ông xuất tân trong gia đình buôn bán nhỏ tại thị trấn Ta-gan-rốc bên bờ bờ biển A-dốp
- Sau khi tốt nghiệp đại học Y, Sê-khốp vừa làm bác sĩ nông thôn vừa viết báo, viết văn đồng thời tham gia nhiều công việc xã hội , giáo dục, văn hóa
- Các tác phẩm chính:
+ truyện ngắn và vừa: Anh béo và anh gầy, Con kì nhông, Phòng số 6, Đồng cỏ,....
+ kịch nói: Hải âu, Ba chị em, Vườn anh đào,....
- Đặc điểm sáng tác:
+ tập trung lên án một cách nghiêm khắc chế độ xã hội bất công, thói cường bạo và cuộc sống ăn hại của những kẻ ở trong đám cường quyền lúc bấy giờ
+ phê phán sự bất lực của giới trí thức, đồng cảm, trân trọng người lao động nghèo
+ thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai của nhân dân và đất nước Nga
II. Đôi nét về tác phẩm Người trong bao (Sê-khốp)
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Truyện ngắn được sáng tác năm 1898 trong thời gian nhà văn dưỡng bệnh ở thành phố I-an-ta, trên bán đảo Crưm, biển Đen
2. Bố cục
- Mở truyện: cuộc trò truyện ở gần nhà kho giữa bác sĩ thú y và thầy giáo
- Thân truyện: chân dung và tính cách nhân vật Bê-li-cốp
- Kết truyện: nhận xét của bác sĩ thú y- người nghe truyện
3. Tóm tắt
Bê-li-cốp là một giáo viên dạy tiếng Hi Lạp ở thành phố nhỏ nước Nga, ông nổi tiếng với phong cách ăn mặc hết sức đặc biệt. Quanh năm ông đều đi giày cao su, cầm ô và luôn luôn phải mặc thêm áo bành tô ấm cốt bông. Ông luôn để những dụng cụ cá nhân của mình vào một cái bao. Bê-li-cốp khát khao thu mình vào trong một cái vỏ, tạo cho mình một vỏ bọc để ngăn cách bảo vệ bản thân không phải chịu những ảnh hưởng, tác động từ bên ngoài. Vì nó là cuộc sống khiến Bê-li-cốp cảm thấy khó chịu và sợ hãi vì vậy, ông luôn có ý nghĩ không thực, luôn ngợi ca quá khứ, mơ tưởng về những thứ không tồn tại. Ngay cả ý nghĩ ông cũng sợ có người biết được, ông luôn cố giữ như cất giấu vào bao. Bê-li-cốp có thói quen rất kì quặc đó là đi hết nhà các giáo viên cùng dạy. Đến bất kỳ nhà nào, ông cũng kéo ghế ngồi rồi chẳng nói bất kỳ điều gì, chỉ nhìn xung quanh như đang tìm kiếm thứ gì đó, khoảng một giờ sau thì ông ra về. Ai cũng sợ ông, từ giáo viên đến hiệu trưởng, hiệu phó. Tuy sống cô đơn, một mình, nhưng ông cũng nghĩ đến việc sẽ cưới vợ. Và người đó là Va-ren-ca, là chị gái của Cô-va-len-cô, giáo viên trẻ mới ra trường. Có người đã gửi cho Bê-li-cốp một bức tranh châm biếm. Ngày chủ nhật hôm sau, Bê-li-cốp chứng kiến cảnh hai chị em Va-ren-ca phóng xe vút qua khiến Bê-li-cốp vô cùng ngạc nhiên và hoảng hốt. Nên tối hôm đó, Bê-li-cốp đã đến nhà Va-ren-ca để góp ý hai chị em họ. Hai người họ cãi nhau, Bê-li-cốp dọa sẽ báo cáo sự việc này với hiệu trưởng nên Cô-va-len-cô đã túm áo và xô mạnh khiến Bê-li-cốp ngã nhào xuống cầu thang. Va-len-ca cười lớn, làm Bê-li-cốp cảm thấy nhục nhã vội vàng trở về nhà. Một tháng sau, Bê-li-cốp qua đời, mọi người cảm thấy nhẹ nhõm nhưng không lâu sau, lối sống cũ đã trở lại vì tính cách của Bê-li-cốp đã ảnh hưởng quá lớn đối với mọi người.
4. Giá trị nội dung
- Qua hình tượng người trong bao tác giả phê phán sâu sắc lối sống hèn nhát, bạc nhược, bảo thủ và ích kỉ của một bộ phận tri thức Nga cuối thế kỉ XIX
- Từ đó nhà văn khẩn thiết thức tỉnh mọi người: Không thể sống mãi như thế được
5. Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, giọng kể chậm dãi vừa giễu cợt vừa châm biếm, mỉa mai, u buồn
III. Phân tích tác phẩm
a) Dàn ý
1. Chân dung nhân vật Bê-li-cốp
a. Hình thức bên ngoài
- Là gã đàn ông xấu xí, mắt nhỏ, mặt choắt như mặt chồn,...
- Lúc nào cũng đi giày cao su, cầm ô và mặc áo bành tô ấm cốt bông
⇒ những thứ có thể bao bọc hắn, giúp hắn giấu mình
- Mọi vật dụng đều được để trong những chiếc bao: Ô hắn để trong chiếc bao, chiếc đồng hồ quả quýt cũng để trong bao....và khi rút chiếc dao nhỏ thì chiếc dao ấy cũng để trong bao. Cả bộ mặt.....dường như cũng ở trong bao.
- Hắn không muốn nhìn, không muốn nghe, không muốn để thế giới bên ngoài tiếp xúc vào con người hắn⇒ đó là khát vọng thu mình tuyệt đối mãnh liệt của hắn
- Ngay cả ý nghĩ hắn cũng cố giấu vào trong bao, không bao giờ hắn có ý kiến trước vấn đề to nhỏ nào
⇒ Chân dung Bê-li-cốp điển hình cho kiểu người cố thu mình vào trong cái vỏ, một thứ bao có thể ngăn cách bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng bên ngoài
b. Tính cách Bê-li-cốp
- Nhút nhát, ghê sợ cuộc sống hiện tại nhưng lại ngợi ca quá khứ, ngợi ca những gì chưa bao giờ có thực
- Chỉ thích sống với những cái rõ ràng như thông tư, chỉ thị và cảm thấy rầu rĩ trước những chuyện vi phạm khuôn phép, trái với lẽ thường ⇒cách sống giáo điều, rập khuôn như cái máy vô hồn
- Lúc nào cũng lo lắng sợ hãi (điệp khúc nhỡ lại xảy ra chuyện gì cho thấy hắn luôn tự suy diễn, tự tạo nỗi sợ cho mình)
- Tính cách kì quái của hắn còn thể hiện qua sinh hoạt và đời sống tình cảm
- Một con người hèn nhát, cô độc giáo điều, luôn thu mình trong vỏ bọc lại cảm thấy hài lòng thỏa mãn với lối sống cổ hủ của mình. Anh ta tự nguyện, tự giác tuân thủ lối sống đó, chẳng cảm nhận được thái độ ghê sợ, khinh ghét của mọi người với mình
⇒ Bê-li-cốp tự chìm đắm trong quá khứ, thu mình một cách cô độc, tự làm khổ mình và mọi người xung quanh
c. Lối sống của Bê-li-cốp ảnh hưởng tới mọi người xung quanh
- Mọi người sợ hắn sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, giúp đỡ người nghèo, dạy học chữ,... Hắn đã khống chế cả trường, cả mọi người xung quanh suốt 15 năm dai dẳng
- Kô-va-len-cô ghét cay ghét đắng Bê-li-cốp. Anh bị hắn chỉ trích là sống buông thả không có thể thống khi mặc áo thêu ra đường, đi ngoài phố cầm theo sách này sách nọ , lại còn cưỡi xe đạp khi chưa có chỉ thị nào cho phép. Anh đã to tiếng với hắn, đẩy hắn ngã xuống cầu thang
- Ngay khi hắn chết rồi lối sống đó vẫn còn dai dẳng bởi hắn đại diện cho một kiểu người điển hình đang tồn tại trong xã hôi lúc ấy
- Thái độ thận trọng, đa nghi khiến hắn luôn xét nét hành vi của mọi người
2. Ý nghĩa xã hội của nhân vật điển hình Bê-li-cốp
- Chân dung tinh thần của nhân vật này có tính chất khái quát, tiêu biểu cho lối sống ích kỉ thu mình vào trong bao của một bộ phận trí thức đương thời
- Tác giả phê phán mạnh mẽ kiểu người trong bao, lối sống trong bao bởi nó là hiện tượng tiêu cực ngăn cản bước tiến của xã hội. Thông điệp mà tác giả muốn gửi tới mọi người là hãy thay đổi cuộc sống cũ kĩ, hãy sống cho ra sống
- Tác giả ngầm khẳng định kiểu người trong bao ấy thì sống cũng như chết. Chỉ có cuộc cách mạng thực sự tiến bộ mới xóa hết được lối sống ích kỉ ấy
3. Nghệ thuật
- Nhân vật trong câu chuyện đồng thời là người kể chuyện ở ngôi thứ nhất. Tác giả giữ ngôi thứ ba kể lại câu chuyện của Pu-rơ-kin làm tăng tính chân thật khách quan cho câu chuyện
- Giọng kể trầm tĩnh, bình thản, khách quan nhưng bên trong đầy trăn trở, bức xúc
- Xây dựng nhân vật vừa cụ thể vừa khái quát, tính các nhân vật kì quái mà vẫn chân thực
- Hình ảnh cái bao, câu nói lặp đi lặp lại của nhân vật: Nhỡ lại xảy ra việc gì thì sao có giá trị nghệ thuật cao
b) Phân tích tác phẩm
Phân tích tác phẩm Người trong bao – Bài văn mẫu số 1
Sê-khốp là nhà văn lớn, là cây đại thụ trong nền văn học Nga, ông đã để lại cho nhân loại một kho tàng những tác phẩm có giá trị vô cùng to lớn. Dưới ngòi bút của nhà văn, toàn cảnh xã hội Nga cuối thế kỷ XIX hiện lên một cách rất chân thật, đó là một đất nước ngột ngạt, tù túng, chuyên chế bảo thủ dưới thời kỳ nắm quyền của Nga hoàng. Nhà văn Sê-khốp có lối viết văn rất lôi cuốn, ngôn ngữ sinh động tự nhiên, phản ánh chân thực con người và xã hội Nga lúc bấy giờ.
Truyện ngắn Người trong bao được ông viết năm 1898, đã khắc hoạ thành công hình tượng nhân vật Bê-li-cốp, một anh giáo chức tỉnh lẻ với cái đầu chứa đầy thành kiến, qua đó tác giả châm biếm và đả kích những người tri thức Nga với lối sống “trong bao” cổ hủ, lạc hậu, thích phê phán, bất an trước những gì vượt ra ngoài giới hạn cho phép của mình, và tự coi đó là lỗi lầm của người khác.
Nhân vật chính trong truyện là Bê-li-cốp, một giáo viên dạy tiếng Hy Lạp có lối sống rất kỳ lạ “sống đơn độc như những con ốc, con sên cố thu mình vào vỏ bọc”. Hắn khác thường trong cả cách sống và lối suy nghĩ dị hợm. Lúc nào cũng vậy, bất kể trời mưa hay nắng, thời tiết đẹp hay xấu hắn đều khoác lên mình một bộ trang phục hết sức kỳ cục. Hắn “đi giày cao su” tay cầm ô, mặc áo “bành tô ấm cốt bông”, hắn luôn mang theo bên mình chiếc bao làm bằng da hươu để dựng nào là ô, chiếc đồng hồ quả quýt, nào là dao nhỏ gọt bút chì, ngay cả bộ mặt hắn dường như cũng muốn để cả vào trong bao, bởi Bê-li-cốp luôn “giấu mặt sau chiếc cổ áo bành tô bẻ đứng lên”.
Không những thế anh ta còn đeo kính râm, và nhét bông vào tai, đi xe ngựa thì bao giờ cũng phải “cho kéo mui lên”. Với cách miêu tả chân thật, sinh động của tác giả, Bê-li-cốp hiện lên như một kẻ dị hợm và rất nực cười. Giọng văn của Sê-khốp rất hóm hỉnh, hài hước, không cần phải là những câu văn hoa mỹ, chau chuốt nhưng vẫn làm hiện trong đầu người đọc một hình tượng nhân vật “người trong bao” điển hình thuở bấy giờ.
Bê-li-cốp không sống như người thường, có lẽ hắn chỉ đang tồn tại mà thôi, hắn chán ghét cuộc sống, sợ hãi mọi thứ trên cuộc đời. Để bào chữa cho thái độ nhút nhát, hèn kém không dám đối diện với hiện tại của mình hắn luôn nhớ về quá khứ, “ca ngợi những thứ không bao giờ có thật”. Bê-li-cốp chọn dạy tiếng Hy Lạp, một thứ ngôn ngữ cổ, có lẽ đó là môn học an toàn, không có gì đáng phàn nàn “nhờ đó hắn có thể trốn tránh được cuộc sống thực”. Phải chăng đã quen với lối sống tù túng, ngột ngạt mà bất kể thứ gì anh ta muốn làm đều phải thông qua “chỉ thị, thông tư”, còn nếu như không có chỉ thị, thông tư hay bất cứ quy định nào thì đều không được làm.
Cứ mỗi lần có ý định thoát ra khỏi “cái bao” của mình thì hắn lại sợ hãi “nhưng lỡ lại xảy ra chuyện gì” và cứ thế hắn không bao giờ thoát ra khỏi cái “vỏ ốc sên” kia cho đến cuối đời. Mỗi khi có chuyện gì trái với khuôn phép, trái với lẽ thường đều làm hắn rầu rĩ mặc cho chuyện đó vốn “chả liên quan gì đến hắn”. Đáng buồn thay điều gì đã khiến Bê-li-cốp trở thành kẻ có tính cách lạ lùng và có phần bệnh hoạn như vậy? Chắc bởi sống dưới thời Nga hoàng chuyên chế nặng nề cùng với những giáo điều thắt chặt đã làm cho một người bình thường phải ép bản thân đi vào khuôn phép, cả đời sống trong tù túng, bó buộc. Bê-li-cốp vừa đáng thương vừa đáng giận, vừa hèn kém nhưng cũng thật tội nghiệp biết bao!
Cách sống của Bê-li-cốp cũng rất lạ thường và lẩm cẩm. Hắn cho rằng việc đến nhà các đồng nghiệp ngồi im cả tiếng đồng hồ không nói năng gì rồi rời đi là để "duy trì những mối quan hệ tốt với bạn bè". Có thể nói Bê-li-cốp cũng sợ cô đơn nhưng hắn hoàn mất đi khái niệm về lẽ sống đúng nghĩa, “kẻ dị hợm” bao năm thao túng cả thành phố nhỏ bé này, làm tất cả mọi người đều đâm ra “sợ tất cả”, “cái thằng cha quanh năm đi giày cao su và mang ô ấy” khống chế cả trường học, ngay cả thầy hiệu trưởng cũng phải sợ hắn.
Ngay cả khi ở nhà, hắn cũng sống trong sợ hãi: “Mặc áo khoác ngoài, đội mũ, đóng cửa, cài then”, như kẻ mắc bệnh hoang tưởng hắn sợ bóng tối, sợ ánh sáng, sợ ăn trộm,… Và trong đầu luôn tồn tại cái suy nghĩ nhạt nhẽo “lỡ lại xảy ra chuyện gì”. Sê-khốp đã cho người đọc cảm nhận được cái lối sống ấy dường như đã bao trùm lên cả bầu trời một màu tối đen đáng sợ, những “người trong bao” họ đã chết ngay cả khi đang sống, chưa bao giờ cảm nhận được hạnh phúc, tâm hồn luôn nặng trĩu như người sống trong ngục tù âm u, lạnh lẽo.
Ấy vậy, mà một người dị biệt đã ngoài tứ tuần như Bê-li-cốp lại từng tính đến chuyện sẽ kết hôn. Mọi người ra sức ghép đôi cho hắn với nàng Va-ren-ca xinh đẹp, có lẽ họ nghĩ hắn sẽ thay đổi lối sống khi có tình yêu của một người phụ nữ sôi động, nồng thắm. Chỉ vì chuyện này, hắn đã suy nghĩ nhiều đến mức “gầy gò hẳn đi, mặt mày nhợt nhạt”, sự việc đến quá đột ngột khiến một kẻ hèn nhát sợ hãi đủ thứ trên đời như hắn lại càng “thu mình sâu hơn vào trong bao”. Phải chăng hắn là một kẻ cổ hủ với cái đầu chứa đầy thành kiến? Chỉ vì nhìn thấy chị em Van-ren-ca đi xe đạp giữa phố đã khiến hắn sửng sốt, tình yêu vì thế mà cũng phai mờ đi.
Cuộc đời của tên nhà giáo tỉnh lẻ Bê-li-cốp cũng thật là bi hài! Chẳng phải vậy thì sao chỉ bằng “tiếng cười phá lên” của Va-ren-ca khi chứng kiến hắn bị xô ngã nơi chân cầu thang, đã có thể chấm dứt tất cả “chuyện cưới xin” và “cả cuộc đời của Bê-li-cốp”. Một tháng sau Bê-li-cốp chết, vẻ mặt hắn lúc nằm trong quan tài “hiền lành, dễ chịu” và có phần “tươi tỉnh” chắc vì đang hạnh phúc khi được vĩnh viễn chui vào trong cái bao của mình, không còn phải đối diện với cuộc sống ngoài kia nữa. Đây quả là một bức tranh biếm hoạ cười ra nước mắt, một người sao có thể ngủ “không bao giờ dậy nữa” chỉ vì một tiếng cười? Nhưng đối với Bê-li-cốp đấy là cả một sự nhục nhã, một kẻ luôn sống với giáo điều, một kẻ đạo đức giả chuyên dạy đời người khác như hắn thì đó quả là một sự đả kích quá lớn đến nỗi không có cách nào vượt qua.
Cứ ngỡ Bê-li-cốp chết đi, cuộc sống trong thành phố sẽ thay đổi màu sắc mới, không khí mới. Nhưng không, cuộc sống “nhẹ nhàng thoải mái” chẳng thể nào kéo dài lâu, thay vào đó là cuộc sống vô vị, nhàm chán “chẳng khác lúc trước là bao”. Những kẻ “sống trong bao” không chỉ có mình Bê-li-cốp mà họ đầy rẫy trong xã hội Nga khi ấy và “trong tương lai sẽ còn bao nhiêu người như thế nữa”. Nhà văn Sê-khốp đã tái hiện thành công cái lối sống dung tục, tầm thường, lạc hậu, sặc mùi giáo điều đã đầu độc người dân, đẩy họ vào cuộc sống đau khổ, tù túng, đã để lại bao hệ quả nặng nề tồn tại trong đất nước Nga cuối thế kỷ XIX. Ngôn ngữ chân thực, mộc mạc mà không kém phần sinh động đã góp phần xây dựng cốt truyện lôi cuốn hấp dẫn người đọc, tạo nên một hình tượng nhân vật đặc sắc điển hình “Người trong bao”.
Người trong bao của Sê-khốp là một tác phẩm mang lại cho người đọc thật nhiều cảm xúc, vừa bi hài vừa đáng để suy ngẫm, vừa tiếc thương cho một kiếp người sống vô nghĩa. Qua truyện ngắn, nhà văn không chỉ phản ánh khách quan hiện thực xã hội Nga lúc bấy giờ, mà ông còn khéo léo nhắc nhở mỗi con người: Hãy nhìn cuộc sống với sự lạc quan vốn có, giữ cho tâm không phê phán, hơn thua. Nếu ta cảm thấy cuộc sống không hạnh phúc, vấn đề không phải do một ai khác mà nó nằm ngay chính tâm ta.
Chúng ta hãy mở rộng tấm lòng với mọi người và với thế giới xung quanh, tiếp nhận những sự đổi mới để có được một cuộc sống hạnh phúc, ngập tràn tươi trẻ, đừng sống như nhân vật Bê-li-cốp, suốt đời sống trong cái vỏ bọc hài hước của mình, rồi đến cuối cùng cuộc đời chấm dứt trong vô vị, nhạt nhẽo.
Phân tích tác phẩm Người trong bao – Bài văn mẫu số 2
Sê-khốp (1860-1904) là một trong những cây đại thụ của rừng văn học Nga, đã để lại nhiều kịch bản và hơn năm trăm truyện ngắn. Tác phẩm của Sê-khốp làm hiện lên toàn cảnh xã hội nước Nga cuối thế kỉ XIX ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thủ nặng nề dưới thời Sa hoàng.
Truyện ngắn "Người trong bao" được Sê-khốp viết vào năm 1898. Qua nhân vật Bê-li-cốp, tác giả châm biếm và đả kích người trí thức Nga sống tầm thường, hủ lậu, hèn nhát và giáo điều, đê tiện và dung tục; đồng thời chỉ ra lối sống ấy đã để lại nhiều di hại đầu độc tâm hồn người, đầu độc cuộc sống, gây ảnh hưởng và hậu quả nặng nề, dai dẳng trong xã hội nước Nga. Cái bao mang hàm nghĩa về một kiếp người, một lối sống, một xã hội đen tối, tù túng, nặng nề mà không sao thoát ra được, chết rồi cũng không thoát ra được!
Cuộc đời của anh giáo chức tỉnh lẻ Bê-li-cốp là những trang hài, là một bức tranh biếm hoạ cười ra nước mắt. Chả thế mà cô giáo Va-ren-ca đã "cười phá lên" khi Bê-li-cốp bị xô ngã "lộn nhào" xuống chân cầu thang, và cô đã "òa lên khóc" khi hắn đã nằm trong bao đi chầu âm phủ!
Bê-li-cốp, giáo viên trung học dạy tiếng Hi Lạp cổ. Hắn quen sống trong tù túng, nô lệ. Với hắn thì "nếu không có chỉ thị nào cho phép thì ta không được làm. Hắn sống vì quá khứ, như một kẻ mang bệnh tâm thần, lúc nào cũng sống trong tâm trạng "sợ hãi", "lo âu", "nhút nhát" . Hắn chỉ có một chút niềm vui do bệnh nghề nghiệp sinh ra. Hắn nói "ngọt ngào”: "Ôi, tiếng Hi Lạp nghe thật tuyệt vời êm tai", rồi "nheo mắt lại", "giơ một ngón tay lên" và thốt ra tiếng: "An-thro-pos”. Phải chăng lúc đó gã Bê-li-cốp hạnh phúc nhất. Chắc lúc ấy hắn đã thò đầu ra khỏi cái bao trong khoảnh khắc!
Bê-li-cốp sống một cách kì quặc, vừa lập dị vừa lẩm cẩm. Con người hắn cuộc đời hắn, từ cử chỉ, hành động đến ngôn ngữ sinh hoạt. Hắn như đã bị cầm tù, đã bị nhốt vào bao. Quanh năm suốt tháng, nắng mưa, ngay cả mùa hạ hắn vẫn khoác áo bành tô ấm cốt bông! Lúc nào chân cũng đi giày cao su. Chiếc ô, đồng hồ quả quýt, con dao nhỏ để gọt bút chì... tất cả đều đút trong bao. Ngồi xe ngựa, hắn bắt phải hạ mui xe. Bộ mặt hắn cũng được giấu kín trong bao, đó là cái cổ áo bành tô cổ bẻ. Lỗ tai hắn cũng nhét bông. Mọi ý nghĩ, hắn "cũng giấu vào bao". Với hắn thì cái bao là một thứ vỏ bọc để "ngăn cách, bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng bên ngoài". Nhưng thật hài hước, đầu óc hắn cũng chỉ là một cái bao cổ hủ để bọc lấy những chỉ thị, thông tư, những bài báo quy định cấm đoán điều này điều nọ mà hắn cho là "rõ ràng". Hắn vừa hèn vừa đáng thương! Hắn thật tội nghiệp!
Qua các chi tiết nói về cái bao, Sê-khốp châm biếm một loại "linh hồn chết" trong xã hội Nga cuối thế kỉ XIX, đó là loại trí thức sống lạc hậu, cổ hủ, nô lệ, mù quáng, sống cuộc đời chật hẹp, quẩn quanh tù túng. Cách sống của Bê-li-cốp cũng rất kì lạ. Hắn có một thói quen "kì quặc". Hắn thường đến các nhà giáo viên, như hắn nói đến để "duy trì những mối quan hệ tốt với bạn bè". Nhưng hắn đến mà "chẳng nói chẳng rằng", cứ “ngồi im như phổng", mắt thì nhìn quanh "như tìm kiếm vật gì", độ một giờ sau thì cáo từ.
Tính hắn hâm hay hắn là một mật vụ lân la dò xét? Vì thế, giáo viên nào trong trường cũng sợ hắn. Cả hiệu trưởng, oai quyền thế cũng sợ hắn. Cả thành phố đều sợ hắn. Các bà, các cô không dám diễn kịch vào tối thứ bẩy vì sợ rằng "nhỡ hắn biết thì lại phiền". Giới tu hành không dám ăn thịt và đánh bài khi có mặt hắn. Bê-li-cốp như một bóng ma, một hung thần gieo rắc sợ hãi, làm cho dân chúng trong thành phố suốt một thời gian dài mười lăm năm trời “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, sợ giúp đỡ người nghèo, sợ dạy học chữ...".
Sê-khốp đã chỉ ra và cho thấy loại người trong bao, lối sống trong bao thật vô cùng đáng sợ. Loại người ấy, lối sống ấy đã toả chiết tâm hồn người, bao phủ lên khắp mọi nơi một bóng đen đáng sợ. Vì quanh năm suốt tháng tự nhốt mình trong bao nên Bê-li-cốp sống như một người bệnh tưởng, trầm cảm. Hắn sợ ánh sáng, sợ bóng tối, sợ trộm vào nhà, sợ lão nấu bếp cắt cổ hắn. Nhà lúc nào cũng đóng chặt cửa, cài then, chăn trùm đầu kín mít lúc ngủ, ở nhà mùa hè cũng như mùa đông, lúc nào hắn cũng mặc áo khoác ngoài. Suốt đêm, "hắn toàn mơ những điều khủng khiếp" vì thế buổi sáng đến trường, mặt hắn "tái nhợt, rầu rĩ" một cách thảm hại! Lối sống đó là sống khổ, sống mà như chết. Bê-li-cốp đã tự cầm tù mình, đày đoạ mình, gây đau khổ cho thân mình. Hắn thật đáng thương hại.
Hóm hỉnh và ý vị biết bao khi Sê-khốp nói về bi kịch ái tình của người trong bao. Cô giáo Va-ren-ca khoảng ba mươi tuổi mới về trường, thế là nữ thần ái tình đến gõ trái tim Bê-li-cốp. Trên bàn trong ngôi nhà "chật như cái hộp", hắn trân trọng đặt tấm ảnh người đẹp. Ý định lấy vợ choán ngợp tâm hồn hắn, nhưng vì quen sống trong bao nên hắn cứ lần lữa đắn đo, suy tính, lúc nào mặt mày cũng nhợt nhạt đáng thương. Hắn bị gán ghép, rồi hắn có vẻ thích Va-ren- ca... Thế là bức tranh biếm hoạ "An-thro-pos si tình" (kẻ si tình) được gửi đến tất cả các giáo viên ở hai trường nam nữ, giáo viên chủng viện, các viên chức và cả Bê-li-cốp nữa. Bức biếm hoạ mới gợi tình làm sao: hình ảnh "Bê-li-cốp đang đi, chân xỏ trong giày mưa, quần túm ống, tay cầm ô, tay khoác tay Va-ren-ca". Chà! Người trong bao lãng mạn và đa tình quá! Nhưng Bê-li-cốp lại bị sốc, bị bức tranh châm biếm gây cho hắn "một ấn tượng nặng nề".
Sê-khốp đã tạo nên những chi tiết điển hình, những tình huống điển hình để khắc hoạ tính cách của Bê-li-cốp người trong bao . Dư vị chua cay, hài hước của câu chuyện càng trở nên hấp dẫn, lôi cuốn. Bê-li-cốp chẳng gặp "hên" một chút nào! Ngày chủ nhật, mồng một tháng năm hôm ấy, thầy trò cả trường trung học tổ chức cùng đi ra ngoài thành phố vào rừng chơi. Nhưng anh chàng Bê-li-cốp đã bỏ về giữa chừng. Giữa đường hắn bất ngờ thấy hai chị em Va-ren-ca cưỡi xe đạp phóng qua. Cô chị "mặt mày ửng đỏ... vui vẻ, hớn hở" gào to: "Trời hôm nay đẹp thật, đẹp tuyệt, đẹp ghê gớm!". Bê-li-cốp "ngẩn người ra", như bị choáng, bị ma ám: "Mặt mày đang từ xanh mét chuyển sang trắng bệch". Người trong bao phàn nàn, trách cứ: "Chẳng lẽ giáo viên và đàn bà, con gái lại có thể cưỡi xe đẹp, làm như thế coi sao tiện?".
Phải chăng hắn là một kẻ cổ hủ đáng cười? Phải chăng hắn là một nhà mô phạm đang bảo vệ nên đạo đức chính thống? Suối ngày hôm sau, người trong bao đau khổ dằn vặt, bực dọc, toàn thân run lên", thậm chí hắn bỏ cả buổi lên lớp, bỏ cả cơm trưa. Tối hôm đó, dù đang tiết mùa hạ, nhà đạo đức bèn "mặc áo ấm" lần mò đến nhà hai chị em Va-ren- ca. Cô chị đi vắng, hắn chỉ gặp được người em. Hắn thật thà thanh minh về bức tranh châm biếm. Hắn khẳng định nhân cách "tử tế, đứng đắn" của mình. Lấy tư cách là "bạn đồng nghiệp đi trước", hắn nhắc nhở kẻ "mới bắt đầu đi làm" đôi điều.
Hắn chê trách việc đi xe đạp của hai chị em Va-ren-ca "hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên". Hắn cảnh cáo việc đi xe đạp ấy là thiếu gương mẫu, là trái pháp luật, trái nội quy vì "chưa có chỉ thị nào cho phép thì không được làm". Hắn bày tỏ thái độ nào là "phát kinh lên", nào là mắt hoa lên" khi nhìn thấy cảnh đàn bà, con gái đi xe đạp! Hắn khuyên nhủ Cô- va-len-cô phải xử sự "thận trọng", không được buông thả quá chừng như mặc áo thêu ra đường, trong tay còn cầm sách này nọ, lại còn cưỡi xe đạp nữa. Hắn nhắc nhở nếu chuyện ấy đến tai ông hiệu trưởng, ông thanh tra thì "còn ra cái thể thống gì”.
Khi bị Cô-va-len-cô cự lại, hắn răn dạy: "Anh cần phải có thái độ kính trọng đối với chính quyền". Hắn dọa "sẽ báo cáo với ngài hiệu trưởng nội dung câu chuyện" đã xảy ra mà hắn đã nói với Cô-va-len-cô. Cuộc đôi co diễn ra. Cô-va-len-cô “thô bạo" chỉ vào mặt Bê-li-cốp và bảo hắn là "tên mách lẻo”, rồi túm lấy cổ áo hắn, tống cổ ra khỏi nhà. Người trong bao "lộn nhào xuống chân cầu thang”. Sự việc diễn ra đầy kịch tính. Khi Bê-li- cốp "sờ lên mũi xem cặp kính có còn nguyên vẹn không", thì hai người đàn bà và Va-ren-ca bỗng từ đâu xuất hiện, nhìn thấy. Bê-li-cốp đau khổ cảm thấy thà "tự vặt cổ” còn hơn là biến thành trò cười cho thiên hạ. Hắn vô cùng lo sợ câu chuyện sẽ đến tai ngài hiệu trưởng, ngài thanh tra. Người ta sẽ vẽ tranh châm biếm hắn, sẽ ép hắn về hưu...
Có bao chi tiết bi hài. Nhất là khi Va-ren-ca "cười phá lên vang khắp khu nhà". Tiếng cười "ha-ha-ha!" lảnh lót, âm vang ấy "đã chấm dứt tất cả”: "chấm dứt chuyện cưới xin, chấm dứt cả cuộc đời của Bê-li-cốp". Cái ngã của Bê-li-cốp xuống chân cầu thang, điệu cười "lảnh lót" của Va-ren-ca có giá trị và ý nghĩa phê phán một cách chua cay lối sống giáo điều, dung tục của hạng người trong bao. Kẻ hủ lậu lên mặt đạo đức giả, dạy đời bằng bài học luân lí cổ lỗ đã bị Sê- khốp châm biếm qua một tình huống bi hài.
Chỉ một tháng sau bị xô ngã, Bê-li-cốp chết. Trước khi đi chầu Diêm Vương, hắn không quên cất tấm ảnh Va-ren-ca để trên bàn đi. Hắn nằm trong quan tài với vẻ mặt "hiền lành, dễ chịu, tươi tỉnh". Phải chăng hắn "mừng" vì được "chui vào cái bao" vĩnh viễn. Đám ma hắn được cử hành trong một buổi , trời mưu dầm âm u". Lúc hạ huyệt, Va-ren-ca "bỗng òa lên khóc". Nàng khóc vì thương tiếc một thiên tình sử chăng? Nàng khóc vì thương hại một con người bảo thủ, cổ hủ từng làm trò cười cho thiên hạ chăng?
Sau khi Bê-li-cốp chết, lúc đầu ai cũng cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái. Nhưng rồi chưa đầy một tuần sau, ai cũng cảm thấy "nặng nề, mệt nhọc, vô vị" vì cuộc sống đã lại diễn ra như cũ, "chẳng tốt đẹp gì hơn trước". Một Bê-li-cốp chết, một người trong bao đã về chầu âm phủ nhưng còn lại bao nhiêu người trong bao, và "trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu người như thế nữa!". Sê- khốp đã chỉ rõ: lối sống tầm thường, hủ lậu, giáo điều, dung tục đã đầu độc con người, đầu độc cuộc sống, sẽ gây bao hậu quả nặng nề, sẽ tồn tại dai dẳng trong xã hội Nga những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Mọi quái thai, mọi ung nhọt trong xã hội xưa nay đâu dễ một sớm một chiều mà tiệt nọc, mà bị quét sạch! Một Bê-li-cốp chết đi nhưng sẽ còn lại bao nhiều Bê-li-cốp nữa. Chí Phèo đã ngoẻo nhưng Thị Nở vẫn còn, và cái lò gạch cũ vẫn còn đó. Cái loại người "mũ nỉ che tai", “vòi rụt cổ", "hủ lậu mà tinh tưởng" thời nào, xã hội nào chẳng có! Phải biết coi khinh lối sống cổ hủ, coi khinh tính cách bọn người trong bao. Phải biết sống và dám sống với tinh thần tự chủ, sống có trí tuệ và đạo đức của con người mới. Đọc truyện "Người trong bao", ta tự hỏi bản thân mình phải sống như thế nào cho đáng sống: Sê-khốp đã có một lối viết khá hấp dẫn. Diễn biến câu chuyện được kể một cách tự nhiên, chân thực và sinh động. Nhân vật Bê-li-cốp từ vật dụng, cử chỉ, hành động, ý nghĩ đến lối sống được thể hiện bằng nhiều chi tiết rất điển hình. Hắn là sản phẩm tất yếu của một xã hội tù túng, trì trệ.
Nhân vật Va-ren-ca là một nét vẽ tương phản đầy ấn tượng. Nàng yêu đời, sống hồn nhiên, hay hát, hay cười, động một tí là cười phá lên. Cuộc sống tự do, phóng túng của hai chị em Va-ren-ca đã làm xao động cái không khí buồn thảm nơi tỉnh lẻ và đã làm "rách nát" cái bao của Bê-li-cốp, đẩy hắn ta xuống nằm yên trong quan tài - cái bao nơi âm phủ. Bức tranh biếm hoạ, cái ngã cầu thang, cái chết lặng lẽ và đám ma của Bê-li-cốp có giá trị và ý nghĩa phê phán, châm biếm sâu cay.
"Người trong bao" là một truyện ngắn đầy dư vị đưa độc giả "tự đi tìm bóng mình và soi vào bóng người" để mà sống có ý nghĩa hơn như văn hào Lỗ Tấn đã nói.
Phân tích tác phẩm Người trong bao – Bài văn mẫu số 3
A.P.Sê-khốp (1860 – 1904) xuất thân từ một gia đình buôn bán nhỏ bên bờ biển A-dốp, miền Nam nước Nga. Ông tốt nghiệp Đại học Y khoa, vừa làm bác sĩ nông thôn vừa viết văn, viết báo và tham gia các hoạt động giáo dục, văn hóa, xã hội. Sê-khốp đã có những đổi mới táo bạo về nghệ thuật viết truyện ngắn và kịch, ông đã để lại cho đời hơn 500 tác phẩm mà nội dung thường xoay quanh những vấn đề có ý nghĩa xã hội và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Sê-khốp được trao Giải thưởng Pu-skin năm 1887 và được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Nga năm 1890. Ông được tôn vinh là nhà văn lớn của nền văn học Nga thế kỉ XIX.
Truyện ngắn Người trong bao sáng tác năm 1898, trong thời gian Sê-khốp an dưỡng ở thành phố l-an-ta. Xã hội Nga đương thời đang ở tình trạng bế tắc và ngạt thở bởi bầu không khí chuyên chế nặng nề. Môi trường ấy đã đẻ ra những kiểu người kì quái mà Bê-li-cốp là một nhân vật điển hình đặc sắc của nhà văn sê-khốp trong tác phẩm Người trong bao. Qua truyện ngắn này, Sê-khốp phô phán mạnh mẽ kiểu “người trong bao”, “lối sống trong bao” cùng tác hại của nó đối với hiện tại và tương lai nước Nga; đồng thời cảnh báo và kêu gọi mọi người cần phải thay đổi cách sống, không thể sống tầm thường, hèn nhát, ích kỉ, vô vị và hủ lậu mãi như thế.
Truyện kể về Bê-li-cốp, một giáo viên trung học dạy tiếng Hi Lạp có có cuộc sống và tính cách dị thường. Anh ta luôn sợ hãi cho nên không bao giờ dám bộc lộ ý nghĩ của mình trước người khác. Để tạo cảm giác an toàn, Bê- li-cốp đi giày cao su, che ô, mặc áo bành tô cốt bông, đeo kính đen, kéo cổ áo lên cao giấu kín mặt. Trong cái vỏ bọc linh kỉnh đó, anh ta thấy yên tâm.
Bê-li-cốp say mê và tôn sùng quá khứ đến mức cực đoan. Theo anh ta thì tiếng Hi Lạp cổ là một ngôn ngữ tuyệt vời hơn hết thảy, nhờ nó mà anh ta có thể trốn tránh hiện thực. Thói quen của Bê-li-cốp là đến nhà những giáo viên cùng trường, tự kéo ghế và ngồi im lặng khoảng một tiếng rồi về. Đó là cách anh ta duy trì quan hệ đồng nghiệp. Khi đi ngủ, anh ta thường đóng cửa kín mít rồi kéo chăn trùm đầu mặc dù trời rất nóng, vì sợ nhỡ có việc gì xảy ra thì sao ?
Phân tích truyện ngắn Người trong bao của A.P.Sê-khốp văn 11Bê-li-cốp định ngỏ lời cầu hôn với Va-ren-ca, chị gái của một giáo viên trẻ mới về trường. Có kẻ nào đó đã vẽ bức tranh châm biếm dề dòng chữ Một kẻ si tình rồi gửi cho Bê-li-cốp. Hôm sau, anh ta ngạc nhiên khi nhìn thấy hai chị em Va-ren-ca và Cô-va-len-cô phóng xe đạp rất nhanh ngoài đường nên quyết định sẽ góp ý với họ. Cô-va-len-cô nổi nóng cự lại và đẩy Bê-li-cốp ngã lộn nhào xuống cầu thang, đúng lúc Va-ren-ca đi đâu về. Va-ren-ca nhìn thấy cảnh đó và cất tiếng cười nhạo báng.
Trở về nhà, Bê-li-cốp vừa buồn bực vừa nhục nhã. Anh ta trùm chăn kín mít và nằm im lặng trên giường, ai hỏi gì thì chi đáp không hay có. Một tháng sau thì anh ta chết. Cái bao thường dược dùng để gói, đựng đồ vật, hàng hóa, có hình túi hoặc hình hộp. Sê-khốp đã biến nó thành một biểu tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa ngụ ngôn trong tác phẩm của mình. Cái bao được tác giả nhắc đến nhiều lần và gắn chặt với nhân vật Bê-li-cốp. Nhà văn đã dùng hình ảnh cái bao để nói về lối sống, tính cách của Bê-li-cốp và hơn thế, ông đề cập đến kiểu “người trong bao”, “lối sống trong bao”, một kiểu người và lối sống phổ biến trong tầng lớp trí thức Nga cuối thế kỉ XIX. Đây là vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc của tác phẩm.
Có thể khái quát con người và tính cách cửa Bê-li-cốp bằng những hình ảnh, từ ngữ như hèn nhát, cô độc, máy móc, giáo điều, thu mình trong “bao”, trong vỏ ốc và cảm thấy yên tâm, mãn nguyện về lối sống đó. Chân dung Bê-li-cốp được tác giả miêu tả và thể hiện bằng những nét vẽ thần tình. Chân dung kì quái ấy dần dần được bổ sung, tô đậm thêm, về hình thức, Bê-li-cốp “nổi tiếng” vì cách phục sức khác người: cặp kính đen to tướng che gần hết khuôn mặt nhợt nhạt, choắt như mặt chồn, chiếc áo bành tô cốt bông bẻ cổ đứng lên, lỗ tai nhét bông, chân đi giày cao su… Tất cả các vật dụng lúc không dùng đến anh ta đều để trong bao.
Bê-li-cốp luôn tự tin và tự hào về cách sống “đúng mực” của mình. Anh ta kinh ngạc và không thể chấp nhận lối sống tự nhiên của chị em Va-ren-ca; thực sự hoảng hốt khi có người dám vẽ bức tranh châm biếm chế giễu tình yêu của mình. Bê-li-cốp càng không hiểu nổi vì sao anh chàng giáo viên Cô- va-len-cô lại có thể đối xử thô bạo, bất nhã với mình đến như vậy ?!
Quả thật, Bê-li-cốp không hiểu gì về đồng nghiệp, về xã hội và cuộc sống xung quanh. Anh ta luôn đắm chìm trong quá khứ, trong những giáo điều cũ kĩ, lạc hậu, giống như cặp kính đen luôn che kín đôi mắt nhỏ. Bê-li-cốp quả thật là một con người lạc lõng, cô độc và kì quái, chẳng thể nào hòa hợp với mọi người.
Bê-li-cốp luôn trốn tránh cuộc sống hiện tại nhưng lại tôn thờ và ngợi ca quá khứ. Anh ta say mê tiếng Hi Lạp cổ mà rất ít người biết và cho đó là thứ tiếng tuyệt vời. Anh ta sống một cách rập khuôn, cứng nhắc theo những thông tư, chỉ thị của cấp trên, của chính quyền như một người máy vô hồn và cho rằng chỉ những bài báo cấm đoán điều này điều nọ mới là những cái rõ ràng. Bê-li-cốp sống trong tình trạng cô độc và luôn luôn lo lắng, sợ hãi, sợ tất cả. Lời nói cửa miệng: …sợ nhỡ lại xảy ra chuyện gì thì sao ? góp phần khắc họa tính cách nhút nhát đến mức lập dị của Bê-li-cốp.
Tính nết kì quặc của Bê-li-cốp còn được tô đậm qua thói quen đến nhà đồng nghiệp ngồi im như phỗng độ một giờ rồi cáo từ. Anh ta cho rằng đó là cách để duy trì mối quan hệ tốt với đồng nghiệp. Buồng ngủ của Bê-li-cốp cũng là một cái bao lớn mang hình dáng của một cái hộp. Đêm đêm, anh ta đóng chặt tất cả cửa lớn cửa nhỏ rồi trùm chăn kín đầu mà ngủ, mặc dù trời nóng bức, ngột ngạt.
Bê-li-cốp tự coi lối sống của mình là “chuẩn mực” nên thỏa mãn, hài lòng với những gì cổ lỗ, lạc hậu. Anh ta tuân thủ “lối sống trong bao” và khẳng định như thế mới là công dân tốt, là viên chức mẫn cán.Trên cơ sở triết lí sống “chui trong vỏ ốc” đó, Bê-li-cốp không thể nào chịu đựng và hiểu nổi cách sống cùng thái độ của mọi người xung quanh, cho nên anh ta hay phán xét và khuyên giải theo ý mình.
Lối sống “trong bao” của Bê-li-cốp đã ảnh hưởng không nhỏ đến cái xã hội nhỏ bé nơi anh ta dạy học. Ai cũng chán ghét và sợ hãi khi gặp anh ta, không muốn dây vào làrn gì. Cũng có người muốn thử thay đổi cách sống của Bê-li-cốp, song chẳng ăn thua. Lối sống “trong bao” ấy ám ảnh và tác động tiêu cực tới mọi người bởi suốt mười lăm năm trời, họ phải hít thở bầu không khí ô nhiễm do Bê-li-cốp tạo ra. Anh ta đã trùm một cái bóng nặng nề u ám lên bầu không gian của họ, khiến họ có cảm giác nghẹt thở. Mọi người sợ hãi, căm ghét và bị ám ảnh sâu sắc khi Bê-li-cốp còn sống. Bởi vậy khi Bê- li-cốp chết, mọi người nhẹ nhõm như trút đi được gánh nặng, cuộc sống thoải mái, dễ chịu hẳn ra.
Với Bê-li-cốp, cái chết này là một lôgic tất yếu trong sự phát triển của tính cách nhân vật. Lối sống “trong bao” bản thân nó đã là một cái chết, chết trong khi đang sống. Hơn thế, ngay trong lúc sống, khát vọng mãnh liệt nhất của Bê-li-cốp là được chui vào bao. Kể cả ý nghĩ, vốn là sở hữu của riêng mình anh ta cũng giấu kín, cho vào bao tuốt! Niềm hạnh phúc lớn lao của Bê- li-cốp là từ nay (sau khi chết), anh ta sẽ được nằm trong cái bao vĩnh viễn, không còn phải lo lắng nhỡ lại xảy ra việc gì thì sao?
Hình ảnh cái chết của Bê-li-Cốp là một trong những chi tiết quan trọng của tác phẩm. Bằng cái chết khá lạ lùng này, nhà văn đã tô đậm và đẩy tính cách của nhân vật lên tới điểm đỉnh. Cái chết của nhân vật Bê-li-cốp chỉ ra cho mọi người thấy thực chất lối sống “trong bao” và tính cách ấy đâu phải chi có ở một mình anh ta. Anh ta chết nhưng rồi mọi thứ lại đâu vào đấy, vẫn y nguyên. Cuộc sống vẫn nặng nề, mệt nhọc, vô vị, tù túng y như khi Bê-li-cốp còn sống và kiểu người như anh ta vẫn nhan nhản trên đời. Qua chi tiết ấy, nhà văn Sê-khốp nhấn mạnh rằng Bê-li-cốp chính là điển hình cho một kiểu người, một hiện tượng xã hội đáng báo động trong tầng lớp trí thức Nga cuối thế kỉ XIX. Nó chỉ chấm dứt khi có một cuộc cách mạng xã hội thay đổi tận gốc rễ quan niệm sống, nếu không thì cũng giống như cái xác Bê-li-cốp nằm trong quan tài kia thôi. Mặc dù Bê-li-cốp chết nhưng lối sống “trong bao” của anh ta vẫn tồn tại.
Tài năng của Sê-khốp thể hiện rất rõ qua nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, qua cách chọn ngôi kể, cách xây dựng nhân vật điển hình. Vì thế nến truyện ngắn Người trong bao đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. Nhân vật điển hình Bê-li-cốp tuy có nét riêng kì quái không giống bất cứ ai nhưng lại tiêu biểu cho một kiểu người, một lối sống khá phổ biến trong xã hội Nga đương thời. Bê-li-cốp đã vĩnh viễn nằm trong bao cách đây hơn thế kỉ, nhưng kiểu “người trong bao” và lối sống “trong bao” cùng những biến thể của nó vẫn tồn tại đây đó trong xã hội hiện đại.
Chẳng hạn vẫn có không ít người chẳng bao giờ dám sống thật, nói thật những điều mình nghĩ, hoặc chỉ lo vun vén cho cuộc sống cá nhân, trang bị đầy đủ cho cái bao của mình mà không cần biết đến những người xung quanh. Vì thế mà ý nghĩa thời sự của truyện ngắn Người trong bao cho đến nay vẫn còn nguyên vẹn.
Phân tích tác phẩm Người trong bao – Bài văn mẫu số 4
An – tôn Páp – lô – vích Sê – khốp là nhà văn Nga kiệt xuất, ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình buôn bán nhỏ ở thị trấn Ta – gan – róc bên bờ biển A – dốp. Ông đã để lại hơn 500 truyện ngắn và truyện vừa, trong đó có nhiều tác phẩm đặc sắc. Những tác phẩm của ông rất giản dị nhưng lại đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội. Người trong bao là truyện ngắn nổi tiếng của ông, câu chuyện kể về một con người mắc chứng bệnh sợ hãi, sống, chết đều thảm hại.
Truyện kể về nhân vật Bê – li – cốp, một giáo viên dạy tiếng Hi Lạp có cuộc sống dị thường và tôn sùng quá khứ. Anh ta mắc chứng sợ hãi nên không bao giờ dám bộc lộ ý nghĩa cá nhân của mình trước người khác. Anh ta thường đi giày cao su, che ô, mặc quần áo kín mít, đeo kính đen, đêm ngủ thì trùm chăn kín mít cả mặt để tạo cảm giác an toàn. Trong một lần, Bê – li – cốp định ngỏ lời cầu hôn với Va – ren – ca, chị gái của đồn nghiệp thì đã có kẻ nào đó vẽ bức tranh châm biếm về anh. Hôm sa thì anh ta lại nhìn thấy Va – ren – ca cùng Cô – va – len phóng xe rất nhanh ở ngoài đường, anh đến để góp ý nhưng đã khiến cho Cô – va – len nổi nóng rồi đẩy anh xuống cầu thang khiến anh ngã lộn nhào. Vừa lúc đó thì Va – ren – ca về, cô nghĩ anh tự ngã nên đã đứng cười một cách nhạo bang. Từ đó khi ai hỏi anh ta gì thì anh ta chỉ trả lời có hoặc không, một tháng sau thì anh ta chết.
Trong nhà đề, tác giả đã đặt cho đứa con tinh thần của mình là “Người trong bao” chỉ với 3 từ ngắn ngủi nhưng nó đã hiện lên một phong thái của một con người ẩn dật, lo sợ, lúc nào cũng cần một cái gì đó che chắn, bảo vệ mình khỏi bị ảnh hưởng bởi những thứ đến từ bên ngoài. Cái bao đó là tác giả muốn đặt tới với nhân vật Bê – li – cốp để nói lên tính cách, lối sống phổ biến trong tầng lớp trí thức Nga cuối thế kỉ XIX.
Câu chuyện xoay quanh một con người với cuộc sống khép kín và tư tưởng cổ hủ đến lạc hậu vì nỗi sợ hãi và chẳng chịu chia sẻ với ai. Đó không phải là một cuộc sống tốt đẹp, nó khiến cho con người dễ rơi vào trạng thái trầm cảm và sợ hãi với mọi thứ. Có thể khái quát con người và tính cách cửa Bê-li-cốp bằng những hình ảnh, từ ngữ như hèn nhát, cô độc, máy móc, giáo điều, thu mình trong “bao”, trong vỏ ốc và cảm thấy yên tâm, mãn nguyện về lối sống đó.
Ngoại hình của nhân vật Bê – li – cốp được tác giả khắc họa “hắn đều đi giày cao su, cầm cái ô và nhất thiết là mặc áo bành tổ ấm cốt bông”, “ô hắn để tỏng bao, chiếc đồng hồ quả quýt cũng để trong bao; và khi rút chiếc dao nhỏ để ngọt bút chì thì chiếc dao ấy cũng được đặt trong bao. Cả bộ mặt hắn ta nữa, dường như cũng để tỏng bao vì lúc nào hắn cũng giấu mặt sau chiếc cổ áo bành tô bè dựng đứng lên”. “Hắn đeo kính râm, mặc áo bông chần, lỗ tai nhét bông và khi ngồi trong xe ngựa thì bao giờ cũng cho kéo mui lên”. Mới qua vài dòng viết về nhân vật, ta đã cảm thấy một con người dị thường luôn sợ hãi với mọi thứ xung quanh mình.
Hắn có một thói quen mà tác giả viết “hắn đến nhà giáo viên nào đó chẳng hạn, kéo ghế ngồi, chẳng nói chẳng rằng…” chính là cách mà hắn giữ mối quan hệ với giáo viên trong trường. Tính cách của hắn thì là con người thích áp đặt, biểu hiện rõ nhất tron cuộc đối thoại với Cô – va – len khi nhìn thấy chị em cô phóng xe nhanh đi trên phố. Hắn nói: “Tôi thì vào nghề đã lâu, còn anh thì mới bắt đầu đi làm, nên với tư cách là bạn đồng nghiệp đi trước, tôi thấy có nghĩa vụ phải nhắc nhở với anh đôi điều. Anh đã đi xe đạp và cái trò giải trí ấy hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên”. Một con người có suy nghĩ áp đặt tư tưởng và buộc người khác phải tuân theo đến cổ hủ, đến không biết đúng sai, đến mức khiến cho người khác khó chịu đến khôn cùng. Và hắn đã bị Cô – va – len đẩy xuống cầu thang vì quá bức bối và khó chịu với hắn.
Một con người lúc nào cũng sống theo kiểu bao che kín mít, không chịu hòa nhập với mọi người, với thiên nhiên, luôn luôn sợ hãi một điều gì đó sẽ ảnh hưởng với chính mình. Lúc nào cũng thu hẹp bộ não của mình tỏng những suy nghĩ tiêu cực và hèn nhát, quả là một con người trí thức nhưng tầm nhận thức quá hạn hẹp. Bê – li – cốp đã biến cuộc sống của mình làm nỗi sợ hãi cho tất cả mọi người. “thế mà cái thằng cha quanh năm đi giày cao su và mang ô ấy đã khống chế cả trường học chúng tôi suốt mười lăm năm trời”. Cả thành phố cũng sợ hắn, cả các bà, các mẹ cũng sợ hắn, ngay cả giới tu hành khi gặp hắn cũng không dám ăn thịt hay đánh bài. Một lối sống xấu làm ảnh hưởng tới cuộc sống của rất nhiều người trong xã hội. Ngay cả những bản tính vốn có của người khác cũng bị hắn làm cho mất dần mất “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, giúp đỡ người nghèo, dạy học chữ…”
Bê-li-cốp là một nhân vật điển hình sắc nét mà Sê-khốp đã xây dựng thành công trong truyện ngắn này – kiểu “người trong bao”, một sản phẩm của xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thu nặng nề cuối thế kỉ XIX. Hắn chết, có lẽ cái chết do Cô – va – len xô hắn quá mạnh vì từ ngày hắn bị ngã đó, hắn cứ nằm im trên giường và không bao giờ dậy nữa. Nhưng sâu xa hơn đó chính là cái lối sống tron bao của hắn, hắn ngã, hắn bị Va – ren – ca cười đó chính là nỗi nhục lớn, chấm dứt chuyện cưới xin, chấm dứt luôn cả cuộc đời của hắn. Một câu gần cuối bài đã đưa con người ta vào những suy nghĩ triết lý sâu xa “Bấy giờ, khi nằm trong quan tài, vẻ mặt hắn trông hiền lành, dễ chịu, thậm chí còn có vẻ tươi tỉnh nữa, cứ hệt như hắn mừng rằng cuối cùng hắn đã được chui vào trong bao mà từ đó không bao giờ phải thoát ra nữa. Phải rồi, thế là hắn đã đạt được mục đích cuộc đời”.
Hình ảnh cái bao ở đây chính là cái vỏ bọc do con người tạ ra muốn xa lánh với thế giới bên ngoài, sống một cuộc sống bạc nhược, ích kỉ. Tư tưởng chủ đề của tác phẩm là phê phán lối sống hèn nhát, bảo thủ, ích kỉ của một bộ phận trí thức Nga cuối thế kỉ XIX.
Câu chuyện mang một ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nguyễn Tuân từng ca ngợi: “Truyện Bê – li – cốp là một áng văn đả kích lên đến tuyệt đỉnh: hình thù, tên họ nhân vật đã thành một cái sự, đã thành một hình dung từ ngày nay vẫn còn tác dụng lớn”
Phân tích tác phẩm Người trong bao – Bài văn mẫu số 5
Văn học làm đẹp trái tim, tâm hồn con người, nó rung lên trong mỗi chúng ta những cảm xúc tế nhị hay mãnh liệt để con người vươn tới tự do, dân chủ, vươn tới thế giới của tình thương, của sự hoàn thiện, hoàn mỹ. Nhà văn thể hiện tất cả điều đó thông qua hình tượng, “làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự việc, những hiện tượng đáng làm ta suy nghĩ về tính cách số phận, về tình đời, tình người”. Tác phẩm có giá trị là tác phẩm luôn chứa đựng khoảng trắng nhằm kích thích sự tìm tòi khám phá của người đọc, chính hình tượng nghệ thuật là nơi ẩn chứa, tiềm tàng những khoảng trắng đó.
Ra đời cuối thế kỷ XIX (1898), “Người trong bao” của An-tôn Sê-khốp với hình tượng thầy giáo Bê-li-cốp đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc không chỉ trong lòng độc giả nước Nga mà còn độc giả thế giới. Hơn thế kỷ trôi qua, nhưng tác phẩm vẫn đứng vững trong lòng người đọc, tại Việt Nam nó được chọn để dạy học trong Ngữ văn 11, chương trình nâng cao. Có lẽ chính việc xây dưng thành công hình tượng nhân vật Bê-li-cốp đã khẳng định chỗ đứng của “Người trong bao”, vì qua đó, những mạch ngầm văn bản cứ hiện dần trong lòng người đọc.
Hình tượng Bê-li-cốp hiện lên thông qua 2 lớp ngôi kể, ngôi kể thứ nhất và ngôi kể thứ ba. Ngôi thứ ba được kể bằng hình tượng người kể chuyện là tác giả, ngôi thứ nhất “tôi” người kể chuyện là một nhân vật trong câu chuyện, thầy giáo Bu-rơ-kin kể với bác sĩ I-van I-va-nứt về thầy giáo Bê-li-cốp trong một chuyến đi săn. Như vậy đã có sự lòng ghép ngôi kể trong ngôi kể, ngôi thứ nhất được lòng trong ngôi kể thứ ba, câu chuyện của thầy giáo Bu-rơ-kin kể với bác sĩ I-van I-va-nứt về thầy giáo Bê-li-cốp được lồng trong câu chuyện mà tác giả kể với đọc giả về câu chuyện đó. Đưa cách kể mang tính chủ quan lòng vào ngôi kể mang tính khách quan là một sự lựa chon khéo léo. Tác giả đang khách quan để kể về câu chuyện người khác kể lại, tác giả chỉ như một người ghi chép lại những gì mà thầy giáo Bu-rơ-kin kể, vì vậy, câu chuyện vừa tạo được tính thuyết phục trong người đọc lại vừa được kể lại như là sự chứng kiến của một người trong cuộc, nhìn nhận được mọi khía cạnh, mọi vấn đề.
Chính việc lựa chon ngôi kê đó đã như một hệ quả tất yếu đến sự di động điểm nhìn của người kể chuyện, di động từ ngôi kể thứ ba sang ngôi kể thứ nhất, từ ngôi kể thứ nhất số ít sang ngôi kể thứ nhất số nhiều. Di động điểm nhìn kể chuyện như vậy làm cho nhân vật được nhìn nhận dưới nhiều gốc độ, hình ảnh nhân vật được hiện lên một cách tự nhiên, sâu sắc, chân thật hơn. Điểm nhìn quy chiếu từ góc nhìn là người bạn đồng nghiệp, họ dạy cùng trường, ở cùng căn hộ, hai phòng ở đối diện nhau, nên họ biết rõ về nhau một cách rõ ràng, vì thế người đọc, người nghe yên tâm về những lời kể nhân vật tôi. Người kể chuyện có thể đưa ra những bình luận, nhận xét theo quan điểm riêng của mình. Về cuối truyện sau khi chôn cất Bê-li-cốp xong người kể chuyền quy chiếu điểm nhìn sang ngôi nhứ nhất số nhiều “chúng tôi”, lúc này không phải câu chuyện được kể dưới điểm nhìn của một cá nhân mà cả tập thể, cộng đồng điều đó vừa thể hiện sự khách quan vừa thể hiện sự ảnh hưởng, tác động của Bê-li-côp, kiểu người sống trong bao với xã hội, đồng thời thấy được dù Bê-li-cốp đã chết những kiểu người trong bao vẫn còn tồn tại.
Kéo theo nhưng vấn đề đấy là giọng điệu, ở đây giọng điệu kể chậm rãi vừa giễu cợt, châm biếm, mỉa mai vừa u buồn… Qua hình tượng nhân vật người trong bao, Bê-li-cốp, tác giả phê phán sâu sắc lối sống hèn nhát, bạc nhược, bảo thủ và ích kỷ của một bộ phận trí thức Nga cuối thế kỷ XIX. Từ đó, nhà văn khẩn thiết thức tỉnh mọi người hảy thay đổi cách sống, lối sống kiểu “trong bao” nếu muốn có cuộc sống ý nghĩa.
Ngay nhan đề tác phẩm cũng là một tính hiệu thẩm mỹ. Xét về nghĩa đen bao là vật dùng để đựng đồ, bọc đồ, có tác dụng che đậy, bảo vệ, gói ghém… Nghĩa bóng là lối sống và tính cách của Bê-li-cốp luôn thu minh trong bao, một môi trường xã hội thối nát, cũ kỷ đã bao bọc làm thay đổi bản chất con người. Như vậy có một vấn đề đạt ra là nhân vật Bê-li-cốp, người trong bao, chủ thể bị “bỏ” vào “bao” hay tự mình “chui” vào “bao”, nghĩa là tự anh ta tạo cho mình một cuộc sống lập dị kiểu trong bao hay do hoàn cảnh, đẩy anh ta “vào trong bao”?
Bê-li-cốp hiện lên với chân dung biếm hoạ, có cái vẻ bề ngoài không giống ai: gương mặt nhợt nhạt, nhỏ bé, choắt như mặt chồn; quanh năm anh ta đi giày cao su, mặc áo bành tô, đeo kính râm, đội mũ, hai lỗ tai nhét bông, tay cầm dù,… Các vật dụng của anh ta đều được để trong bao. Không những ngoại hình anh ta luôn được giấu trong bao mà mọi cái liên quan đến anh ta đều gói trong bao. Trong tác phẩm anh ta đã nói 5 lần câu “Nhỡ lại xãy ra chuyện gì thì sao”; khi nằm ngủ anh ta kéo chăn trùm kín mít; đến thăm đồng nghiệp thì chỉ ngồi im; cả ý nghĩ của mình Bê-li-cốp cũng giấu trong bao vì vậy cuộc sống của anh ta là một cuộc sống lập dị, nhút nhát, sợ đối hiện với hiện tại, chỉ thích sống theo những thông tư, chỉ thị, giáo điểu, rập khuôn, chỉ tôn sùng quá khứ, luôn thỏa mãn, hạnh phúc, hài lòng, mãn nguyện với cuộc sống của mình… Chi tiết cái bao được tác giả nhắc đi nhắc lại 12 lần như những điệp khúc nhấn mạnh chân dung Bê-li-cốp luôn cố thu mình trong bao từ ngoại hình, tính cách, lời nói, hành động, suy nghĩ…
Như vậy, nhân vật Bê-li-cốp là một hình tượng điển hình. Bê- ê- lin- xki cho rằng “Tính điển hình là một trong những dấu hiệu của tính mới mẻ trong sáng tạo, hay nói đúng hơn là bản thân sức sáng tạo. Nếu có thể thì cũng nói rằng tính điển hình là huy chương của nhà văn. Điển hình là người lạ đã quen biết”. Bê -li-cốp là một sáng tạo lớn của An-tôn Sê-khốp, hình tượng nhân vật này vừa hiện lên rõ nét là một nhân vật độc đáo, riêng biệt không lẫn với ai vừa là nhân vật đặc trưng, khái quát cho một kiểu người có lối sống “trong bao”, gấp sách lại người đọc vẫn thấy hiện lên một hình ảnh Bê-li-cốp bằng da, bằng thịt, có những tính cách, suy nghĩ, hành động lời nói kiểu “trong bao” và cũng thấy đâu đây hình ảnh nhân vật này trong cộng đồng người, đâu đó trong xã hội Nga đương thời và cả trong xã hội hiện đại ngày nay.
Bê-li-cốp, vừa là sản phẩm của chính cá nhân anh ta vừa là sản phẩm của xã hội. Ngoài những tính cách cá nhân như đã nói ở trên, Bê-li-cốp còn là con đẻ của xã hội Nga lúc bấy giờ. Chúng ta biết rằng cuối thế kỷ XIX xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thủ nặng nề. Chính môi trường ấy đã đẻ ra lắm thứ sản phẩm người kỳ quái.
Kết cục nhân vật Bê-li-cốp chết, nguyên nhân trực tiếp cũng do những suy nghĩ kiểu “trong bao”. Bê-li-cốp chết là kết thúc cuộc đời một cá nhân, quan tài đựng thi thể y chính là cái “bao” kính đáo nhất. Cái chết của Bê-li-cốp là hậu quả tất yếu của cách sống, kiểu sống đó. Chết là kết thúc cuộc đời, là sự chôn vùi một con người những liệu có chôn vùi được kiểu người “trong bao” không. Khi còn sống Bê-li-cốp đã làm cho mọi người sợ hãi, kể cả đồng nghiệp, thẩm chí là lãnh đạo của anh ta vì thế ai cũng ghét bỏ, nghĩa là anh ta là người mâu thuẩn với tất cả mọi người, là tượng trưng cho xấu xa, nên khi anh ta chết mọi người từ nghĩa địa trở về lòng cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái.
Những xét cho cùng lối sống của anh ta có ảnh hưởng không nhỏ tới cộng đồng, kiểu sống trong bao, kiểu sợ hãi, nhút nhat, rập khuôn đó đã lan ra cả cộng đồng vì vậy mọi người đều sợ anh ta, mỗi lần Bê-li-cốp dọa báo thanh tra, cấp trên…thì mọi người đều run sợ, nhân vật tôi từng tâm sự “Bọn giáo viên chúng tôi đều sợ hắn. Thậm chí cả hiệu trưởng cũng sợ hắn….cái thằng cha quanh năm đi dày cao su và mang ô ấy đã khóng chế cả trường học chúng tôi suốt mười lăm năm trời … Mà đâu phải chỉ có trường học! Cả thành phố nữa ấy!”. Chứng tỏ rằng Bê-li-cốp có ảnh hưởng, lây lan tới cộng đồng, tác động ngược trở lại đối với cộng động. Như vậy lối sống trong bao không chỉ có ở Bê-li-cốp mà có trong mọi người ở thành phố ấy, một con người với cách sống như vậy mà đã từng khống chế được cả một ngôi trường thậm chí cả thành phố trong hơn mười lăm năm thì cộng đồng đó, thanh phố đó hơn gì cách sống của Bê-li-cốp?
Cái bao còn mang hàm nghĩa về một kiếp người, một lối sống, một xã hội đen tối, tù túng, nặng nề mà không sao thoát được. “Người trong bao”, một hình tượng có tính ẩn dụ vô cùng độc đáo để phản ánh bộ phận trí thức bạc nhược, ươn hèn và qua đó lên án, đả kích chính cái đã sản sinh ra bộ phận trí thức bạc nhược, ươn hèn ấy: chế độ xã hội Nga hoàng cuối thế kỉ XIX.
Sau cái chết của thầy giáo Bê-li-cốp, môi trương, lối sống của xã hội đo có gì thay đổi, có gì tiến bộ, nhân vật tôi vẫn tâm sự “Chưa đầy một tuần sau cuộc sống lại diễn ra như cũ, nặng nề, mệt nhọc, vô vị, một cuộc sống chẳng bị chỉ thị nào cấm đoán nhưng cũng chẳng tự do hoàn toàn, chẳng tốt đẹp gì hơn trước. Trên thực tế, Bê-li-cốp đã chầu âm phủ nhưng hiện còn bao nhiêu là người trong bao, trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu người như thế nữa!”, Vậy vấn đề ở đây là gì? Làm thế nào để thay đổi và thay đổi gì mới là bản chất. Rõ ràng vấn đề không phải là chống lại, tiêu diệt những “người trong bao” mà là phải thay đổi, xoá bỏ môi trường đã sản sinh ra những “người trong bao” ấy. Chừng nào cái chế độ tàn bạo, thối nát, bất công ấy còn tồn tại thì những sản phẩm và cũng là nạn nhân của nó vẫn không thể mất đi. Văn học thế giới cũng đã từng có nhiều hình tượng nhân vật sống theo kiểu chạy trốn thực tại, từ chối hiện tại ví như hình tượng nhân vật Oskar trong tác phẩm “Cái trống thiếc” của Gunter Grass. Phải chăng Bê-li-cốp với cách sống tron bao củng là một lựa chon?
M.Gorki đã từng nhận xét, đọc Sê-khốp, chúng ta thấy “phảng phất đâu đây nụ cười buồn buồn của một tâm hồn biết yêu thương”, “Tiếng thở dài khẽ sâu của một trái tim trong sạch”. Còn nhà văn Nguyễn Tuân khi đọc Người trong bao thì cho rằng: “Truyện Bê-li-cốp là một áng văn đả kích đến tuyệt đỉnh: hình thù tên họ nhân vật đã thành một cái sự, đã thành một hình dung từ ngày nay vẫn còn tác dụng lớn”. Phê phán những nhược điểm, tật xấu của Bê-li-cốp, cảm thương cho số phận của những con người sống trong môi trường ngột ngạt, thối nát xã hội Nga đương thời, đồng thời có dịp để soi lại chính mình nhằm vươn tới một cuộc sống lành mạnh, ý nghĩa hơn…