Tác giả, Tác phẩm văn 11 – Lẽ ghét thương

Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu)

I. Đôi nét về tác giả Nguyễn Đình Chiểu

1. Cuộc đời

- Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai

- Quê: làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định

- Ông xuất thân trong gia đình nho học, năm 1843 thi đỗ tú tài ở trường thi Gia Định.

- Trên đường ra Huế học chuẩn bị thi tiếp (năm 1846) ông nhận được tin mẹ mất, phải bỏ thi về quê chịu tang, dọc đường ông bị đau mắt nặng rồi bị mù

- Không chịu khuất phục trước số phận, về quê ông mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, tiếng thơ ông Đồ Chiểu vang khắp lục tỉnh

- Khi Pháp xâm lược ông hăng hái giúp các nghĩa quân bàn mưu tính kế, bị giặc dụ dỗ mua chuộc ông khẳng khái khước từ

Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sáng ngời về nghi lực và đạo đức đặc biệt là thái độ một đời gắn bó chiến đấu không mệt mỏi vì lẽ phải, vì lợi ích của nước của dân

2. Sự nghiệp sáng tác

- Các tác phẩm chính: chủ yếu bằng chữ Nôm

+ truyện thơ dài: truyện Lục Vân Tiên, Dương Tử- Hà Mậu được sáng tác trước khi thực dân Pháp xâm lược

+ một số tác phẩm mang nội dung tư tưởng tình cảm, nghệ thuật: Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngư tiều y thuật vấn đáp,... sáng tác sau khi Pháp xâm lược

- Nội dung thơ văn

+ Mang nặng lí tưởng đạo đức nhân nghĩa:

• Đạo lí làm người của ông mang tinh thần nhân nghĩa của đạo Nho nhưng lại đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc

• Những mẫu người lí tưởng trong sáng tác của ông là những con người nhân hậu, ngay thẳng, thủy chung, dám đấu tranh với các thế lực tàn bạo, cứu độ nhân thế

+ Lòng yêu nước thương dân:

• Thơ văn chống Pháp của ông ghi lại chân thực một thời đại đau thương của đất nước, tố cáo tội ác kẻ thù: Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ trong trận vong Lục tỉnh,...

• Khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí cứu nước của nhân dân ta

• Biểu dương các anh hùng, nghĩa sĩ đã chiến đấu vì đất nước: Văn tế Trương Định, Kì Nhân Sư trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp

- Nghệ thuật thơ văn

+ Bút pháp trữ tình nồng đậm hơi thở cuộc sống

+ Đậm đà sắc thái Nam Bộ

+ Lối thơ thiên về kể mang màu sắc diễn xướng

II. Đôi nét về tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu)

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Đoạn thơ được trích từ câu 473 đến câu 504 trong truyện Lục Vân Tiên, được sáng tác trong những năm đầu của thế kỉ 19, khi ông bị mù về dạy học chữa bệnh cho dân ở quê nhà

2. Bố cục

- Phần 1 (6 câu đầu): Cuộc đối thoại giữa ông Quán và Vân Tiên

- Phần 2 (10 câu tiếp): Lời ông Quán bàn về lẽ ghét

- Phần 3 (còn lại): Lời ông Quán bàn về lẽ thương

3. Tóm tắt tác phẩm

Truyện Lục Vân Tiên kể về một chàng trai văn võ song toàn, trên đường đi thi đã đánh tan bọn cướp cứu Kiều Nguyệt Nga, một tiểu thư con quan. Nguyệt Nga tự nguyện xin gắn bó cùng chàng để đền đáp ơn nghĩa. Trước khi đi thi, được tin mẹ qua đời Vân Tiên phải bỏ thi về quê chịu tang. Chàng khóc thương mẹ đến mù cả mắt. Trịnh Hâm một kẻ vì ghen tài đã lừa đẩy chàng xuống sông. Chàng được vợ chồng Ngư ông cứu sống. Về đến quê chàng bị cha con Võ Thể Loan (vợ chưa cưới) trở mặt bội ước, đem bỏ chàng trong hang núi nhưng chàng được Thần, Phật giúp đỡ. Sau đómắt chàng sáng ra, thi đỗ Trạng Nguyên, được vua cử đi dẹp giặc Ô Qua. Nguyệt Nga một lòng chung thủy với Vân Tiên. Bị Thái sư bắt cống cho giặc, nàng nhảy sông tự vẫn nhưng được cứu sống. Cuối cùng Vân Tiên thắng trận trở về gặp Nguyệt Nga cả hai kết duyên vợ chồng

- Đoạn trích kể về cuộc nói chuyện giữa nhân vật ông Quán và mấy nho sĩ trẻ tuổi. Lục Văn Tiên cùng bạn là Vương Tử Trực đi thi, vào quán trọ gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm cũng là sĩ tử. Trịnh Hâm đề nghị bốn người làm thơ để so tài cao thấp. Trịnh Hâm, Bùi Kiệm thua tài lại còn nghi Lục Vân Tiên và Vương Tử Trực gian lận. ông Quán nhìn ra lẽ đó mới bàn về lẽ ghét thương ở đời

4. Giá trị nội dung

- Đoạn trích nói lên những tình cảm yêu ghét rất phân minh, mãnh liệt và tấm lòng thương dân sâu sắc của tác giả

5. Giá trị nghệ thuật

- Lời thơ mộc mạc, chân chất nhưng đậm đà cảm xúc

III. Dàn ý phân tích Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu)

1. Lẽ ghét qua lời ông Quán

- Ông Quán đã trực tiếp, thẳng thắn bày tỏ thái độ: Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm những kẻ mà ông cho là việc tầm phào (việc xấu xa, xằng bậy, tàn ác, hại người,...)

- Đối tượng bị ghét: là các hôn quân bạo chúa (Kiệt, Trụ), các triều đại hỗn loạn gây đau thương, tang tóc cho dân chúng (U, Lệ, Ngũ bá, Thúc quý,...)

- Nguyên nhân:

+ ông Quán ghét tất cả những gì đi ngược lại quyền lợi của dân chúng

+ lẽ ghét ấy xuất phát từ lẽ thương: thương nước, thương dân sâu sắc

2. Lẽ thương của ông Quán

- Đối tượng được thương: là các bậc thánh hiền, những người tài giỏi nhân đức, những bậc quân tử chí lớn mà lận đận, công không thành danh không toại, những người có khí phách cương trực không chịu vào luồn ra cúi để có được danh lợi,...

- Ta thấy ở đây giữa các nhân vật và tác giả đã gặp gỡ nhau ở khí phách cương trực, tấm lòng yêu nước thương dân

3. Nghệ thuật

- Vận dụng linh hoạt các biện pháp tu từ đặc biệt là điệp từ thương, ghét

- Thơ triết lí mà vẫn đậm trữ tình, hùng biện mà thấm thía, lời lẽ mộc mạc mà gợi cảm

IV. Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu)

Phân tích tác phẩm Lẽ Ghét Thương – Bài văn mẫu số 1

Truyện thơ Lục Vân Tiên được sáng tác vào đầu những năm 50 của thế kỷ XIX, được viết sau khi Nguyễn Đình Chiểu bị mù, rồi quay trở về quê bốc thuốc, chữa bệnh cứu người và hành nghề dạy học ở miền Lục tỉnh. Nội dung truyện thơ xoay quanh xung đột giữa thiện và ác, qua đó đề cao tinh thần nhân nghĩa, thể hiện khát vọng lý tưởng về một xã hội tốt đẹp, con người với con người đối xử với nhau bằng tình yêu thương, nhân ái. Thuộc thể loại truyện Nôm bác học nhưng lại mang yếu tố dân gian rất rõ. Đoạn trích Lẽ ghét thương nằm từ câu số 473 đến câu 504 của truyện thơ Lục Vân Tiên, xuất phát từ việc trên đường vào kinh ứng thí Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực, cùng với Trịnh Hâm, Bùi Kiệm đã nghỉ trọ tại nhà ông Quán, ở đây cả bốn người đã so tài làm thơ. Khi mà Trịnh Hâm và Bùi Kiệm tỏ ý nghi ngờ hai người Vân Tiên và Tử Trực sao chép thơ của người khác làm của mình, thì ông Quán đã mắng cho hai người này một trận. Sau đó Vương Tử Trực đã hỏi ông Quán về kinh sử, thì ông đã đáp lại lời của Tử Trực bằng chính đoạn trích Lẽ ghét thương, thể hiện quan điểm của bản thân về lẽ thương ghét trên đời.

Nhân vật ông Quán là nhân vật nằm trong lực lượng phù trợ cho nhân vật chính trên con đường thực hiện nhân nghĩa, mang dáng dấp của một nhà nho đi ở ẩn, mặt khác lại mang cả những nét tính cách đậm chất người Nam bộ. Ông chính là người phát ngôn tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu, mà ở trong đoạn trích này là tư tưởng yêu ghét phân minh. Trong quan niệm của ông Quán mối quan hệ giữa ghét và thương được thể hiện ở hay câu thơ “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” và câu cuối đoạn trích “Nửa phần là ghét nửa phần lại thương”. Từ đó ta nhận thấy rằng ghét và thương có mối quan hệ chặt chẽ, là hai mặt đối lập của một tình cảm thống nhất, thương cái tốt đẹp thì tất yếu phải ghét cái xấu xa, đó là mối quan hệ hai chiều không thể tách rời nhau. Mà cụ thể trong đoạn trích này, sự yêu thương thể hiện ở đối tượng thứ nhất là nhân dân lầm than khổ cực, thứ hai là những người tài cao đức trọng nhưng bị vùi dập. Chính vì yêu thương những đối tượng này nên mới ghét những kẻ hại dân hại đời, đẩy con người vào tình cnahr oan trái, éo le, nghịch cảnh. Như vậy có thể thấy rằng mối quan hệ giữa ghét và thương gắn liền với lý tưởng yêu nước thương dân ở Nguyễn Đình Chiểu.

Cụ thể lẽ ghét được ông Quán trình bày trong những câu thơ.

“Quán rằng: Ghét việc tầm phào

Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm

Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm

Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang

Ghét đời U, Lệ đa đoan

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần

Ghét đời ngũ bá phân vân

Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn

Ghét đời thúc quý phân băng

Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân”

Trong hai câu thơ đầu tiên tác giả sử dụng điệp từ “ghét” lặp lại tận 4 lần để khắc sâu, nhấn mạnh cảm xúc ở thang bậc cao nhất, ghét như dao khắc vào đá, in sâu vào tận tâm khảm, mà đối tượng chung ở đây là “ghét việc tầm phào”, ý chỉ những việc nhỏ nhen, vô bổ, mà ở trong ngữ cảnh này thì có nghĩa là những việc xằng bậy, hoang đường có hại cho nhân dân. Sau đó ở tám câu thơ sau tác giả đã cụ thể hóa những đối tượng mình ghét và đi vào lý giải nguyên do mình ghét, sử dụng cấu trúc chung “ghét - đối tượng ghét - đặc điểm của đối tượng ghét và hậu quả gây ra cho nhân dân”, cách liệt kê rạch ròi như thế đã góp phần thể hiện được rõ nét đức tính bộc trực thẳng thắn của người dân Nam Bộ, cũng như là của tác giả Nguyễn Đình Chiểu. Từ lịch sử Trung Quốc, ông Quán đã dẫn ra một loạt các nhân vật nổi tiếng trong lịch sử để làm ví dụ cho cái lẽ ghét của mình, đầu tiên là ghét vua Kiệt của nhà Hạ, vua Trụ của nhà Thương, vốn là những kẻ đa dâm háo sắc, sống phóng túng, xa hoa lãng phí, bạo ngược vô đạo đẩy nhân dân vào những nỗi “sa hầm sẩy hang”. Thứ hai là ghét U Vương, Lệ Vương vốn là hai vị vua nổi tiếng hoang dâm, lại lắm trò “đa đoan” rắc rối, khiến nhân dân nhiều phen khốn đốn, lầm than vô cùng. Thứ ba là ghét đời “ngũ bá” tức chỉ năm nước chư hầu thời Xuân Thu chiến quốc vì quyền lực, dựa vào sức mạnh quân sự mà thay nhau lên làm chủ bằng chiến tranh, gây ra nhiều nhiễu loạn, khiến đời sống nhân dân bị đảo lộn. Cuối cùng là ghét “đời thúc quý phân bằng”, ý chỉ cảnh suy tàn, diệt vong của đất nước, dẫn đến viễn cảnh loạn lạc, lằng nhằng, cuộc sống nhân dân rơi vào cảnh hoang mang, khốn khổ vô cùng. Và sau những điều ghét ấy, ta có thể nhận ra được rằng ẩn đằng sau những nỗi ghét cay ghét đắng ấy là tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc, tấm lòng nhân nghĩa mong cảnh bình yên, là nỗi xót xa cho khốn cảnh của nhân dân dưới sự cai trị thối nát, bạo ngược của những kẻ cầm quyền tàn ác, hoang đường, của ông Qúy hay cũng là của chính tác giả Nguyễn Đình Chiểu.

So với những lẽ ghét, thì điều thương của ông Quán được thể hiện ở 14 câu thơ tiếp, nhiều hơn hẳn 4 câu so với lẽ ghét.

“Thương là thương đức thánh nhân

Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông

Thương thầy Nhan Tử dở dang

Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh

Thương ông Gia Cát tài lành

Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha

Thương thầy Đổng Tử cao xa

Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi

Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi

Lỡ bề giúp nước lại lui về cày

Thương ông Hàn Dũ chẳng may

Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa

Thương thầy Liêm Lạc đã ra

Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”.

Ở phần này giọng điệu của ông Quán trở nên nhẹ nhàng, có phần thương cảm tiếc nuối cho những đức thánh nhân mà ông cho là đáng được thương, được yêu. Tác giả tiếp tục sử dụng loại cấu trúc tương tự như ở mười câu lẽ ghét, chỉ khác mỗi chữ “ghét” thay vào bằng chữ “thương”, thành cấu trúc “thương - đối tượng - đặc điểm - hậu quả”. Tiếp tục vận dụng vốn hiểu biết của mình về lịch sử cũng như các nhân vật nổi tiếng trong lịch sử, tiêu biểu cho lẽ thương, ông Quán đã dẫn ra những ví dụ điển hình thể hiện quan niệm thương của mình. Ông thương là thương “đức thánh nhân” Khổng Tử là người sáng tạo ra Nho giáo, dù bản thân ông đã cố gắng đi khắp nơi truyền đạo nhưng không thành, cuối cùng đành phải quay về dạy học, chỉ mãi đến sau này người ta mới dần trân trọng và xem học thuyếtKhổng Tử là một kho tàng có giá trị vô cùng to lớn. Thứ hai là thương “thầy Nhan Tử”, dù học hành giỏi giang nhưng lại yểu mệnh chết sớm. Thương Gia Cát Lượng, vị quân sư tài ba, thế nhưng lại không gặp thời, cuối cùng đành chấp nhận chôn vùi tài năng theo sự diệt vong của nhà Hán, đến tận chết chí nguyện vẫn không thành. Thương cả “Đổng Tử”, “Nguyên Lượng” đều là những người có tài năng, mong muốn được đứng ra giúp nước thế nhưng trái nỗi không được vua trọng dụng, cuối cùng đành chịu lui về ở ẩn bên đồng ruộng ao cá, chôn vùi tài năng một đời. Thương cả “Hàn Dũ”, “Liêm, Lạc” vốn dĩ có lòng can gián, nguyên ngăn vua làm điềuthất đức, cuối cùng lại bị bạo quân bác bỏ, kẻ chịu lưu đày, kẻ may mắn hơn thì chấp nhận lui về vườn dạy học, sống kiếp bình tâm đến hết đời. Tổng kết lại, lẽ thương của ông Quán, chính là thương những con người tài năng đức độ, thế nhưng không gặp thời, hoặc bị kẻ gian hãm hại, vua bạc nhược không trọng dụng, dẫn tới tài năng bị phôi pha, thương là thương cái đức độ, tài năng ngời ngời mà phải chịu uổng phí, phôi pha. Và sâu trong niềm thương cảm ấy, cũng ẩn chứa những nỗi ghét, ghét thời thế loạn lạc, ghét những kẻ gian thần giỏi nịnh bợ, ghét cả thứ vua hoang dâm vô đạo, bạc nhược ngu dốt, không chỉ đẩy nhân dân và bước đường khốn khổ, mà còn đẩy những con người muốn cống hiến tài năng, xây dựng đất nước và bước đường tàn lụi, để đất nước diệt vong theo.

Đoạn trích Lẽ ghét thương đã bộc lộ rõ quan điểm yêu nước, thương dân sâu sắc thông qua quan niệm ghét - thương của ông Quán, từ đó thể hiện tấm lòng nhân nghĩa, tư tưởng nhân đạo, mong muốn cho nhân dân một cuộc sống tốt đẹp, con người đối xử với nhau bằng chữ “nghĩa”, bằng tình yêu thương chan hòa, cao thượng. Với lời thơ thẳng thắn, bộc trực, thể thơ lục bát dân tộc giản dị, kết hợp với các yếu tố lịch sử, các nhân vật nổi tiếng, nội dungvà ý nghĩa của bài thơ dễ dàng xâm nhập và để lại trong lòng những ấn tượng sâu sắc về tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân của tác giả Nguyễn Đình Chiểu.

Phân tích tác phẩm Lẽ Ghét Thương – Bài văn mẫu số 2

Truyện Lục Vân Tiên Nguyễn Đình Chiểu là một Nôm mang khuynh hướng dân gian được viết vào khoảng những năm 50 của thế kỷ 20, lúc này ông đã bị mù. Truyện xoay quanh những cuộc chiến giữa thiện và ác đề cao lý tưởng về một cuộc sống tốt đẹp mà ở đó tinh thần nhân nghĩa, mối quan hệ giữa con người với nhau đều thấm đượm những tình cảm chân thành, bác ái. Đoạn trích Lẽ ghét thương là cuộc nói chuyện của ông Quán, một nhân vật phụ nhưng lại được yêu thích bởi tinh thần yêu ghét phân minh với 4 chàng sĩ tử bao gồm Lục Vân Tiên, Tử Trực, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm trước khi họ vào trường thi.

Mở đầu đoạn trích là lời bộc bạch của ông Quán:

"Quán rằng: "Kinh sử đã từng,

Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa

Hỏi thời ta phải nói ra

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương".

Nhân cảnh Lục Vân Tiên xin ông nói về quan điểm ghét thương, ông đã mở đầu bằng những câu thơ như vậy, chung quy lại lẽ ghét thương vốn còn nằm trong những gì kinh sử chép lại, khiến người đọc suy nghĩ rồi phải thấy xót xa, nếu như Vân Tiên vốn đã thành thực có ý hỏi vầy, thì ông Quán cũng chẳng ngại chi mà không bộc bạch bởi chung quy "Vì chưng hay ghét cũng là hay thương".

Vân Tiên cũng chẳng ngần ngại đáp lời:

"Tiên rằng: Trong đục chưa tường,

Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?"

Vân Tiên đã chẳng ngần ngại mở lời nói ra nỗi vướng mắc trong lòng mình, rằng nếu chưa hiểu rõ tốt xấu, đục trong thì ông Quán lấy căn cứ vào đâu để rạch ròi phân minh cái sự ghét thương của mình. Mười câu tiếp là nói lên những những điều ông Quán căm ghét, vậy ông Quán ghét gì?

"Quán rằng: Ghét việc tầm phào

Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm",

Nếu câu trước ý thơ mang sắc thái nhẹ nhàng bâng quơ, thì câu sau ngữ khí của nhân vật lại trở nên mạnh mẽ kiên quyết, như dao khắc vào đá tưởng không gì có thể thay đổi được. Điều ấy chứng minh, phàm là việc buôn chuyện, tán dóc, những chuyện vu vơ chẳng ra đâu vào đâu ông đều không tán thành. Dẫn từ lịch sử nước bạn -Trung Quốc cổ đại, ông Quán liệt kê ra một loạt 4 điều ghét: Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm; ghét đời U, Lệ đa đoan; ghét đời Ngũ bá phân vân; ghét đời thúc quý phân băng. Nói chung phàm là những triều đại vua tôi thối nát, hoang dâm vô đạo, khiến nhân dân phải "sa hầm sẩy hoang", phải chịu cảnh lầm than, nhọc nhằn, loạn lạc đều là nỗi ghét sâu trong tâm khảm của ông Quán. Và nếu tinh ý ta sẽ nhận ra trong những cái ghét của ông Quán lại ẩn chứa mọt nỗi niềm thương yêu cao cả, ấy là nỗi lòng yêu nước, thương cho nhân dân vô tội phải chịu cảnh cùng cực khốn đốn, dưới sự cai trị thối nát của những triều đại mà vua tôi bạo ngược chẳng nên nết.

Còn về điều thương, ông Quán thương là "thương đức thánh nhân", ý chỉ Khổng Tử, người khai sáng ra Nho giáo, nền tảng tinh thần phong kiến xưa, từng có chí đi hành đạo ở nhiều nước nhưng không thành. Thương Nhan Tử, Gia Cát Lượng, Đổng Tử, Nguyên Lượng (Đào Tiềm), Hàn Dũ, thầy Liêm (Chu Đôn Di), Lạc (Trình Hạo và Trình Hi), tất cả những người kể trên đều là bậc quân tử, tài chí hơn người. Ông thương họ vì những lẽ gì? Ông thương bởi cuộc đời họ đã bị những khó khăn trắc trở ngăn cản bước chân, khiến họ không có đường phát triển, không thể tận lực cống hiến hết tài năng của mình. Chung quy lại ông Quán thương những người tài năng đức độ, nhưng lại gặp cảnh trái ngang, bị kẻ gian hãm hại, bề trên không tin tưởng trọng dụng, lòng thương xót của ông là sự thương xót những cái tài năng, đạo đức mà ở đời mấy ai có được. Và cũng như lẽ ghét có thương thì ở đây trong lẽ thương cũng có niềm ghét, mà tất cả là dựa trên lòng yêu nước, thương dân sâu sắc của ông Quán. Ông thương những bậc thánh nhân, đức trọng, song song với đó là niềm ghét cay ghét đắng những kẻ gian thần, nịnh bợ, những hôn quân có mắt không tròng đã vùi dập người tốt để kẻ xấu được thời nhiễu loạn, làm khổ nhân dân.

Kết lại những lẽ ghét thương của mình ông Quán đã có một câu thế này:

"Xem qua kinh sử mấy lần

Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương"

Nói tóm lại cái lẽ ghét thương của ông Quán cũng là lời ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu, ông thương nhân dân phải lầm lũi, khổ sở, thương kẻ hiền tài bó tay bất lực, lại ghét những kẻ gian dối, mồm năm miệng mười, những kẻ là vua lại chẳng khác phường bạo ngược, vô loài đã đem đến bao nhiêu bất hạnh, khổ đau cho giống nòi dân tộc.

Đoạn trích Lẽ ghét thương là lời bộc bạch của nhân vật cũng là lời chân thành của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu, qua đó thể hiện tấm lòng chính nghĩa, nhân văn sâu sắc, yêu nước thương dân sâu sắc, niềm mong ước một cuộc sống tươi đẹp, con người đối xử vứi nhau bằng tình nghĩa sắt son, cao thượng. Lời thơ chân thật, giàu cảm xúc và giản dị nhanh chóng khắc sâu vào tâm khảm của người đọc, việc vận dụng những kiến thức lịch sử của nước bạn vùa đem lại sự mới mẻ đồng thời cũng là một cách để gây ấn tượng sâu sắc cho những quan điểm của nhà thơ.

Phân tích tác phẩm Lẽ Ghét Thương – Bài văn mẫu số 3

Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ lớn, ngôi sao sáng của văn học dân tộc. Các tác phẩm của ông được người dân Nam Bộ đặc biệt yêu mếm và đón nhận bởi lẽ đó chính là tâm hồn, là cốt cách trong con người họ. Tác phẩm lớn nhất trong sự nghiệp Nguyễn Đình Chiểu chính là Lục Vân Tiên với những quan điểm, tư tưởng về con người, xã hội. Đặc biệt trong đoạn trích “Lẽ ghét thương” thông quan nhân vật ông Quán, Nguyễn Đình chiểu đã thể hiện quan điểm lẽ ghét, lẽ thương đáng ngưỡng mộ.

Đoạn trích Lẽ ghét thương được trích từ câu 473 đến câu 504, kể về cuộc nói chuyện giữa ông Quán và các nho sĩ trẻ tuổi. Trong quán trọ, bốn nhân vật Lục Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm và Bùi Kiệm gặp nhau. Tại đây Trịnh Hâm đề nghị mọi người làm thơ để phân chia thứ bậc. Trong cuộc đua tranh đó Vân Tiên tỏ ra vượt trội hơn cả, khiến cho Trịnh Hâm vô cùng tức giận và đổ cho Vân Tiên chơi gian. Trong bối cảnh đó ông Quán đã ra nói chuyện và bàn về lẽ ghét thương ở đời.

Mở lời ông Quán tự giới thiệu về chính mình:

Quán rằng: Kinh sử đã từng

Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.

Hỏi thời ta phải nói ra,

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương

Ông Quán vốn cũng là một kẻ sĩ tử, khi xưa dùi mài kinh sử với mơ ước công danh và giúp ích cho đời. Nhưng có lẽ vì những biến cố trong cuộc đời, xã hội mà ông đã lui về ở ẩn. Nhưng cái hồn cốt của một kẻ sĩ thì mãi mãi không bao giờ mất đi. Ông Quán chính là hình ảnh tiêu biểu cho những nhà Nho tài giỏi như lui về ở ẩn, sống cuộc đời an nhàn, ung dung, tự tại, hòa mình với thiên nhiên. Có thể coi ông Quán là người phát ngôn cho những tư tưởng của tác giả.

Qua câu nói: “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” đã cho thấy mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa hai thứ tình cảm đối lập này: ghét – thương. Hai trạng thái cảm xúc tuy đối lập nhưng luôn tồn tại song song với nhau, người ta ghét những điều tầm thường, giả dối cho nên mới thương những điều nhân ái, tốt đẹp. Bởi vậy chúng luôn tồn tại và không tách rời nhau.

Trước những lời nói đó, Vân Tiên tỏ ra hết sức khiêm nhường, mong muốn nghe được lời truyền đạt, chỉ dạy của bậc tiền bối: “Tiên rằng: Trong đục chưa tường/ Chẳng hay thương ghét, ghét thương thế nào?”. Có lẽ một người tài giỏi, thông minh như Vân Tiên đã tỏ tường lẽ ghét thương ở đời. Nhưng vốn là một nho sinh khiêm tốn, Vân Tiên đã rất khiêm mình để được nghe những lời bày tỏ, chỉ bảo từ ông Quán.

Những câu thơ tiếp theo tác giả thể hiện những điều mình ghét: “Quán rằng: ghét việc tầm phào/ Ghét cay, ghét đắng ghét vào tận tâm./ Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm/ Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang… Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân”. Cái mà ông Quán ghét chính là chế độ thối nát, vua chúa bạo tàn, chiến tranh xảy ra liên miên khiến cho đời sống người dân vô cùng cực khổ. Có thể thấy mỗi cái ông ghét luôn đi kèm với hệ quả của những triều đại đó, ví như ghét đời Kiệt Trụ, vì mê dâm nên khiến nhân dân “sa hầm sẩy hang”. Những lí lẽ, dẫn chứng hết sức cụ thể và ngắn gọn như một bản tổng kết lịch sử súc tích về các triều đại thối nát của Trung Quốc. Cái ông ghét rất rõ ràng, mạch lạc, đó là những điều khiến nhân dân khổ cực, nhũng nhiễu làm hại đến người dân đều khiến ông ghét. Điều khiến ông ghét gắn bó sâu sắc với lòng thương dân, yêu dân sâu nặng.

Còn điều ông thương là gì? “Thương là thương đức thánh nhân/ Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông/ …/ Thương thầy Liêm, Lạc đã ra/ Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”. Nếu như ở phần trên, khi nói về lẽ ghét giọng điệu ông Quán đầy căm tức với những Trụ, Kiệt, U, Lệ,… đã hại dân thì đến đây giọng và nhịp thơ như trùng xuống, trìu mến và thiết tha hơn. Những cái tên ông nhắc đến: Khổng Tử, Nhan Hồi, Trình Di, Đào Tiềm, Hàn Dũ,… đây đều là những nhân vật có đức, có tâm, có tài nổi tiếng trong lịch sử. Họ là người tài giỏi có tấm lòng ôm trùm thiên hạ, cả một đời cống hiến cho đời nhưng cuộc sống của họ lại vô cùng truân chuyên, vất vả. Ông thương là thương những người có đức, có tài nhưng cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Lòng thương gắn liền với tấm lòng trân trọng và yêu quý người tài. Và cũng từ chính lẽ thương ấy, ông Quán đã rút ra chiêm nghiệm cho chính mình:

Xem qua kinh sử mấy lần,

Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.

Tác phẩm được viết bằng thứ ngôn tư giản dị, mộc mạc nhưng giàu sức biểu cảm. Sử dụng thủ pháo đối lập: sa hầm đối với sẩy hang, sớm đầu đối với tối đánh,… làm cho nhịp thơ linh hoạt, nhịp nhàng hơn. Nghệ thuật điệp ngữ: thương ông, thương ông lặp lại nhiều lần có tác dụng trong việc diễn tả lẽ ghét thương của tác giả.

Lẽ ghét thương là đoạn trích thể hiện tập trung nhất tư tưởng, quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu qua nhân vật ông Quán. Ông có lòng yêu dân, thương dân sâu sắc, bởi vì thương dân nên ông càng ghét hơn lũ hôn quân bạo chúa, chuyên làm điều bạo ngược với dân lành. Đằng sau những vần thơ thống thiết ta thấy được tấm lòng nhân ái, nhân đạo sâu sắc của trái tim bao la – Nguyễn Đình Chiểu.

Phân tích tác phẩm Lẽ Ghét Thương – Bài văn mẫu số 4

Cuối thế kỉ XIX chế độ phong kiến nhà Nguyễn đang bước vào giai đoạn của những “cơn hấp hối”, triều chính rối ren. Đó là nguồn cảm hứng để các nhà văn, nhà thơ phản ánh hiện thực, hoàn thành sứ mệnh “người thư kí trung thành của thời đại”. Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ, nhà văn tài ba sống trong giai đoạn ấy, bằng tài năng thi phú ông đã mượn chuyện bên Trung Hoa để tái hiện lại hiện thực xã hội đương thời và bộc lộ quan điểm, tư tưởng của mình qua những vần thơ. Đoạn trích “Lẽ ghét thương” trích trong truyện “Lục Vân Tiên” từ câu 473 đến câu 504 kể về cuộc nói chuyện giữa ông Quán và các nho sĩ trẻ tuổi, đồng thời thể hiện tình cảm chân thành thương ghét của tác giả.

Ông Quán trong đoạn trích là nhân vật tiêu biểu cho các nhà Nho ở ẩn. Ông bộc lộ suy nghĩ, tình cảm của mình trước việc đời mà ông chứng kiến. Đó là chuyện của bốn chàng nho sinh Bùi Kiệm, Trịnh Hâm, Tử Trực cùng bạn là Lục Vân Tiên. Họ uống rượu, thi tài làm thơ trong quán ông trước khi vào trường thi. Trịnh Hâm và Bùi Kiệm ba hoa, khoác lác bị thua còn nghi oan cho Lục Vân Tiên và Tử Trực gian lận. Nhân sự việc đó ông Quán bàn về lẽ ghét thương ở đời.

Nhân vật ông Quán tuy là nhân vật phụ nhưng đoạn trích này có thể coi ông là người phát ngôn cho tư tưởng của tác giả. Bốn câu thơ đầu là tuyên ngôn về lẽ ghét thương của ông Quán:

“Quán rằng kinh sử đã từng

Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa

Hỏi thời ta phải nói ra

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”.

Một con người học rộng tài cao như Đồ Chiểu ngoài hai mươi tuổi đã thi đậu tú tài, giữa lúc tương lai rộng mở với đầy những hứa hẹn thì mẹ mất, mắt thì bị mù sau về quê dạy học và làm nghề thuốc. Chính vì vậy mà việc tinh tường những sự việc trong sách sử khiến lòng mình đau đớn, xót xa. Ông nêu lên mối quan hệ khăng khít giữa ghét và thương. Ông ghét không phải vì danh vì lợi của bản thân, mà ghét vì “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” ông ghét là bởi vì ông thương quá nhiều, vì tấm lòng thương yêu đồng loại ghét bọn gian tà, cậy quyền cậy thế ức hiếp người khác. Như vậy ghét trong quan niệm của ông Quán cũng là một biểu hiện của thương, lòng thương ở đây đạt đến mức cực đại vì thương quá nhiều mà sinh ra ghét vô cùng.

Bốn câu tiếp là tình cảm yêu ghét rõ ràng của ông Quán được bộc lộ:

Tiên rằng: “Trong đục chưa tường

Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào

Quán rằng ghét việc tầm phào

Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm”

Khi được Vân Tiên hỏi chuyện về lẽ ghét thương ở đời là như thế nào? Ông thẳng thắn bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của mình. Ông “ghét việc tầm phào” là những việc vớ vẩn, bậy bạ, vô nghĩa. Ông “ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm” chỉ với một câu thơ lục bát mà đến bốn lần từ “ghét” được lặp lại và lối diễn đạt tăng cấp thể hiện rõ mức độ căm ghét đến tột cùng, cực điểm của ông Quán.

Ông cụ thể hóa việc ghét là ghét ai, ghét những việc như thế nào và ghét là vì ai?

“Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm

...Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân”

Mỗi một cặp câu lục bát là tác giả trích dẫn những con người những sự việc từ đời nhà Hạ, Thương bên Trung Quốc với điệp cấu trúc “Ghét đời...”. Những điển tích, điển cố được sử dụng thật tài tình và có dụng ý riêng, tác giả mượn chuyện bên Tàu mà nói chuyện bên ta làm nổi bật đặc trưng của thơ ca trung đại “Ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời). Ông ghét ở đây là vì ai? Vì một chữ “dân” tất cả những sự việc trên của mỗi triều đại làm đều tổn hại cho dân. Nguyễn Đình Chiểu phải là một người yêu nước thương dân đến vô cùng, ông ghét vì xuất phát từ quyền lợi của những người dân nghèo. Ghét những kẻ phá hoại của dân, làm nhũng nhiễu đời sống nhân dân, đẩy họ vào cuộc sống lầm than cơ cực. Đồ Chiểu sống dưới đời vua Tự Đức với chế độ chuyên chế tàn bạo, vua chúa ăn chơi xa xỉ, thuế má nặng nề, quan lại tham nhũng, thời đại ấy “Trời ảm đạm u sầu. Cảnh hoang tàn đói rét. Dân nghèo cùng kiệt” khiến cho lòng dân căm phẫn mà nổi dậy phản kháng. Nguyễn Đình Chiểu một nhà nhân đạo luôn đứng trên lập trường, quyền lợi nhân dân cất lên tiếng nói của lòng dân. Thơ ca của ông đúng như câu thơ:

“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”

Nếu tám câu thơ trên nêu rõ những việc của các triều đại mà ông Quán ghét thì mười bốn câu thơ tiếp theo chỉ ra những người và những lí do mà ông Quán thương:

“Thương là thương đức thánh nhân

... Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”

Mỗi con người, mỗi nhân vật được tác giả nhắc đến đều là những người xưa, những người hiền tài nhưng gặp phải thời thế bất trắc, số phận long đong không thể đem hết tài năng của mình để cống hiến, phục vụ cho đất nước. Ấy là Khổng Tử thì lận đận trong con đường truyền đạo và giáo hóa dân chúng của mình nay nơi này mai nơi nọ, là Nhan Uyển thì chết yểu, là Gia Cát Lượng tài ba lại không gặp đúng thời thế, Đổng Tử là Đổng Trọng Thư “Có thời có chí, ngôi mà không ngôi” ông ra làm quan mà không được trọng dụng tài năng của mình, thương cho Đào Tiềm không ham, không chịu được nỗi nhục chốn quan trường mà lui về ở ẩn để gìn giữ khí tiết, là thương cho Hàn Dũ vì dâng biểu khuyên vua không nên quá tin đạo Phật mà bị tội, bị đày đi xa, thương cho thầy Liêm, Lạc “bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”. Những con người, những sự việc ấy đều được tác giả chọn lọc với những chi tiết điển hình, lối diễn đạt sinh động và cách sử dụng điệp từ “thương ông”, “thương thầy” đã để lại được ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Cũng như tám câu trên tác giả thương cho những con người tài năng lỗi lạc trước đây cũng là thương cho những người tài đức vẹn toàn thời nay mà không được trọng dụng như Cao Bá Quát có tài năng, có ý chí nhiều lần đi thi nhưng không ít lần bị đánh trượt, như Bùi Hữu Nghị cương trực nhưng vẫn phải vào ngục tù, như Nguyễn Công Trứ một lòng với nước với dân nhưng lại trở thành trò cười của thiên hạ...

Thương người cũng là thương mình, thốt nên lời căm ghét cho nhân dân cũng là nói lên nỗi lòng của chính mình. Nguyễn Đình Chiểu là một con người học rộng tài cao với bao ước mơ, hoài bão lập thân nhưng vừa bước chân vào đời ông đã gặp bao nỗi bất hạnh, gian truân. Nguyễn Đình Chiểu ghét triều đại bên Trung Hoa, thương cho những tiền nhân dù là chỉ “Xem qua kimh sử mấy lần/ nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương” nhưng cũng là để phản ánh thực trạng trong thời đại ông đang sống một triều đại thối ruỗng, mục nát với bao điều nguy hại cho dân. Quan điểm thương ghét của ông Quán cũng như nỗi lòng của tác giả đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân, từ tấm lòng thương dân, thương đời.

Đoạn trích với những nét nghệ thuật đặc sắc như sử dụng điệp từ, điệp cấu trúc, lối diễn đạt linh hoạt, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân, sử dụng nghệ thuật tiểu đối, đối từ ngữ trong câu: Vì chưng hay ghét <> cũng là hay thương, sa hầm <> sẩy hang, sớm đầu <> tối đánh, chí thời có chí <> ngôi mà không ngôi, sớm dâng lời biểu <> tối đày đi xa,... làm cho câu thơ có vần có nhịp, bộc lộ được thái độ ghét thương rõ ràng của tác giả.

Đoạn trích “Lẽ ghét thương” tác giả mượn lời ông Quán bày tỏ nỗi lòng, suy nghĩ, tình cảm, thể hiện quan điểm thương ghét của mình trước người đời việc đời. Ẩn sau lớp vỏ ngôn từ của văn chương là cả một tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà thơ mù. Theo đánh giá của Phạm Văn Đồng “Nguyễn đình Chiểu_ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc”.

Phân tích tác phẩm Lẽ Ghét Thương – Bài văn mẫu số 5

Lẽ ghét thương là lời tâm huyết của Nguyễn Đình Chiểu về nỗi ghét, tình thương nhân bản.

Trong đoạn thơ trích nói về "Lẽ ghét thương" có tất cả 26 câu thì trong đó có 10 câu nói về "ghét", 16 câu nói về "thương". Như vậy là số lời nói về thương dài gần gấp đôi so với số lời nói về "ghét". Bản thân tác giả đã có lần nói rõ: "Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương". Quả đúng như vậy, nếu đọc lại 10 câu thơ nói về "ghét" thì ta sẽ thây căn nguyên, gốc rễ của cái "ghét" ở đây là lòng thương dân. Sở dĩ ông Quán "ghét", "ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm", những cái "tầm phào", những cái "đa đoan", những cái "dối trá", những cái "mê dầứi'\ lầ vì chúng là "rối dân", "làm dân nhọc nhằn", làm "dân luống chịu lầm than muôn phần", làm "dân đến nỗi sa hầm sẩy hang". Trong số 10 câu thơ của đoạn này thì thì có 4 câu có từ dân nói về nỗi khổ của dân:

Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

Chuông bề dối trá làm dân nhọc nhằn.

Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.

Để giãi bày những lời tâm huyết vế nỗi ghét này được sâu đậm, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật điệp từ. Trong 10 câu thơ có 8 từ "ghét" thì hai câu mở đầu đoạn trích đã có 4 từ. Riêng ở câu thơ thứ hai:

"Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm"

Nghệ thuật dùng điệp từ tăng cấp để diễn tả các màu sắc, mùi vị và độ sâu tăng dần của cái ghét: Từ cái ghét có vị cay, sang cái ghét có vị đắng, đến cái ghét có độ sâu của lòng người: "ghét vào tận tâm". Với cách diễn đạt tăng cấp này, Nguyễn Đình Chiểu cho bạn đọc biết cái ghét của ông Quán đã đổi gam, đổi chất, cái gọi là ghét của ông Quán thực ra là lòng căm thù. Ong Quán căm thù tất cả những con người, những sự việc làm tổn hại đến hạnh phúc của nhân dân. Điều này thể hiện tính nhân dân sâu sắc của văn thơ Nguyên Đình Chiểu.

Đối lập với nỗi ghét, lòng căm ghét là tình thương, ông Quán đã tự bạch về tình thương của mình trong 16 câu. Mở đầu là ông nói về tình thương của ông với Khổng Tử vất vả, gian lao trong công việc truyền đạo Nho: "Khi nơi Tôhg, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông". Tiếp đó, ông bày tỏ tình thương của ông đối với Nhan Tử, Gia Cát, Đổng Tử, Nguyên Lượng, Hàn Dũ, Liêm, Lạc. Họ là những con người hiền nhân, quân tử, kiểu mẫu của đạo Nho, những muốn hành đạo, giúp vua, cứu đời và cứu dân, nhưng rút cục là gặp bất hạnh hoặc chết yểu, hoặc là không được vua tin dùng, hoặc là không gặp thời vận. Mơ ước và nguyện vọng hành đạo, cứu đời, cứu dân của họ không thành.

Nếu như ở đoạn thơ mười câu trên, tác giả cho nhân vật nói lòng căm thù bọn người hại dân để nói lên lòng thương dân thì ở đoạn thơ 16 câu này tác giả lại cho nhân vật bộc lộ lòng thương yêu trực tiếp đối với những người có tài cao, chí cả, muốn cứu đời và cứu dân, nhưng rút cục là gặp bất hạnh hoặc chết yểu, hoặc là không được vua tin dùng, hoặc là không gặp thời vận. Mơ ước và nguyện vọng hành đạo, cứu đời, cứu dân của họ không thành.

Nếu như ở đoạn thơ mười câu trên, tác giả cho nhân vật nói lòng căm thù bọn người hại dân để nói lên lòng thương dân thì ở đoạn thơ 16 câu này tác giả lại cho nhân vật bộc lộ lòng thương yêu trực tiếp đối với những người có tài cao, chí cả, muốn cứu đời giúp dân mà gặp phải những rủi ro, bất hạnh nên nguyện vọng cứu đời, cứu dân không thực hiện được.

Để biểu hiện tình cảm thương yêu đầy tính chất bác ái và nhân bản đó, Nguyễn Đình Chiểu ở đoạn thơ 16 câu này vẫn tiếp tục dùng nghệ thuật điệp từ. Trong 16 câu thơ này ông đã dùng 9 từ "thương"

Mở đầu cho đoạn thơ ông dùng đến hai từ "thương":

"Thương là thương đức thánh nhân"

Điệp từ "thương" biểu hiện niềm thương yêu tha thiết của nhân vật đối với Khổng Tử, khi Khổng Tử gặp những gian nan, vất vả trên đường hành đạo. Phải nói là lòng thương của ông Quán ở đây rộng lớn. Ông thương cả đến những người chết yểu mà công danh chưa đạt:

"Thương thầy Nhan Tử dở dang,

Ba mươi mốt tuổi tách dàng công danh",

Ông thương cả đến những người không gặp vận may:

Thương ông Gia Cát tài lành,

Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha".

Từ đó, ông Quán bộc lộ tình thương đến số phận cay đắng của con người trước những quy luật khắc nghiệt của tạo hoá và xã hội.

Đoạn thơ có nghệ thuật bố cục khá chặt chẽ, mạch lạc.

Có câu mở đầu nói về "ghét":

"Quán rằng: Ghét việc tầm phào

Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm

Có câu mở đầu nói vé đoạn "thương":

"Thương là thương đức thánh nhân Khỉ nơi Tống Vệ, lúc Trần, lúc Khuông"

Có câu kết cho cả hai đoạn "ghét" và "thương":

"Xem qua kinh sử mấy lần Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương",

Đối với các ý nhỏ trong mỗi đoạn ghét và thương, tác giả lại dùng các điệp từ ghét và thương để vừa tách biệt vừa liên kết các ý nhỏ lại với nhau. Ví dụ:

"Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,

Để dân đến nổi sa hầm sẩy hang.

Ghét đời Ư, Lệ đa đoan,

Khiến dân luống chịu lẩm than muôn phần

hoặc:

"Thương ông Gia Cát tài lành,

Gặp cơn Hán mạt dã đành phôi pha.

Thương thầy Đổng Tử cao xa,

Chí dà có chí, ngôi mà không ngôi

Nhờ nghệ thuật dùng điệp từ kết hợp với bố cục chặt chẽ, mạch lac mà đoạn thơ đọc lên giọng điệu vừa nghiêm trang vừa thống thiết, một nét đặc trưng của điệu thơ chữ tình Nguyễn Đình Chiểu.