Sự trưởng thành của Gióng có gì kì lạ ?

2 câu trả lời

ki lạ :

mẹ ướm chân lên vết chân to về nhà thụ thai

mười hai tháng mới ra đời

Sự trưởng thành của Gióng đựơc xây dựng bằng rất nhiều chi tiết tưởng tượng kì ảo giàu ý nghĩa.

Trước hết, đó là sự ra đời kì lạ của chú bé làng Gióng. Một bà lão có tiếng là phúc đức, một hôm đi ra đồng, gặp vết chân rất to liền ướm bàn chân mình vào đó. Về nhà bà thụ thai và sau mười hai tháng, bà đã sinh ra một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Điều này cho thấy, Thánh Gióng là con cái của thần linh, có nguồn gốc siêu phàm, cao quý. Việc Gióng ra đời rất đặc biệt, khác hẳn người thường.

Điều kì lạ thứ hai là đứa trẻ lên ba mà vẫn không biết nói biết cười, cũng chẳng biết đi. Nhưng khi nghe tiếng sứ giả rao tìm người tài giỏi đánh giặc cứu nước, Gióng đột nhiên cất tiếng nói, và câu đầu tiên sau ba năm im lặng là tiếng nói đòi đánh giặc và quả quyết sẽ đánh thắng. Chi tiết này cho thấy tinh thần chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta. Bình thường, họ lặng lẽ, nhỏ bé, yếu đuối, nhưng ở họ luôn tiềm ẩn những khả năng kì lạ, phi thường, và họ sẵn sàng cống hiến sức mình để bảo vệ đất nước.

Để chuẩn bị cho việc đánh giặc, Gióng yêu cầu chuẩn bị những phương tiện và vũ khí tối tân nhất thời đó (ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt). Gióng tuổi nhỏ nhưng chí lớn, tài cao. Nhân dân ta đã có những thành tựu văn hoá – kĩ thuật đáng tự hào ứng dụng vào nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm của đất nước.

Điều kì lạ thứ ba là quá trình chuẩn bị đánh giặc của Gióng. Gióng lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã đứt chỉ. Bà con làng xóm đã vui vẻ góp gạo để nuôi chú bé lớn nhanh, thực hiện ý nguyện của cộng đồng là đánh giặc, cứu nước. Nhờ đó, Gióng có thể vươn vai thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Điều đó cho thấy, người anh hùng có nguồn gốc siêu phàm, cao quý nhưng rất gần gũi với nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng, truyền cho sức mạnh. Gióng lớn lên bằng cơm gạo của nhân dân, tiêu biểu cho sức mạnh toàn dân. Khi đất nước lâm nguy, Gióng đã có sự trưởng thành vượt bậc để đảm đương trách nhiệm trước lịch sử, trước nhân dân.

“Ôi VN xứ sở lạ lùng

Đến em thơ cũng hoá những anh hùng

Đến ong mật cũng trở thành chiến sĩ

Và hoa trái cũng biến thành vũ khí…” (Tố Hữu)

Điều kì lạ thứ tư là cách đánh giặc rất phi thường của Gióng. Chỉ cần Gióng vỗ vào mông ngựa, là ngựa sắt hí dài mấy tiếng vang dội sẵn sàng xông trận. Khi Gióng mặc giáp, cầm roi sắt, nhảy lên mình ngựa, ngựa lập tức phun lửa, và Gióng chỉ cần thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác. Cách đánh của Gióng dũng mãnh, vũ khí của Gióng hiện đại, tối tân (giáp sắt, roi sắt, ngựa sắt phun lửa) khiến bọn giặc không kịp trở tay, phải chết như ngả rạ.

Đột nhiên, roi sắt gẫy, Gióng bèn nhổ những cụm tre bên đường quật vào giặc, khiến lũ giặc phải tan vỡ, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn. Điều này cho thấy, để chiến thắng, Gióng đã rất linh hoạt trong việc khắc phục những sự cố bất ngờ, quyết liệt phối hợp sử dụng cả vũ khí hiện đại và vũ khí thô sơ, tự tạo để chiến đấu và chiến thắng.

Điều kì lạ thứ năm là khi giặc đã tan, Gióng đã một mình một ngựa lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời. Đây là cách bất tử hoá hình tượng người anh hùng. Gióng được nhân dân yêu mến, trân trọng nên sinh ra đã phi thường, khi ra đi cũng phi thường. Gióng phải được về cõi vô biên, trở thành bất tử như các vị thần linh, sống mãi trong sự tưởng nhớ và tôn kính của cộng đồng.

Mặt khác, đây là chi tiết đề cao người anh hùng “cứu dân độ thế, thay trời hành đạo”. Vì dân vì nước, người anh hùng đó ra sức đánh đuổi quân thù, nhưng khi đánh giặc xong không trở về để đòi hỏi công danh, lợi lộc, chỉ để lại dấu tích của chiến công cho quê hương xứ sở. Hình tượng Gióng đựơc kì vĩ hoá, thiêng liêng hoá.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm

Ngày xưa, Rùa có một cái mai láng bóng. Trên mai không có những vết rạch ngang dọc như ta thấy ngày nay. Rùa rất tự hào về cái mai của mình. Mỗi buổi sớm, Rùa đem mai ra phơi nắng. Ánh nắng trên mai Rùa sáng rực, làm cái mai như toả ánh hào quang.

Tính Rùa thích đi đây đi đó ngắm xem phong cảnh tươi đẹp của đất nước:

- Sống có nghĩa là đi. Một ngày không đi là một ngày bỏ phí. Phải đi như ngọn gió kia, đi mãi, đi mãi. Đi nhiều càng tốt. Đi nhiều mới xem hết những vẻ đẹp trong thiên hạ. Đi nhiều mới thấy hết được những đổi mới của đất nước.

Nhưng Rùa phải cái tính hay ngại. Mùa đông, Rùa ngại cái rét. Cái rét nép trong bờ bụi cứ thổi vù vù làm buốt đến tận xương. Phải đợi đến mùa xuân. Mùa xuân nhiều hoa. Đi trên một con đường rải đầy hoa thơm cũng thú vị. Nhưng mùa xuân vẫn là đứa em của mùa đông, vì mưa phùn vẫn cứ lai rai, và gió bấc vẫn cứ thút thít ở các khe núi. Phải đợi đến mùa hè. Mùa hè tạnh ráo. Cây cối có nhiều quả chín thơm tho. Nhưng cái nóng cứ hầm hập. Cả ngày bụi cuốn mịt mùng. Hễ có cơn giông thì đất đá như sôi lên, nước lũ đổ ào ào. Phải đợi đến mùa thu. Quả thật đến mùa thu, Rùa mới cảm thấy rõ rệt mình đang cần một chân trời và một khoảng rộng. Nhìn ra, mây đùn tan biến. Đồi núi trải ra như đàn rùa bò lóp ngóp. Và xa, rất xa, trên ngọn một quả núi cao, một lâu đài hiện ra như một hòn ngọc. Có người bảo đó là lâu đài của Rùa vàng. Rùa lẩm bẩm:

- Ừ! Ta phải đến xem cho biết! Rùa vàng chắc còn giữ cái nỏ bắn một phát giết nghìn giặc của cụ tổ. Chưa đến thăm lâu đài của Rùa vàng thì đến lúc chết ta khó nhắm mắt.

Rùa ra đi. Ngày đầu Rùa chạy, như có ai đẩy sau lưng. Ngày thứ hai, Rùa chạy chậm. Ngày thứ ba, Rùa đi. Ngày thứ tư, đi chậm. Ngày thứ năm, Rùa lê từng bước. Cái gì đẩy sau lưng đã biến mất. Con đường hoá gồ ghề. Rùa bước chậm dần… chậm dần rồi… dừng lại!

- Ô kìa! Có ai đó không? Có phải ta đã dừng lại không? Ta mệt rồi! Ta phải nhờ một người khác đi hộ ta. Có thể một con chim Đại Bàng sẽ bay tới. Nó sẽ mời ta: “Mời ngài hãy tạm lên đôi cánh của tôi. Tôi vô cùng sung sướng được đưa ngài đến nơi ngài thích!”. Nhưng ta cũng phải để Đại Bàng nó khẩn khoản năm lần bảy lượt, ta mới chịu ngồi lên lưng nó.

Ngày ngày Rùa nhìn khắp bốn phương. Mịt mù chẳng thấy tăm hơi Đại Bàng đâu cả! Chỉ thấy bên triền núi một chú ngựa chạy nhong nhong.

- Này anh ngựa kia! Chim Đại Bàng đã đến chưa?

Ngựa dừng lại ngạc nhiên:

- Từ khi lọt lòng mẹ, tôi chưa hề nghe tên một con chim kì lạ như thế!

- Nếu vậy, ai đi thế cho ta?

- Cái đó tôi không biết. Nhưng nếu bác đã mỏi chân, thì mời bác cứ lên lưng tôi, tôi chở một chặng…

- Lên lưng…! Ồ!... Ta muốn hỏi: Lưng có phải là chỗ chạy nhanh nhất không? Ta không muốn chậm trễ.

- Chỗ chạy nhanh nhất của tôi là bốn vó.

- Ta phải ngồi vào chỗ đó.

Ngựa đưa ra một chân. Rùa bò lên. Ngựa nhắc Rùa phải bíu vào thật chặt.

Lộp cộp! Lộp cộp! Gió thổi vù vù hai bên tai Rùa. Cây hai bên đường lao về phía sau vun vút. Lá cây cào trên mai Rùa. Một cành cây quật vào đầu Rùa đau điếng. Rùa kêu:

- Ôi! Chậm lại! Chậm lại!

Nhưng cơn lốc càng to. Chợt: Rầm! Đất trời như tối kịt lại. Rùa văng ra xa, chết ngất.

Rùa dần dần tỉnh lại, khắp người như có hàng vạn kim đâm. Rùa mở mắt. Thật quá rùng rợn! Ràu đang nằm giữa vũng máu, và cái mai bị vỡ ra nhiều mảnh!

Cũng may, những mảnh vỡ sau đó lành lại. Nhưng những vết sẹo ngang dọc trên mai vẫn còn trông thấy. Cũng rất may, từ đó Rùa rút ra được bài học tốt. Rùa đã quyết rèn luyện cho mình có được tính kiên nhẫn luyện tập thành công và đã thắng trong cuộc thi với Thỏ. Riêng về chuyện cái mai, mời các bạn hãy xem thật kĩ một con Rùa để biết chuyện tôi kể là có thật.

Viết bài văn cảm nhân về chú rùa ....

Ai dúp với

7 lượt xem
1 đáp án
13 giờ trước