năm 1010, hoàng đế lý thái tổ đã cho xây tòa chính điện càn nguyên của kinh đô Thăng Long trên điểm cao nào?

2 câu trả lời

Câu trả lời là Núi Nùng.

Hoàng đế Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) đã cho xây Tòa chính điện Càn nguyên cùng nhiều cung và điện khác ở Núi Nùng nay là vùng đất thuộc di tích lịch sử Hoàng thành Hà Nội, mà trung tâm nằm kế cận với Quảng trường Ba Đình hiện nay.

Tài liệu lịch sử ghi lại rằng “Lý Công Uẩn lên ngôi vua, sáng lập vương triều Lý (1009 - 1225) tại kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) ngày 2-11 Kỷ Dậu (21 – 11 - 1009). Tháng 7 mùa thu năm 1010, nhà vua dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên là Thăng Long. Ngay trong mùa thu năm đó, nhà Lý đã khẩn trương xây dựng một số cung điện làm nơi ở và làm việc của vua, triều đình và hoàng gia. Trung tâm là điện Càn Nguyên, nơi thiết triều của nhà vua, hai bên có điện Tập Hiền và Giảng Võ, phía sau là điện Long An, Long Thụy làm nơi vua nghỉ. Đến cuối năm 1010, 8 điện 3 cung đã hoàn thành. Những năm sau, một số cung điện và chùa tháp được xây dựng thêm. Một vòng thành bao quanh các cung điện cũng được xây đắp trong năm đầu, gọi là Long Thành hay Phượng Thành. Đó chính là Hoàng Thành theo cách gọi phổ biến về sau này. Thành đắp bằng đất, phía ngoài có hào, mở 4 cửa: Tường Phù ở phía đông, Quảng Phúc ở phía tây, Đại Hưng ở phía nam, Diệu Đức ở phía bắc. Cửa Quảng Phúc mở ra phía chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) và chợ Tây Nhai (chợ Ngọc Hà). Cửa Đại Hưng ở khoảng gần Cửa Nam hiện nay. Cửa Diệu Đức nhìn ra trước sông Tô Lịch, khoảng đường Phan Đình Phùng hiện nay. Trong Long Thành có một khu vực được đặc biệt bảo vệ gọi là Cấm Thành là nơi ở và nghỉ ngơi của vua và hoàng gia. Long Thành và Cấm Thành là trung tâm chính trị của Kinh Thành. Phía ngoài, cùng với một số cung điện và chùa tháp là khu vực cư trú, buôn bán, làm ăn của dân chúng gồm các bến chợ, phố phường và thôn trại nông nghiệp. Một vòng thành bao bọc toàn bộ khu vực này bắt đầu được xây đắp từ năm 1014, gọi là thành Đại La hay La Thành”.

Công trình khai quật khảo cổ học từ tháng 12/2002 đến nay, triển khai trên diện tích rộng hơn 19.000 m2 ở vùng gần Quảng trường Ba Đình Hà Nội hiện tại, đã phát lộ một phức hệ di tích – di vật rất phong phú và đa dạng của thành Đại La (thế kỷ VII - IX) đến thành Thăng Long (thế kỷ Xl -XVIII),… . Trong số này, có cả nền của một trong số các cung điện nói trên (ví dụ nền một cung điện gập ở Hố khai quật A20).

#đây ạ chúc bạn thi tốt

Chính điện Càn Nguyên, với ý nghĩa của tên gọi này là: Khởi nguồn của muôn vật, là công trình kiến trúc cung đình trung tâm, được xây dựng đầu tiên trên ngọn núi Nùng. Vua Lý Thái Tổ -người khai sinh Kinh đô Thăng Long, cũng là người cho xây dựng toà chính điện này vào tháng 7 (âm lịch) năm 1010. Càn Nguyên chỉ có thời gian tồn tại, vận hành, trùng với thời gian trị vì của vua Lý Thái Tổ, kết thúc vào năm 1028. Sang đến thời vua kế vị thì được thay thế bằng toà chính điện khác Thiên An (sự yên ổn từ trời, trời cho yên ổn) là toà chính điện, nguyên vị và tại vị của Càn Nguyên mà thay thế nó, do vua Lý Thái Tông nhắm lại phương hướng và đặc biệt là mở rộng qui mô như lời chính sử cổ truyền ghi chép mà cho xây dựng vào tháng 6 (âm lịch) năm 1029. Vẫn ở trên núi Nùng mà trông xuống Long trì (thềm rồng, sân rồng) ở phía dưới, trước mặt, hướng nam, Thiên An tồn tại và vận hành sứ mạng của một toà chính điện suốt qua hai triều đại Lý - Trần, và chỉ chịu mất vị thế khi vào năm 1397, Hồ Quý Ly cho xây toà thành Tây Đô và bị phá huỷ, trong thời gian quân xâm lược nhà Minh tậm chiếm (1407 -1427).
Kính Thiên (thờ trời, kính vâng mệnh trời) là toà chính điện thứ ba được xây dựng trên núi Nùng để thay thế các toà chính điện Thiên An và Càn Nguyên trước đó. Vua Lê Thái Tổ sau khởi nghĩa chống Minh thắng lợi và lên ngôi hoàng đế đã cho xây dựng điện Kính Thiên vào tháng 12 (âm lịch) năm 1428. 

Học tốt!!!

@Try to study well for the future

Câu hỏi trong lớp Xem thêm
2 lượt xem
2 đáp án
1 giờ trước

Đọc ngữ liệu và trả lời các câu hỏi bên dưới: Ngày xưa có một người tên là Yết Kiêu ở làng Hạ Bì làm nghề đánh cá. Một hôm, ông ta đi dọc theo bờ biển về làng bỗng thấy trên bãi có hai con trâu đang ghì sừng húc nhau dưới bóng trăng khuya. Sẵn đòn ống, ông cầm xông lại phang mạnh mấy cái vào mình chúng nó. Tự dưng hai con trâu chạy xuống biển rồi biến mất. Ông rất kinh ngạc đoán biết là trâu thần. Khi nhìn lại đòn ống thì thấy có mấy cái lông trâu dính vào đấy. Ông mừng quá bỏ vào miệng nuốt đi. Từ đó sức khỏe của Yết Kiêu vượt hẳn mọi người, không một ai dám đương địch. Đặc biệt là có tài lội nước. Mỗi lần ông lặn xuống biển bắt cá, người ta cứ tưởng như ông đi trên đất liền. Nhiều khi ông sống ở dưới nước luôn sáu bảy ngày mới lên. Hồi ấy có quân giặc ở nước ngoài sang cướp nước ta. Chúng cho một trăm chiếc tàu lớn tiến vào cửa biển Vạn Ninh vây bọc, bắt tất cả thuyền bè, đốt phá chài lưới. Đi đến đâu, chúng cướp của giết người gây tang tóc khắp mọi vùng duyên hải. Chiến thuyền nhà vua ra đối địch bị giặc đánh đắm mất cả. Nhà vua rất lo sợ, sai rao trong thiên hạ ai có cách gì lui được giặc dữ sẽ phong cho quyền cao chức trọng. Yết Kiêu bèn tìm đến tâu vua rằng: - Tôi tuy tài hèn sức yếu nhưng cũng quyết cho lũ chúng nó vào bụng cá. Vua hỏi: - Nhà người cần bao nhiêu người? Bao nhiêu thuyền bè? - Tâu bệ hạ - Ông đáp – Chỉ một mình tôi cũng có thể đương được với chúng nó. Nhà vua mừng lắm, liền phong cho ông làm Đô thống cầm thủy quân đánh giặc. Ông đến Vạn Ninh cho quân sĩ nghỉ ngơi, chỉ bảo họ sắm cho mình một cái khoan, một cái búa. Đoạn, một mình ông lặn xuống đáy biển đi ra chỗ tàu giặc. Ông tìm đến đáy tàu vừa khoan, vừa đục. Ông làm rất lẹ và im lặng, tàu giặc cứ đắm hết chiếc này đến chiếc khác. Trong một hôm, chúng bị đắm luôn một lúc hơn hai mươi chiếc. Thấy thế, quân giặc hoảng loạn cả lên. […] (Trích Yết Kiêu, theo Kho tàng Truyện cổ tích Việt Nam, tập một, Nguyễn Đổng Chi, NXB Giáo dục, 2000, tr.541) Câu 1. Chỉ ra những chi tiết kì ảo có trong ngữ liệu trên. Theo em, các chi tiết đó có ý nghĩa như thế nào? Câu 2. Yết Kiêu đã lập nên chiến công gì? Chiến công đó có ý nghĩa như thế nào với nhân dân, đất nước? Câu 3. Xác định từ láy trong câu văn sau và cho biết từ láy đó gợi ra hoàn cảnh của nhân dân như thế nào? “Đi đến đâu, chúng cướp của giết người gây tang tóc khắp mọi vùng duyên hải”. Câu 4. “Chúng cho một trăm chiếc tàu lớn tiến vào cửa biển Vạn Ninh vây bọc, bắt tất cả thuyền bè, đốt phá chài lưới” a. Xác định các cụm động từ trong câu trên. b. Cho biết các dấu phẩy trong câu trên có công dụng gì? Câu 5. Qua ngữ liệu trên, em hãy viết đoạn văn (khoảng 5-7 câu) nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Yết Kiêu.

2 lượt xem
1 đáp án
1 giờ trước