HÃY KỂ LẠI TÂM TRẠNG CỦA ÔNG HAI KHI NGHE TIN LÀNG CHỢ DẦU THEO TÂY? (ĐOẠN VĂN NGẮN NỬA TRANG GIẤY) BẰNG LỜI VĂN CỦA EM
1 câu trả lời
Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, ông sinh năm 1920 quê ở Bắc Ninh. Ông là nhà văn hiện thực sâu sắc của văn học Việt Nam, ông còn được mệnh danh là nhà văn nông thôn với nhiều tác phẩm viết về nông thôn xuất sắc. Tuy Kim Lân viết không nhiều nhưng tác phẩm nào cũng để lại ấn tượng rất tốt trong lòng độc giả. Ông được sinh ra ở nông thôn, là con đẻ của nông thôn nên ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của nông dân nghèo. Nhân vật của ông thường hiền hậu, chất phác và khao khát sự bình yên. Làng là một tác phẩm viết về đề tài nông thôn xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm sáng tác năm 1948 trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Trong đó, nhân vật chính là ông Hai, ông yêu cái Làng vô cùng vì thế khi Pháp đánh chiếm ông quyết định ở lại Làng làm du kích, đánh giặc dù tuổi đã cao.
Đối với mỗi con người trong chúng ta, ai cũng đều có quê hương và có một tình yêu quê hương tha thiết, nồng nàn nhưng ở mức độ khác nhau. Có người yêu đến nỗi không thể rời xa, có người tuy yêu nhưng vẫn có thể đi nơi khác để tìm kế sinh nhai, phát triển. Dù là tình yêu ở mức độ nào cũng đều đáng được trân trọng. Còn ông Hai, ông chính là người nông dân hiền lành chất phác có một tình yêu Làng tha thiết không thể rời xa.
Ông yêu Làng là thế nhưng vì vợ con, ông buộc phải theo vợ con đi nơi tản cư. Ở đây lúc nào ông cũng nghe ngóng về tin Làng, về kháng chiến. Ông thường qua nhà ông Thức trọ ở bên để tâm sự về kháng chiến, nghe ngóng tin. Và mỗi lần kể về Làng ông đều háo hức, hạnh phúc vô cùng. Cho đến khi ông nghe tin làng chợ Dầu theo giặc làm việt gian thì ông sững sờ, nỗi bất hạnh lớn nhất đã sụp xuống đầu ông, ông tưởng như không thể thở được.
Tác giả đã đặt ông vào một tình huống vô cùng éo le để có một sự chuyển biến tâm trạng. Ông yêu làng như thế vậy mà làng lại theo Tây? Trong tình huống này tâm trạng ông có một sự giằng xé đau đớn, còn yêu và tin làng nữa không hay từ bỏ?
Hàng ngày, ông vẫn luận về chính trị, về kháng chiến, và không quên khoe, tự hào về làng. Vậy mà hôm nay ông nghe tin làng theo Tây. Tin dữ đến bất ngờ khiến ông choáng ngợp: “Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ”.
Từ khi nghe cái tin ấy, ông Hai chỉ cổ cái tin dữ ấy xâm chiếm. Nó ám ảnh day dứt đến nỗi ông nghe đâu cũng sợ người ta nói về mình, chỉ nghe tiếng chửi bọn Việt Gian ông đã cúi gằm mặt đi, không dám ngẩng lên. Về nhà thì ông nằm vật ra, ông tủi thân, ông thương cho mình, cho gia đình, nước mắt trào ra vì nghĩ “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra… Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư”
Niềm tự hào về Làng dường như sụp đổ. Làng chính là sĩ diện, là tình yêu của ông. Ông khoe làng với mọi người trong niềm tự hào vậy mà giờ Làng theo tây thì ông còn mặt mũi nào mà gặp ai, ông xấu hổ đến nỗi không dám ra ngoài, thấy một đám đông tụ tập ông cũng chột dạ. Lúc nào cũng lo người ta đang nói ông, nói đến cái chuyện làng theo tây mà thôi.
Trong gia đình ông cũng căng thẳng vì chuyện ấy, không ai nói với ai điều gì. Tâm trạng ông giằng xé đau đớn, ông liệt kê lại từng người, ông vẫn cố gắng níu kéo làng không theo tây, toàn người có tinh thần cả mà, làm sao teo tây được. Nhưng giờ có cái tin ấy thì ông biết phải làm sao, không có lửa sao có khói “Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa.”
Tác giả đã tả cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai, cùng với nỗi tủi hổ đau xót khi nghe tin làng theo giặc. Hễ đâu có đám đông là ông sợ. Ông không dám nhìn mặt ai, lúc nào đi cũng cúi mặt rất khác với ông mọi khi. Ông ở trong nhà mấy ngày liền không qua nhà ông Thức vì xấu hổ. Đã ba bốn hôm nay, ông Hai không bước chân ra đến ngoài, cả đến bên bác Thứ ông cũng không dám sang. Suốt ngày ông chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng. Nghe ngóng xem binh tình bên ngoài ra sao? Một đám đông xúm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”.
Nhìn kĩ, ta sẽ thấy ông Hai yêu làng quê và tinh thần yêu nước của ông có một sự xung đột. Trước đây ông yêu làng bằng tình cảm cố hữu mà bất kì người nông dân nào cũng thế. Khi có kháng chiến, ông cùng mọi người đào hầm, đắp ụ, còn không muốn đi tản cư vì muốn ở lại bảo vệ làng, tham gia kháng chiến. Nghĩa là khi ấy ông chưa ý thức được việc bảo vệ đất nước, ông chỉ nghĩ đến tình yêu với làng mà thôi. Mọi hành động của ông là đều để bảo vệ làng.
Tuy nhiên, khi đọc kĩ và khi thấy những tâm trạng giằng xé trong ông nghe tin làng theo Tây ông lo lắng vô cùng, ông giằng xé đau khổ ta mới thấy ông yêu Làng và quan trọng hơn là ông yêu cái tinh thần kháng chiến của Làng. Đó mới là giá trị thực mà ông yêu quý và giữ gìn. Thế nên, khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc ông đã chết lặng người. Khi Làng theo giặc thì vẻ đẹp của làng vẫn còn nhưng vẻ đẹp kháng chiến thì không còn nữa. Và lúc này đây ông mới thấy tủi nhục, xót xa vì cái vẻ đẹp kháng chiến mất đi.
Nhất là sau khi ông tự dằn vặt mình “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ… Nước mắt ông giàn ra, về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây” . Đây mới chính là tình yêu là tinh thần của ông. Thì ra ông yêu Làng tha thiết ngoài cái tình yêu cố hữu thì đó chính là tinh thần kháng chiến, vì cụ Hồ. Vì làng có những con người có tinh thần kháng chiến, chống giặc nên ông càng yêu, càng nhớ làng, nhớ những công việc làm kháng chiến, đắp ụ, xây hầm.. Một người đã yêu làng như thế mà kiên quyết không về làng vì làng theo tây “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.”
Tình yêu đất nước, tinh thần kháng chiến của ông đã cao hơn cả tình yêu Làng. Làng theo Tây phải thù. Làng mà trước kia ông yêu tha thiết, lúc nào cũng muốn trở về vậy mà vì tin dữ ấy mà ông thù làng, ông quyết không về, về để làm nô lệ à?
Tình cảm của ông khi bị tin dữ ấy đến càng như bị thách thức. Nhất là khi mụ chủ nhà biết chuyện ngỏ ý muốn đuổi khéo gia đình ông đi. Nhưng đi đâu đây, đi đâu người ta cũng không muốn chứa chấp cái làng Việt Gian. Ông đã thoáng hay trở về Làng nhưng tâm trạng lại giày vò, dằng xé trong ông vì làng theo tây rồi không thể trở về. Tình cảm đó mới đáng trân trọng làm sao. Một người ngần này tuổi như ông mà đau đớn, nước mắt chảy vì danh dự của mình và danh dự của làng. Làng chính là danh dự của ông. Làng đánh mất danh dự rồi ông còn dám nhìn ai.
Đó cũng là suy nghĩ thường tình khi Làng chính là quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn. Con người ta có ai cũng có một quê hương để trở về, một nơi để nương tựa. Trong hoàn cảnh này ông Hai đáng thương biết bao nhiêu. Giờ đây đến quê hương cũng không thể trở về.
“Làng đã theo Tây, về làng nghĩa là rời bỏ Kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ” thì ra, ông nghĩ đến cụ Hồ, nghĩ đến kháng chiến nhiều hơn nghĩ cho bản thân mình. Nhưng bản thân không có gì thì sao lo cho đất nước đây. Tâm trạng ông được đặt trong một sự bế tắc thực sự, giữa đi và ở, giữa tình yêu cố hữu và tình yêu quê hương đất nước, tình yêu kháng chiến, ông đã chọn kháng chiến. Nhưng ông phải đi đâu làm gì đây khi đã có mác là người ở làng Việt gian. Ông không biết tâm sự cùng ai, may có thằng bé con con ông, nó nói nó vẫn muốn trở về làng nhưng nó yêu kháng chiến, nó ủng hộ cụ Hồ. Nó nói đúng tâm trạng của ông, phải ủng hộ cụ Hồ “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai”.
Cuối cùng, vài ngày sau có một đồng chí cán bộ đến tận nhà ông báo, đó chỉ là tin giả, làng của ông không phải việt gian, không theo Tây. Dường như mọi đau khổ, giằng xé bây giờ mới được giải tỏa. Ông hạnh phúc, ông hãnh diện vì Làng, cái mặt buồn thiu mọi ngày nay bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên. Vậy là sợi dây buộc trong lòng ông nay đã được gỡ nút. Ông vội vàng đi nói với mọi người tin giả này. Ông nói nhà ông bị Tây đốt sạch rồi mà vui như mở hội. Có lẽ tình yêu làng , tình yêu kháng chiến yêu quê hương đất nước, yêu cụ Hồ lớn hơn cả vật chất, ông không sợ gì chỉ sợ người ta không tin ông theo kháng chiến, chỉ sợ người ta nói ông và làng ông là làng Việt Gian.
“Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết… Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi là Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.
Qua đây ta càng hiểu rằng, ông Hai yêu Làng chính là yêu cái Làng kháng chiến, yêu những con người đồng lòng theo cách mạng chứ không phải yêu cái giàu, cái đẹp bề ngoài của ngôi làng mà ông hay khoe. Vậy nên khi Làng bị đốt sạch, đốt nhẵn, ngay nhà ông cũng bị đốt ông vẫn thấy vui và hạnh phúc vô cùng.
Truyện ngắn đã khắc họa thành công nhân vật ông Hai, một người yêu làng, yêu kháng chiến và yêu nước tha thiết. Đặc biệt nhân vật bị đẩy vào tình huống gay cấn càng bộ lộ rõ tình yêu nước nồng nàn. Với nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, độc thoại, đậm chất nông thôn nhưng hết sức gợi cảm, nhiều cảm xúc đã thể hiện lên bức chân dung sống động đẹp đẽ của người nông dân thời kì đầu kháng chiến.
Diễn biến tâm trạng ông Hai - Mẫu 2
Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là một tác phẩm đặc sắc thể hiện tình yêu của người nông dân đối với quê hương, đất nước mình trong kháng chiến chống Pháp một cách cảm động. Làm nên thành công của tác phẩm không thể không nhắc đến nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn. Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai trong tác phẩm khi nghe tin làng Dầu của mình theo giặc được thể hiện một cách sinh động đã thể hiện điều đó.
"Làng” ra đời năm 1948. Tác phẩm lấy bối cảnh là cuộc tản cư kháng chiến của nhân dân. Ông Hai là nhân vật chính của tác phẩm, có lẽ phần vì tuổi cao, phần vì chân ông vẫn bị thương “đi tập tễnh” nên ông được vận động tản cư kháng chiến cùng gia đình. Nhưng trong thâm tâm, ông rất muốn ở lại làng để cùng anh em chiến đấu. Và chính ở nơi tản cư, ông đã bộc lộ sâu sắc tình yêu cái làng của mình.
Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Ngày ngày, ông sang nhà hàng xóm chơi hoặc đi nghe tin, đi nói chuyện,... Đến đâu ông cũng khoe về cái làng của mình. Trước Cách mạng tháng Tám, ông khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông: "Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi.". Và mặc dù chẳng họ hàng gì nhưng ông cứ gọi viên tổng đốc là "cụ tôi" một cách rất hả hê! Sau Cách mạng, "người ta không còn thấy ông đả động gì đến cái lăng ấy nữa", vì ông nhận thức được nó làm khổ mình, làm khổ mọi người, là kẻ thù của cả làng: Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó. [...] Cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy". Bây giờ ông khoe làng ông khởi nghĩa, khoe ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn trong bóng tối", rồi những buổi tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông,... Cũng vì yêu làng quá như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra hay bực bội, "ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm". Ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày làm việc cùng với anh em: "Sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra.[…] Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên.". Lúc này, niềm vui của ông chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng Chợ Dầu của ông đánh Tây.
Thế mà, đùng một cái ông nghe được cái tin làng Chợ Dầu của ông theo Tây làm Việt gian. Càng yêu làng, hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.
Ông lão đang náo nức, "ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá! vì những tin kháng chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng người: "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, dường như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ [...] giọng lạc hẳn đi", "Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão như vừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm.
Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc động: "Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra... Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu...". Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở. "Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước...”. Cả nhà ông Hai sống trong bầu không khí ảm đạm: "Gian nhà lặng đi, hiu hắt, ánh lửa vàng nhờ nhờ, ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà." Ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là "chuyện ấy".
Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, "không dám bước chân ra đến ngoài" vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là người của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng. Ông Hai phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất: Thật là tuyệt đường sinh sống! [...] đâu đâu có người Chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách của Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu".
Từ chỗ yêu tha thiết cái làng cùa mình, ông Hai đâm ra thù làng: "Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ…Và "Nước mắt ông giàn ra". Ông lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. Bao nỗi niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứa con thơ dại:
Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?
Là con thầy mấy lị con u.
Thế nhà con ở đâu?
Nhà ta ở làng Chợ Dầu.
Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
Có.
Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:
À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.
Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy danh dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một lòng với kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ như minh oan cho ông, chân thành và thiêng liêng như lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông:
Anh em đồng chí biết cho bố con ông
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.
Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong người nông dân chân lấm tay bùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích nói về làng bất kể người nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điểm tâm lí vì cộng đồng, vui cái vui của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những diễn biến của trạng thái tâm lí hết sức đặc trưng của một người nông dân tủi nhục, đau đớn vì cái tin làng mình phản bội. Nếu như trong biến cố ấy tâm trạng của ông Hai đau đớn, tủi cực bao nhiêu thì khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng Chợ Dầu của ông không hề theo giặc, sự vui sướng càng tưng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ông Hai như người vừa được hồi sinh. Một lần nữa, những thay đổi của trạng thái tâm lí lại được khắc họa sinh động, tài tình: "Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lèn. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy...". Ông khoe khắp nơi: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! [...] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.", "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn.[...] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!". Đáng lẽ ra ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đang tràn ngập trong niềm vui vì thoát khỏi cái ách người làng Việt gian”. Cái tin ấy xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại được sống như một người yêu nước, lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của mình, ... Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này cũng là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Người đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình như thế. Mặt khác, cũng như các nhân vật quần chúng (chị cho con bú loan tin làng Chợ Dầu theo giặc), bà chủ nhà, ... cái khó quên ở nhân vật này còn là nét cá thể hoá rất đậm về ngôn ngữ. Lúc ông hai nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểm ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ: "Nắng này là bỏ mẹ chúng nó", "không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy", "thì vẫn”, "có bao giờ dám đơn sai", ... Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá hưng phấn của ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngôn ngữ của người nông dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng từ ngữ chưa hiểu hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phần nào cũng nhờ vào đặc điểm ngôn ngữ này.
Xây dựng thành công diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai là thành công lớn nhất của truyện ngắn Làng. Điều đó đã thể hiện được tài năng của nhà văn Kim Lân trong việc khám phá chiều sâu tâm lí nhân vật. Và hơn hết, điểu đó đã xây dựng trong lòng độc giả một chân dung sống động, chân thực về một tấm lòng yêu quê hương, đất nước thiết tha cảm động của người nông dân Việt Nam chất phác, thật thà.