Giới thiệu về một danh nhân đất Việt Giúp mình với mình đang cần gấp mai mình thi rồi

2 câu trả lời

Bạn Tham Khảo

Mình viết về Nguyễn Trãi nhé!

Bài làm

Nguyễn Trãi (1380-1442) là nhà chính trị nổi tiếng. Ông đỗ Thái học sinh và ra làm quan dưới thời Hồ. Tuy gia thế hiển hách- mẹ là con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, cha là Nguyễn Ứng Long cũng làm quan lớn dưới triều nhà Trần nhưng Nguyễn Trãi sớm chịu nhừng mất mát đau thương: tang mẹ lúc 5 tuổi, sau đó ông ngoại qua đời khi Nguyễn Trãi mới 10 tuổi. Sau khi đỗ Thái học sinh, ông cùng cha ra làm quan dưới triều nhà Hồ.

Năm 1407, giặc Minh xâm chiếm nước ta, cha ông bi bắt sang TQ, Nguyễn Trãi trốn thoát về đầu quân cho Lê Lợi. Tùy là người trung thành nhưng vì “ nợ nước, thù nhà” ông đành làm kẻ phản chủ. Dưới sự giúp đỡ của Nguyễn Trãi, quân Lam Sơn giành được thắng lợi. Ông hăm hở giúp vua việc nước nhưng bị gian thần ghen ghét, bị nghi ngờ, không được tin dùng nhiều. Năm 1439, NGuyễn Trãi xin về ở ẩn, nhưng đến 1440, vua trẻ Lê Thái Tông lại mời ông ra giúp nước. Năm 1442, nhà vua đi duyệt võ ở Chí Linh, có ghé thăm Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, rồi đột ngột băng hà ở Lệ Chi Viên. Nguyễn Trãi bị gian thần vu cho tội giết vua và bị xử án tru di tam tộc.

Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi, tìm con cháu, sưu tầm lại thơ văn của ông và khẳng định nhân cách, tấm lòng, tâm hồn lớn của Nguyễn Trãi với câu nói nổi tiếng “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”.

Nguyễn Trãi còn là một nhà văn, nhà thơ tài ba. Ông là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học cả ở lĩnh vực chữ Hán và chữ Nôm . Ông để lại một khối lượng sáng tác lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Đó là “Đại cáo bình Ngô”, “Quân trung từ mệnh tập”, “Lam Sơn thực lục”, “Ức Trai thi tập”, “Quốc âm thi tập”,…

Nguyễn trãi- nhà văn chính luận kiệt xuất. Với tác phẩm “ Bình Ngô Đại Cáo” được coi là bản tiên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Các tác phẩm chính luận của Nguyễn Trãi có luận điểm vững chắc, lập luận sắc bén, giọng điệu linh hoạt. Trong đó luận điểm cơ bản cốt lõi là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân. Văn chính luận của Nguyễn Trãi đạt tới trình độ nghệ thuật mẫu mực từ việc xác định đối tượng, mục đích để sử dụng bút pháp thích hợp đến kết cấu chật chẽ, lập luân sắc bén.

Ông còn là nhà thơ trữ tình sâu sắc. Thơ ông bộc lộ tâm hồn, con người ông từ khía cạnh bình thường, trần thế hòa quyện với con người anh hùng vĩ đại. Đọc thơ Nguyễn Trãi, ta thấy những nỗi ưu tư trăn trở về dân về nước, thấy được khí tiết thanh cao, lòng yêu thiên nhiên cây cỏ của ông.

Nguyễn Trãi được coi là một thiên tài văn học, văn chương của ông hội tụ hai nguồn cảm hứng lớn của văn học dân tộc là yêu nước và nhân đạo. Ông đem đến cho nền văn học dân tộc thơ Đường luật viết bằng chữ Nôm, gốm phần làm cho tiếng Việt trở thành ngôn ngữ văn học giàu va đẹp. Năm 1980,Nguyễn Trãi được tổ chức Giáo dục , Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.

_chúc bạn học tốt_

@born to the boss

Vĩ Hiên Công Nguyễn Quỳnh - một danh sĩ Bắc Hà

Vĩ Hiên Công Nguyễn Quỳnh, hiệu Ôn Như, quê làng Bột Thượng, nay thuộc xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông sinh ngày 1 tháng 10 năm Đinh Tỵ, niên hiệu Vĩnh Trị thứ 2 (1677), xuất thân trong một gia đình Nho học. Ông nội đỗ Sinh đồ, chuyên nghề dạy học; cha làm giám sinh. Từ nhỏ, cụ Quỳnh đã theo ông nội học hành, 19 tuổi (có tài liệu là 20 tuổi) đỗ Giải nguyên, thi Hội nhiều lần nhưng đều trượt. Năm 41 tuổi, cụ Quỳnh đỗ Á nguyên khoa Sĩ Vọng. Cụ từng giữ chức Huấn đạo phủ Phụng Thiên, Tri phủ Thái Bình; sau về kinh đô làm Viên ngoại lang bộ Lễ, rồi chuyển sang chức Tu soạn Viện Hàn Lâm. Cụ mất ngày 28 tháng 1 năm Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748), thọ 71 tuổi.

Cuộc đời thực của cụ Cống Quỳnh, thế hệ cháu con hôm nay chỉ biết được qua gia phả do Giáo sư Hà Văn Tấn dịch từ nguyên bản chữ Hán. Từ những chi tiết, sự việc được ghi lại trong gia phả, tài năng, nhân cách cụ Cống Quỳnh được khái quát: Đó là một con người rất thông minh, tài học phát lộ từ sớm. Mười bốn tuổi đã “năng văn”. Chỉ trong một năm, cậu bé Quỳnh đã học thuộc cả ba bộ kinh Dịch, Lễ và Thư. Sau khi đỗ Giải nguyên, Nguyễn Quỳnh lại càng nổi tiếng. Các danh sĩ đương thời đều kết giao với ông. Bởi vậy, cụ Cống Quỳnh là một trong những danh sĩ Bắc Hà ở thế kỷ XVIII được người đời ca tụng: “Tuấn Cung, Tuấn Dị, thiên hạ hữu nghị/ Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nham, thiên hạ vô tam” (Tuấn Cung, Tuấn Dị, thiên hạ chỉ có hai người đó thôi; Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nham, thiên hạ không có người thứ ba như thế). Tài năng là thế nhưng “sinh ra không gặp thời” nên con đường làm quan của cụ Cống Quỳnh luôn đầy rẫy những gập ghềnh, khó khăn. Làm quan, cho dù là huấn đạo ở kinh đô, gia cảnh cụ vẫn thanh bần. Khi được bổ làm tri phủ, gia cảnh có phần khấm khá hơn nhưng đảm nhận chức vụ chưa được bao lâu, cụ Cống Quỳnh đã phải về Bộ Lễ, làm viên Ngoại lang, sau đó chuyển sang làm tu soạn Viện Hàn Lâm. Theo như gia phả thì chức tu soạn là chức quan cuối cùng trong cuộc đời cụ.

Nối tiếng “năng văn” nhưng thực sự đáng tiếc bởi cho đến thời điểm hiện tại, di cảo còn được lưu giữ lại của cụ Cống Quỳnh quá ít ỏi. Bằng tất cả tình yêu thương, niềm tự hào, trân trọng; với tất cả nỗ lực tìm tòi, sưu tầm, khảo luận, biên khảo, nhà văn Nguyễn Đức Hiền, Giáo sư Hà Văn Tấn đã giới thiệu đến công chúng một phần nào trang viết của cụ. Đó là sáu bài văn bằng chữ Hán được chép lại trong Gia phả chi Giáp – chi của Nguyễn Quỳnh trong dòng họ Nguyễn. “Hành nghĩa ký”, “Sơ ngu văn”, “Tư mẫu đường ký”, “Văn tế khóc em tên là Cầu”, “Tốt khốc văn”, “Trung nguyên văn”... đều là những bài văn tế, bài ký người thân đã mất của cụ Cống Quỳnh. Bằng những lời giản dị, không chút tô điểm, cụ Cống Quỳnh đã kể về những người thực việc thực, qua đó nói lên nỗi đau của mình khi vĩnh biệt người thân yêu. Ngoài 6 bài văn tế, ký này, GS. Hà Văn Tấn vui mừng giới thiệu hai bài phú của cụ được chép ngay đầu tập sách “Lịch triều danh phú” – tập sách chép các bài phú chữ Hán, phần lớn của các tiến sĩ đời Lê. Bài phú: “Kim bạch tài vật phú” nói về tòa phủ vua Tần xây ở Hàm Dương để chứa vàng lụa của cải. Với giọng văn mạnh mẽ, cụ đã đả kích sự tham lam vơ vét của các vua Tần. Cụ chỉ trích nhà Tần chỉ biết “thu góp của cải mà mê muội không biết cái gốc là thu góp dân” và chính vì vậy, cuối cùng bị thất bại. Bài phú “Tần cung phụ nữ” nói về thân phận những người cung nữ trong cung vua Tần. Đây có thể coi là mở đầu cho các bài văn lấy đề tài “cung oán” có tính chất nhân văn sâu sắc thường gặp ở nửa sau thế kỷ XVIII. Từ những cứ liệu nêu trên, GS. Hà Văn Tấn kết luận: “Tin rằng Nguyễn Quỳnh là một người giỏi văn Nôm, thích hài hước, tôi không hề có ý đồng nhất Hương cống Nguyễn Quỳnh với Trạng Quỳnh dân gian. Không ai ngây thơ làm như vậy. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng Cống Quỳnh hoàn toàn có đủ tư cách để trở thành khởi hình lịch sử của Trạng Quỳnh dân gian”.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm