chỉ rõ những điểm khác nhau về cơ cấu dân số théo giới, theo độ tuổi, và quá trình đô thị hóa giữa nhóm nước phát triển và nhóm nước đang phát triển? Vì sao hiện nay ở nhiều nước đang phát triển cần phaiỉ điều chỉnh quá trình đô thị hóa?
2 câu trả lời
4. Yếu tố tác động ban đầu tới mức sinh là kết hôn, quá trình đô thị hóa và tâm lý ưa thích con trai
• Phân tích cho thấy những yếu tố quan trọng nhất khiến
một số tỉnh và thành phố có mức sinh thấp (TFR thấp
hơn 1,8) trong những thập niên qua là do độ tuổi kết
hôn tăng lên, tỷ lệ kết hôn giảm, và quá trình đô thị hóa.
Phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng kéo theo quá
trình đô thị hóa là điều kiện thuận lợi cho giảm sinh. Tuy
nhiên, yếu tố văn hóa như thích con trai đóng vai trò
quan trọng quyết định mức sinh và tạo ra những khác
biệt về tỷ lệ sinh ở các tỉnh, vùng miền, và nhóm xã hội.
• Phân tích hồi quy cũng chỉ ra rằng phụ nữ đã sinh 2 con
gái có xác suất sinh con thứ ba cao hơn khoảng 2,5 lần
so với phụ nữ đã có con trai. Thậm chí với phụ nữ đã có
1 con trai và 1 con gái, xác suất sinh con thứ ba vẫn cao
hơn hẳn so với phụ nữ đã có 2 con trai. Tư tưởng thích
con trai không chỉ làm tỷ số giới tính khi sinh tăng mà
còn làm tăng TFR ở một số vùng miền và một số nhóm
xã hội ở Việt Nam.
KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
©UN Viet Nam/Aidan Dockery
QUỸ DÂN SỐ LIÊN HỢP QUỐC TẠI VIỆT NAM
Địa chỉ: Ngôi Nhà Xanh Liên Hợp Quốc (GOUNH), 304 Kim Mã, Quận Ba Đình, Hà Nội
ĐT: +84 4 38500 100 | Fax: +84 4 3726 5220 | Web: http://www.vietnam.unfpa.org
CÁC XU HƯỚNG, NHỮNG KHÁC BIỆT VÀ YẾU TỐ
TÁC ĐỘNG ĐẾN MỨC SINH Ở VIỆT NAM: BẰNG
CHỨNG TỪ CÁC CUỘC TỔNG ĐIỀU TRA DÂN SỐ VÀ
ĐIỀU TRA DÂN SỐ VÀ NHÀ Ở GIỮA KỲ NĂM 2014
Con số và Thực tế
• Mức sinh ở Việt Nam đang giảm dần
trong những thập kỷ gần đây và tương
đối ổn định ở gần mức sinh thay thế.
Tổng tỷ suất sinh (TFR) năm 2009 là
2,09.
• Tổng tỷ suất sinh (TFR) của khu vực
nông thôn giảm mạnh, từ 4,26 con/phụ
nữ vào năm 1989 xuống còn 2,03 vào
năm 2009, và 2,21 vào năm 2014.
• Số liệu từ cuộc Điều tra Dân số và Nhà
ở giữa kỳ năm 2014 tiếp tục khẳng định
phụ nữ có xu hướng kết hôn muộn hơn
và sinh con ít hơn.
• Số tỉnh và thành phố có TFR dưới 1,8
tăng từ 5 vào năm 1999 lên 8 vào năm
2009 và 11 vào năm 2014.
• Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi của phụ
nữ trong độ tuổi 15-19 (ASFR15) tăng từ
23,9‰ vào năm 2009 lên đến 30‰ vào
năm 2014.
Bản tóm tắt này cung cấp một số thông tin chính về những
thay đổi mức sinh ở Việt Nam dựa trên kết quả phân tích số
liệu mẫu từ các cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam
được thực hiện vào các năm 1989, 1999, 2009 và Điều tra
Dân số và Nhà ở giữa kỳ năm 2014. Bản thông tin tóm tắt này
cũng đưa ra một số khuyến nghị để xây dựng những chính
sách phù hợp với mức sinh ở Việt Nam.
Mức sinh là một trong những yếu tố chính ảnh hưởng đến
quy mô và tốc độ tăng dân số vì nó có tác động trực tiếp đến
tăng dân số tự nhiên. Thông tin về mức sinh, các xu hướng
và những khác biệt được theo các đặc điểm kinh tế-xã hội
của dân số chính là thông tin quan trọng cho các nhà hoạch
định chính sách và cán bộ quản lý chương trình trong việc xây
dựng, giám sát và đánh giá việc thực hiện các chính sách và
chương trình phát triển kinh tế-xã hội bao gồm cả chính sách
về dân số và sức khỏe sinh sản.
• Việt Nam đã duy trì TFR ở mức sinh thay thế trong hơn
10 năm qua và đây là xu thế bền vững, tuy nhiên TFR
có nhiều khả năng sẽ giảm do ảnh hưởng của sự phát
triển kinh tế - xã hội bao gồm cả quá trình đô thị hóa và
công nghiệp hóa. Hiện tại, TFR tại một số tỉnh và thành
phố đang rất thấp. Vì thế, các biện pháp kiểm soát sinh
sản không còn cần thiết trong chính sách dân số ở Việt
Nam và thậm chí còn có tác động xấu đến phát triển
kinh tế - xã hội nếu như những chính sách này tiếp tục
được duy trì thực hiện.
• Để duy trì TFR ở mức sinh thay thế - mức sinh lý tưởng
có lợi cho sự phát triển bền vững của đất nước, các
chính sách và chương trình dân số nên tập trung vào
cung cấp thông tin và phương tiện cho các cá nhân và
các cặp vợ chồng để họ có thể thực hiện thành công
những lựa chọn sinh sản của mình. Việt Nam cần nỗ
lực hơn nhằm cung cấp các dịch vụ sức khỏe sinh sản
có chất lượng, bao gồm cả kế hoạch hóa gia đình, và
nâng cao trình độ học vấn, đặc biệt cho nhóm dân số
bị thiệt thòi. Cách tiếp cận này phù hợp với những cam
kết của chính phủ tới những nguyên tắc cơ bản của hội
nghị dân số và phát triển (ICPD).
• Chính phủ và các bên liên quan cần tiếp tục thúc đẩy
các chương trình và chính sách nhằm cải thiện vị thế
của phụ nữ, loại bỏ hành vi lựa chọn giới tính và giảm
bất bình đẳng giới. Điều này sẽ giúp giảm mất cân
bằng giới tính khi sinh.
• Các chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình cũng
nên chú ý đến vấn đề kết hôn sớm để giảm thiểu những
rủi ro về sức khỏe cho cả bà mẹ và trẻ em, và tăng
cường các cơ hội giáo dục và phát triển nghề nghiệp
cho phụ nữ. Cần phải đẩy mạnh các chương trình giáo
dục và truyền thông với sự tham gia của thanh niên, vị
thành niên và các nhóm dân số bị thiệt thòi, đặc biệt là
các nhóm dân tộc thiểu số để nâng cao nhận thức của
họ về nguy cơ mang thai và nuôi con ở độ tuổi vị thành
niên đối với sức khỏe của cả trẻ em và phụ nữ.
• Với xu hướng nhân khẩu học quan trọng này, đặc biệt
Việt Nam đang ở thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” hay còn
được gọi là “cửa sổ cơ hội dân số”, và bước vào thời
kỳ già hóa dân số, và đồng thời mất cân bằng giới tính
khi sinh vẫn đang diễn ra, đã đến lúc Việt Nam cần thay
đổi các chính sách dân số theo hướng dân số và phát
triển bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tổng cục Thống kê và Quỹ dân số Liên hợp quốc (2016). Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ 2014. Mức sinh ở Việt Nam:
Những khác biệt, xu hướng và yếu tố tác động. Nhà xuất bản Thông tấn.
©UNFPA Viet Nam/ Nguyen Minh Duc
THÔNG TIN TÓM TẮT
4 1
3. Mức sinh của nhóm phụ nữ các dân tộc thiểu số ở tuổi vị thành niên vẫn còn cao
• Tỷ suất sinh đặc trưng theo nhóm tuổi của phụ nữ trong
độ tuổi 15-19 (ASFR15) là một chỉ số quan trọng phản
ánh nguy cơ về sức khỏe của bà mẹ và trẻ em khi người
mẹ sinh con ở tuổi vị thành niên, điều đó cũng hạn chế
cơ hội nâng cao trình độ học vấn và phát triển nghề
nghiệp của phụ nữ. Giảm tỷ lệ sinh của phụ nữ ở độ tuổi
vị thành niên, vì thế luôn là một trong những mục tiêu
của các chính sách chăm sóc sức khỏe, chính sách dân
số và kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam. Trong vòng 25
năm qua (1989-2014), mặc dù nhìn chung tổng TFR
đã giảm đáng kể nhưng ASFR15 không những không
giảm mà còn tăng nhẹ trong thời kỳ 2009-2014 và đạt
mức 30‰ trong năm 2014. Tuy nhiên, ASFR15 tại khu
vực thành thị luôn thấp hơn khu vực nông thôn (Hình
5). Phân tích sâu cho thấy ASFR15 tăng không chỉ do
tỷ lệ kết hôn của nữ ở độ tuổi vị thành niên tăng, mà còn
chủ yếu là do sự gia tăng đáng kể ASFR15 của phụ nữ
kết hôn ở nhóm tuổi 15-19 trong cùng kỳ.
• Trình độ học vấn và điều kiện sống của của các hộ gia
đình cũng là hai yếu tố quan trọng có liên quan đến
mức sinh của phụ nữ nhóm tuổi 15-19. ASFR15 giảm
khi trình độ học vấn và điều kiện sống của họ tăng lên.
Sự khác biệt này cũng được thể hiện giữa các nhóm
dân tộc. Đáng chú ý nhất, ASFR15 của nhóm dân tộc
Mông (149‰ vào năm 2014) đã tăng khoảng 6-7 lần
so với ASFR15 của dân tộc Kinh. ASFR15 tăng cao
nhất trong nhóm dân tộc Mông - gần như gấp đôi trong
giai đoạn 1989-2014 - tiếp theo đó là dân tộc Tày.
Mông là 3,65 con/phụ nữ, cao hơn so với dân tộc Kinh
(2,02), Tày (2,26), Thái (2,36), Khơ Me (2,14), Mường
(2,36) và các nhóm dân tộc khác (2,32) (Hình 2).
• Trình độ học vấn của phụ nữ là yếu tố quan trọng quyết
định mức sinh. Tuy nhiên ảnh hưởng của yếu tố này đã
giảm dần trong những năm qua do kiến thức về phòng
tránh thai đã được phổ biến rộng rãi hơn và hầu hết các
gia đình đều có thể dễ dàng tiếp cận các dịch vụ này.
Hình 3 thể hiện sự khác biệt rõ ràng trong TFR phân
chia theo trình độ học vấn của phụ nữ: nhóm có trình
độ học vấn cao hơn có mức sinh thấp hơn và ngược
lại. Tuy nhiên, một đặc điểm quan trọng cần lưu ý là
sự khác biệt này đã giảm đáng kể trong thời gian qua
và khoảng cách giữa các nhóm đã thu hẹp đáng kể.
Trên thực tế, trong năm 2014, TFR của nhóm có trình
độ “dưới tiểu học” là 2,34, vẫn là mức cao nhất nhưng
chỉ nhỉnh hơn một chút so với các nhóm có trình độ học
vấn cao hơn (với TFR từ 2,1).
• So sánh TFR trong năm nhóm phụ nữ có điều kiện
sống khác nhau cũng cho kết quả tương tự: sự khác
biệt về mức sinh xét theo điều kiện sống1
cũng đã thu
hẹp dần trong thời gian qua (Hình 4). Hai nhóm có điều
kiện sống cao nhất và TFR thấp nhất năm 1999 lại có
TFR tăng trong 15 năm qua. Trái lại, nhóm có “điều
kiện sống thấp” và TFR ban đầu cao lại có TFR giảm
liên tục (mặc dầu đang ở ngưỡng 2,34, nhóm này vẫn
là nhóm có TFR cao nhất).
1,0
1,5
2,0
2,5
3,0
3,5
4,0
4,5
5,0
5,5
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
TFR
Dưới tiểu học
Tiểu học
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Trên THPT
1,0
1,5
2,0
2,5
3,0
3,5
4,0
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
TFR
Thấp
Dưới TB
Trung bình
Trên TB
Cao
12,8 14,3
11.8 13,7
29,1
36,5
29,6
38,1
25,7
31,1
23,9
30,1
0,0
5,0
10,0
15,0
20,0
25,0
30,0
35,0
40,0
1989 1999 2009 2014
Thành thị
Nông thôn
Chung
ASFR(‰)
Hình 4: TFR theo điều kiện sống
1,0
1,5
2,0
2,5
3,0
3,5
4,0
4,5
5,0
5,5
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
TFR
Dưới tiểu học
Tiểu học
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Trên THPT
1,0
1,5
2,0
2,5
3,0
3,5
4,0
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
TFR
Thấp
Dưới TB
Trung bình
Trên TB
Cao
12,8 14,3
11.8 13,7
29,1
36,5
29,6
38,1
25,7
31,1
23,9
30,1
0,0
5,0
10,0
15,0
20,0
25,0
30,0
35,0
40,0
1989 1999 2009 2014
Thành thị
Nông thôn
Chung
ASFR(‰)
Hình 5. ASFR15 chia theo nông thôn/ thành thị, 1989- 2014
CÁC PHÁT HIỆN CHÍNH
1. Mức sinh giảm và đang được duy trì ổn định
gần ở mức sinh thay thế trong hơn một thập
kỷ qua
Tổng tỷ suất sinh (TFR) của Việt Nam giảm mạnh từ những
năm 1990 cho đến đầu những năm 2000 và sau đó duy trì
ổn định ở gần mức sinh thay thế trong hơn 10 năm qua. Kết
quả này phản ánh sự thành công của các chương trình kế
hoạch hóa gia đình. Mô hình gia đình 2 con đã trở nên phổ
biến, trừ ở một số vùng các dân tộc thiểu số và các tỉnh kém
phát triển hơn như Điện Biên, Lai Châu, Hà Tĩnh và Kon
Tum, nơi TFR vẫn cao hơn 3,0 vào năm 2014. Xu hướng
giảm này cho thấy Việt Nam đã trải qua thời kỳ quá độ dân
số từ mức sinh tự nhiên cao xuống mức sinh thấp nhờ việc
áp dụng rộng rãi và hiệu quả hơn các dịch vụ kế hoạch hóa
gia đình.
2. Có sự khác biệt đáng kể về mức sinh giữa
các vùng miền và nhóm dân tộc
• Có sự khác biệt lớn về mức sinh giữa các khu vực thành
thị và nông thôn, các tỉnh và thành phố cũng như giữa các
nhóm dân tộc. Số liệu tại Hình 1 cho thấy sự khác biệt về
mức độ và tốc độ giảm tỷ lệ sinh giữa khu vực thành thị
và nông thôn qua các giai đoạn 1989-2014. Dân số tại
khu vực thành thị chiếm một tỷ lệ dân số tương đối nhỏ
(33%) so với dân số cả nước. Vì vậy, mức sinh giảm chủ
yếu do giảm mức sinh ở khu vực nông thôn.
• Trong vòng 25 năm qua (1989-2014), TFR đã giảm ở 6
vùng kinh tế - xã hội, tuy nhiên mức giảm có khác biệt
đáng kể giữa các vùng. TFR giảm nhanh nhất tại khu vực
Tây Nguyên từ gần 6 con/phụ nữ vào năm 1989 xuống
còn 2,3 con vào năm 2014. TFR tại vùng Đồng bằng sông
Hồng sau khi giảm nhanh trong giai đoạn 1989-1999 đã
tăng nhẹ trở lại từ 1,98 vào năm 1999 lên 2,30 vào năm
2014.
• Tương tự, có khác biệt lớn về TFR giữa các tỉnh và
thành phố và biến động theo thời gian. Tất cả 11 tỉnh
và thành phố có TFR dưới 1,8 vào năm 2014 đều nằm
ở khu vực phía Nam: thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Bình Thuận, Hậu Giang, Cà Mau, Sóc Trăng,
Long An, Khánh Hòa, Đồng Nai, Tây Ninh và Tiền
Giang. Đặc biệt, TFR ở thành phố Hồ Chí Minh và Bình
Dương rất thấp, ở mức 1,39 và 1,44 năm 2014.
• Sự khác biệt về mức sinh giữa các nhóm dân tộc thiểu
số cũng đã thu hẹp đáng kể trong 25 năm qua. TFR của
dân tộc Mông đã giảm mạnh, nhưng vẫn cao hơn so với
các nhóm dân tộc khác. Năm 2014, TFR của dân tộc
Bài làm:
Cơ cấu dân số theo giới ( %):
Công thức:
Tnn = D nam , D nữ.
Trong đó:
Tnn: tỉ số giới tính
D nam: dân số nam
D nữ: dân số nữ.
Cơ cấu dân số theo giới là tỉ lệ tương quan giữa giới nam so với giới nữ hoặc so với tổng dân số.
Cơ cấu dân số theo giới biến động theo thời gian và khác nhau ở từng nước, từng khu vực.
Ảnh hưởng đến:
Phân bố sản xuất.
Tổ chức đời sống xã hội
Hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội các quốc gia...
Cơ cấu dân số theo tuổi:
Khái niệm: Cơ cấu dân số theo tuổi là sự tập hợp những nhóm người sắp xếp theo những nhóm tuổi nhất định.
Có 3 nhóm tuổi chính.
Nhóm dưới tuổi lao động ( nhóm 1) 0 -14 tuổi.
Nhóm tuổi lao động ( nhóm 2 ) 15 – 59 tuổi ( hoặc 64 tuổi).
Nhóm trên tuổi lao động ( nhóm 3) 60 tuổi hoặc 65 tuổi trở lên.
Các nước phát triển có cấu trúc dân số già, các nước đang phát triển có cấu trúc dân số trẻ.
Tháp dân số:
Có 3 kiểu tháp dân số cơ bản.
Kiểu mở rộng.
Kiểu thu hẹp.
Kiểu ổn định.