Viết đoạn văn từ 9-11câu theo lối T-P-H phân tích nghệ thuật của đoạn văn "ta thường tới bữa quên ăn .... ta cũng vui lòng"bài hịch tướng sĩ để thấy rõ lòng căm thù giặc của tác giả trong đó có sử dụng 1 câu phủ định.

1 câu trả lời

a,Chiếu là thể văn do vua dùng để ban bố mệnh lệnh

-Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh một phong trào dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài.

-Cáo là thường được vua chúa báo cáo mọt chủ trương

b, Sở dĩ nói Đại Cáo Bình Ngô có giá trị như bản Tuyên Ngôn Độc Lập bởi vì áng văn tuyên bố một cách dứt khoát, rõ ràng , oanh liệt ,hào hùng với thế giới và với Nhà Minh Trung Quốc rằng : Nước Nam là một nước có chủ quyền , dân Nam làm chủ nước Nam , dân ta làm chủ nước ta, điều đó không thể thay đổi và xúc phạm. Nếu xâm phạm đất nước , đem quân cướp nước, thì sẽ thảm bại tan tành dưới ý chí bất khuất hào hào , đoàn kết muôn người như một của toàn dân Nam. Đó là bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước ta ở thời kỳ phong kiến giống như bài thơ Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư .

c,

d,Lòng yêu nước là một trong những cảm hứng lớn xuyên suốt chiều dài văn học. Qua thời gian, truyền thống ấy đã thành sợi chỉ đỏ gắn kết các tác phẩm văn chương ở mọi thời đại. Trích đoạn “Nước Đại Việt ta” là một áng văn giàu tinh thần yêu nước như thế, nó đã khơi gợi biết bao tình cảm mãnh liệt vẫn nằm ở nơi sâu kín nhất trong mỗi con người.

“Nước Đại Việt ta” trích “Bình Ngô đại cáo” được viết sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh xâm lược. Tác phẩm là bản anh hùng ca tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược gian khổ mà hào hùng của dân tộc ta. Bên cạnh đó, tác giả còn thể hiện tình yêu nước và lòng tự hào dân tộc thể hiện tập trung ở tư tưởng nhân nghĩa xuyên suốt bài cáo.

Lòng yêu nước trước hết thể hiện ở tư tưởng nhân nghĩa, vì nhân dân mà chống quân xâm lược:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Nhân nghĩa vốn là một tư tưởng tốt đẹp có nguồn gốc từ Nho giáo, quy định cách ứng xử giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lí. Không chỉ kế thừa tư tưởng đó, Nguyễn Trãi còn phát triển nó lên một tầm cao mới: nhân nghĩa là yên dân, vì nhân dân mà trừ gian diệt bạo. Đây cũng chính là cơ sở làm nên tính chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa, vạch trần bộ mặt xảo trá của quân xâm lược khi chúng lấy cớ “phò Trần diệt Hồ” hòng cướp nước ta.
Lòng yêu nước còn gắn với niềm tự hào dân tộc, ý thức rõ về sự tồn tại độc lập của đất nước:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Dường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”

Xưa kia, trong bài thơ thần “Nam Quốc Sơn Hà”, vốn được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất của nhân dân ta, Lý Thường Kiệt đã khẳng định nền độc lập của dân tộc về lãnh thổ, chủ quyền, song mới chủ yếu dựa nhiều vào yếu tố tâm linh là “thiên thư”- sách trời. Đến thế kỉ XV, Nguyễn Trãi tiếp tục bổ sung những yếu tố để làm nên một quốc gia độc lập. Nguyễn Trãi tự hào khẳng định đất nước ta có nền văn hiến lâu đời. Văn hiến vốn là những giá trị tinh thần được tạo nên qua các thời đại. Điều ấy chứng tỏ đất nước ta có một bề dày về lịch sử và trầm tích văn hóa. Không dừng lại ở đó, một nhà nước tự chủ là một nhà nước có chủ quyền riêng, lãnh thổ riêng: “Núi sông bờ cõi đã chia”. Ở điểm này, Nguyễn Trãi đã gặp gỡ với Lí Thường Kiệt: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”. Vì chủ quyền, lãnh thổ riêng, cho nên phong tục phương Nam cũng không thể giống phương Bắc. Phong tục là những thói quen, tập quán lâu đời trong đời sống sinh hoạt, ăn sâu vào cách sống, cách nghĩ của mỗi người dân, làm nên bản sắc của một dân tộc. Không chỉ thế, tác giả còn đặt ngang hàng các triều đại của ta với các triều đại phong kiến bên Trung Quốc như một cách ngầm khẳng định vị thế ngang hàng, không hề thua kém của dân tộc ta. Nguyễn Trãi cũng vô cùng đề cao yếu tố con người, cụ thể là “hào kiệt đời nào cũng có”.

“Bởi vậy:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi”

Những dẫn chứng cụ thể về thất bại nhục nhã của quân giặc như muốn cảnh cáo bất kì thế lực ngoại bang nào nung nấu ý đồ xâm lược nước ta đều sẽ gặp kết cục thảm khốc.

Tác phẩm đã làm bùng cháy tình cảm đối với quê hương, đất nước trong trái tim mỗi người. Lòng yêu nước chính là sức mạnh để dân tộc ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đi đến thắng lợi trong các cuộc kháng chiến.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm
5 lượt xem
2 đáp án
13 giờ trước
5 lượt xem
2 đáp án
13 giờ trước