viết đoạn văn 200 chữ nêu cảm nghĩ của em về bài thơ sau Làm anh Làm anh khó đấy Phải đâu chyện đùa Với em gái bé Phải “người lớn” cơ. Khi em bé khóc Anh phải dỗ dành Nếu em bé ngã Anh nâng dịu dàng Mẹ cho quà bánh Chia em phần hơn Có đồ chơi đẹp Cũng nhường em luôn Làm anh thật khó Nhưng mà thật vui Ai yêu em bé Thì làm được thôi ai giỏi văn hepl mình vói

1 câu trả lời

Đọc bài thơ của nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn, hẳn các bạn nhỏ - nhất là những em nam đang giữ “vai trò” như vậy trong gia đình sẽ thấy ngay được một điều: Làm anh kể cũng lạ, vừa dễ mà cũng lại vừa khó. Dễ, là bởi những điều tác giả đặt ra hoàn toàn các em có thể thực hiện được. Khó, là vì chấp nhận những điều ấy cũng có nghĩa chấp nhận một phần thua thiệt, kể cả việc phải từ bỏ sự hiếu thắng kiểu con nít, nói tóm lại là phải học cách sống có phần “người lớn”. Điều này xem ra không phải bạn nhỏ nào cũng dám “đăng ký” để mà thực hành đâu.

Trước nhất, khi em bé khóc, thì động tác ban đầu của các em là ra sao? Nên nhớ, các em bé chưa thể hiểu được mọi lẽ như chúng ta khi đã lớn, lại được đi học, được bố mẹ thầy cô giảng giải cho nhiều điều. Mà vì còn bé, các em lại chưa biết nói nữa chứ, hoặc giả có biết thì cũng bập bẹ, chưa thể diễn đạt được hết những ý nghĩ, những mong muốn của mình. Thành thử, khi em bé khóc, việc đầu tiên của “những người anh” là phải tìm cách dỗ dành, vừa là để em nín, vừa là để tìm xem nguyên nhân đó tại đâu. Tất nhiên, trẻ con thường chỉ khóc bởi hai lẽ: hoặc vì bị đau, hoặc để vòi vĩnh này khác. Mà chỉ có hai anh em chơi với nhau, nếu em bé khóc, thì ít nhiều lỗi này thuộc về “ông anh” trông coi kia thôi. Mọi người sẽ nghĩ như thế và cả bố mẹ cũng sẽ trách như vậy.

Còn “khi em ngã” thì nhất thiết phải đỡ em lên rồi. Kể ra khi em “ăn vạ” và lăn ra cũng vậy. Lăn ngã không chỉ làm đau em mà còn làm bẩn quần áo, làm bận lòng cha mẹ. Nhưng tại sao, sự thể chỉ có thế mà tác giả lại phải viết, phải nhắc kỹ:

Nếu em bé ngã
Anh nâng dịu dàngLà vì tiếng thế, chứ cũng có những “ông tướng” làm thì làm, nhưng mà bất đắc dĩ, thậm chí chỉ vì sợ nữa, nên trông “nâng” em gì mà cứ như lôi em lên vậy, lôi xềnh xệch. “Trẻ em như búp trên cành”. Với chúng, cần phải nâng niu gượng nhẹ thôi. Nếu không cẩn thận, dễ “xảy một li đi một dặm”, sau này có những biến chứng gì thì thật nguy hiểm.

Một cái khó nữa - với những cậu bé thực sự muốn xứng đáng những người anh gương mẫu - là phải nhường nhịn em bé - kể cả những gì mình ham thích. “Mẹ cho quà bánh” biết tính em bé bao giờ cũng thích phần hơn, thì chia cho em nhiều hơn. Chia như vậy, nếu có mất thì mất ít, mà được thì lại được thật nhiều. Được mọi người khen ngoan, “thảo” tính, được bố mẹ quý trọng (các em yên chí, chẳng bố mẹ nào để những đứa con ngoan chịu thiệt cả. Mọi sự sẽ được bù đắp sau). Rồi đến khi có đồ chơi cũng vậy. Các em bé chúng ta đang ở thời kỳ tập phân biệt màu sắc, rồi phân biệt xấu đẹp. Nếu cái gì em thích - mà đẹp thật - thì cứ nén nhịn nhường em, để khuyến khích em vui chơi, như vậy là các em đã đỡ được cho bố mẹ nhiều biết bao nhiêu.

Đọc Làm anh, chúng ta thấy giọng thơ của tác giả thật mềm mại, ấm áp. Cách nói sao mà khéo, dỗ dành đến ngọt. Ở đoạn thứ ba, chỗ phải “chia chác” ấy, có lẽ là khéo nhất. Chia quà bánh - tác giả không bắt em phải chia hết. Nhường đồ chơi, tác giả chỉ nhắc nên “nhường đồ chơi đẹp” chứ không phải nói nhường cả. Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn chẳng khác gì một người mẹ rất hiểu rõ tâm lý của từng đứa con ở vào những giây phút như vậy, nên đòi hỏi cũng ở mức độ vừa phải.

Thế đấy, “Làm anh khó đấy/ Phải đâu chuyện đùa”. Nhưng, đúng như nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn nói lại ở đoạn kết, khó thì khó vậy “Nhưng mà thật vui” và “ai yêu em bé/ Thì làm được thôi”. Bởi vì, suy cho cùng, thì “Làm anh” khó nhất cũng là ở lý do này: Đất nước ta đang thời kỳ kế hoạch hoá gia đình, sẽ ngày càng ít cậu bé có điều kiện để “làm anh”, trở thành “anh” khi mà khẩu hiệu đặt ra là “Mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có một hoặc hai con”. Nói thế, để các bạn nhỏ càng phải biết nâng niu, quý trọng những gì mình đang có và cố gắng sao cho xứng đáng với danh hiệu ấy.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm

Ngày xưa, Rùa có một cái mai láng bóng. Trên mai không có những vết rạch ngang dọc như ta thấy ngày nay. Rùa rất tự hào về cái mai của mình. Mỗi buổi sớm, Rùa đem mai ra phơi nắng. Ánh nắng trên mai Rùa sáng rực, làm cái mai như toả ánh hào quang.

Tính Rùa thích đi đây đi đó ngắm xem phong cảnh tươi đẹp của đất nước:

- Sống có nghĩa là đi. Một ngày không đi là một ngày bỏ phí. Phải đi như ngọn gió kia, đi mãi, đi mãi. Đi nhiều càng tốt. Đi nhiều mới xem hết những vẻ đẹp trong thiên hạ. Đi nhiều mới thấy hết được những đổi mới của đất nước.

Nhưng Rùa phải cái tính hay ngại. Mùa đông, Rùa ngại cái rét. Cái rét nép trong bờ bụi cứ thổi vù vù làm buốt đến tận xương. Phải đợi đến mùa xuân. Mùa xuân nhiều hoa. Đi trên một con đường rải đầy hoa thơm cũng thú vị. Nhưng mùa xuân vẫn là đứa em của mùa đông, vì mưa phùn vẫn cứ lai rai, và gió bấc vẫn cứ thút thít ở các khe núi. Phải đợi đến mùa hè. Mùa hè tạnh ráo. Cây cối có nhiều quả chín thơm tho. Nhưng cái nóng cứ hầm hập. Cả ngày bụi cuốn mịt mùng. Hễ có cơn giông thì đất đá như sôi lên, nước lũ đổ ào ào. Phải đợi đến mùa thu. Quả thật đến mùa thu, Rùa mới cảm thấy rõ rệt mình đang cần một chân trời và một khoảng rộng. Nhìn ra, mây đùn tan biến. Đồi núi trải ra như đàn rùa bò lóp ngóp. Và xa, rất xa, trên ngọn một quả núi cao, một lâu đài hiện ra như một hòn ngọc. Có người bảo đó là lâu đài của Rùa vàng. Rùa lẩm bẩm:

- Ừ! Ta phải đến xem cho biết! Rùa vàng chắc còn giữ cái nỏ bắn một phát giết nghìn giặc của cụ tổ. Chưa đến thăm lâu đài của Rùa vàng thì đến lúc chết ta khó nhắm mắt.

Rùa ra đi. Ngày đầu Rùa chạy, như có ai đẩy sau lưng. Ngày thứ hai, Rùa chạy chậm. Ngày thứ ba, Rùa đi. Ngày thứ tư, đi chậm. Ngày thứ năm, Rùa lê từng bước. Cái gì đẩy sau lưng đã biến mất. Con đường hoá gồ ghề. Rùa bước chậm dần… chậm dần rồi… dừng lại!

- Ô kìa! Có ai đó không? Có phải ta đã dừng lại không? Ta mệt rồi! Ta phải nhờ một người khác đi hộ ta. Có thể một con chim Đại Bàng sẽ bay tới. Nó sẽ mời ta: “Mời ngài hãy tạm lên đôi cánh của tôi. Tôi vô cùng sung sướng được đưa ngài đến nơi ngài thích!”. Nhưng ta cũng phải để Đại Bàng nó khẩn khoản năm lần bảy lượt, ta mới chịu ngồi lên lưng nó.

Ngày ngày Rùa nhìn khắp bốn phương. Mịt mù chẳng thấy tăm hơi Đại Bàng đâu cả! Chỉ thấy bên triền núi một chú ngựa chạy nhong nhong.

- Này anh ngựa kia! Chim Đại Bàng đã đến chưa?

Ngựa dừng lại ngạc nhiên:

- Từ khi lọt lòng mẹ, tôi chưa hề nghe tên một con chim kì lạ như thế!

- Nếu vậy, ai đi thế cho ta?

- Cái đó tôi không biết. Nhưng nếu bác đã mỏi chân, thì mời bác cứ lên lưng tôi, tôi chở một chặng…

- Lên lưng…! Ồ!... Ta muốn hỏi: Lưng có phải là chỗ chạy nhanh nhất không? Ta không muốn chậm trễ.

- Chỗ chạy nhanh nhất của tôi là bốn vó.

- Ta phải ngồi vào chỗ đó.

Ngựa đưa ra một chân. Rùa bò lên. Ngựa nhắc Rùa phải bíu vào thật chặt.

Lộp cộp! Lộp cộp! Gió thổi vù vù hai bên tai Rùa. Cây hai bên đường lao về phía sau vun vút. Lá cây cào trên mai Rùa. Một cành cây quật vào đầu Rùa đau điếng. Rùa kêu:

- Ôi! Chậm lại! Chậm lại!

Nhưng cơn lốc càng to. Chợt: Rầm! Đất trời như tối kịt lại. Rùa văng ra xa, chết ngất.

Rùa dần dần tỉnh lại, khắp người như có hàng vạn kim đâm. Rùa mở mắt. Thật quá rùng rợn! Ràu đang nằm giữa vũng máu, và cái mai bị vỡ ra nhiều mảnh!

Cũng may, những mảnh vỡ sau đó lành lại. Nhưng những vết sẹo ngang dọc trên mai vẫn còn trông thấy. Cũng rất may, từ đó Rùa rút ra được bài học tốt. Rùa đã quyết rèn luyện cho mình có được tính kiên nhẫn luyện tập thành công và đã thắng trong cuộc thi với Thỏ. Riêng về chuyện cái mai, mời các bạn hãy xem thật kĩ một con Rùa để biết chuyện tôi kể là có thật.

Viết bài văn cảm nhân về chú rùa ....

Ai dúp với

7 lượt xem
1 đáp án
13 giờ trước