Trần quốc tuấn đã phân tích những điều phải trái đúng sai như thế nào với các tướng sĩ

2 câu trả lời

`⇔` Để khích lệ tinh thần của tướng sĩ, trước hết Trần Quốc Tuấn chỉ ra tội ác của kẻ thù và lên án hành động của chúng: “Đi lại nghêng ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa,…”

`-` Ngôn ngữ vô cùng đanh thép, quyết liệt, ngấm ngầm lên án kẻ thù: “nghêng ngang” “uốn lưỡi cú diều” “đem thân dê chó”, qua lớp ngôn từ đã thể hiện rõ sự coi thường kẻ thù và tinh thần căm thù giặc.

`-` Trực tiếp nói về nỗi đau của mình trước hiện thực đất nước: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa….ta cũng vui lòng”.

`-` Giọng điệu của đại vương đã thể hiện trực tiếp nỗi lòng đau xót của mình, ông mất ăn mất ngủ lo cho sự nghiệp của đất nước.

`-` Trong một đoạn văn ngắn tác giả đã sử dụng một loạt động từ mạnh: xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu.

`-` Thể hiện lòng căm thù giặc sục sôi, quyết không dung tha cho lũ giặc. Và ông đã có một hành động vô cùng quyết liệt sẵn sàng hi sinh bản thân để bảo vệ nền độc lập của dân tộc.

`#` `Tranhoang40860`

Nhận thức được phải trái, đúng sai, nhưng thước đo cuối cùng phải là hành động. Hành động ấy rút cuộc là "chuyên tập sách này" (cuốn Binh thư yếu lược) hay là khinh bỏ nó. Chăm chỉ học hành, luyện tập "mới chỉ là đạo thần chủ" (ngọn cờ tư tưởng của bài văn, thấm vào từng ý, từng lời) còn nếu không, nếu trái lời dạy bảo của người quyền uy tối thượng thống lĩnh toàn quân "tức là kẻ nghịch thù". Giọng điệu của lời văn vô cùng nghiêm khắc, hết sức rạch ròi, không còn khoan dung, độ lượng nữa. "Vì sao vậy"? Câu văn hàm chứa hai lượng thông tin, nó cảnh báo một tình hình: nước có thể vẫn giữ dược (vì giữ nước là sự nghiệp của toàn dân) nhưng khi "giặc giã dẹp yên" thì "chỗ đứng của các ngươi không còn. Nước vẫn còn, nhưng hạnh phúc của các ngươi không thể nào có nữa, không chỉ bây giờ mà còn "muôn đời để thẹn", với con cháu các ngươi thì còn gì là tông tổ, gia thanh, còn tiếng thơm đâu mà lưu truyền mãi mãi". Sự tuyệt tự về tinh thần này mới thật là đáng sợ vì nó là một thứ bia miệng ngàn năm ("Trăm năm bia đá thì mòn – Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ"). Đoạn văn cảnh báo, cảnh tỉnh đúng như một thứ quân lệnh (quân lệnh như sơn) không thể có cách hiểu khác, cũng không thể nào làm khác. Ở đoạn kết của bài văn này, một lần nữa đạo thần chủ lại rành rọt cất lên như lẽ sống của con nhà võ tướng: "Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục…" nghĩa là không lo báo thù cho chủ, không hành động thì chẳng khác nào "quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc". Thái độ dứt khoát này có tác dụng tập hợp lực lượng, trước hết về mặt tư tướng tinh thần để tướng sĩ trong quân nghìn người như một ("Ba quân hùng khí át sao Ngưu" – Phạm Ngũ Lão). Thế áp đảo của ta đối với bọn giặc thù phải bất đầu từ đó.

Binh thư yếu lược dạy cách đánh cụ thể (khi đối mặt với quân thù), nhưng muốn "mưu phạt" phải "tâm công" như sách lược của Nguyễn Trãi sau này mà Trần Quốc Tuấn tuy không nói ra nhưng ông đã làm như vậy.

Phân tích bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn – Bài số 3

Trần Quốc Tuấn là một vị tướng tài đã có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông. Tác phẩm “Hịch tướng sĩ” được ra đời trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – mông lần thứ hai mang tình yêu tha thiết, nồng nàn của ông dành cho quê hương, đất nước. Đồng thời, tác phẩm còn được coi là lời hiệu triệu toàn quân trước ngày ra trận.

Là một vị tướng kiệt xuất, Trần Quốc Tuấn yêu nước tha thiết và hết lòng tận trung với dân, với nước. Nên khi thấy giặc ngoại xâm ngang tàng, dám coi thường đất nước, sỉ nhục vua quan, ông tố cáo chúng bằng lời lẽ đanh thép: “ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê cho mà bắt nạn tể phụ”. Ta lại càng căm tức hơn khi chúng dám vơ vét tài sản của nhân dân: “thác mệnh hốt tất liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiêu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vơ vét của kho có hạn.” Đua ra những bằng chứng về sự tàn bạo, tham lam của giạc, Trần quốc Tuấn đã khơi dậy lòng căm thù và ý chí chiến đấy của toàn thể nhân dân, tướng sĩ.

Trước nỗi nhục mất nước, dân tộc rơi vào cảnh lâm nguy, một vị tướng tài không khỏi trằn trọc băn khoăn, lo lắng: “Ta thường đến bữa quên ăn, nữa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Ông đau đáu nhìn vận nước đang suy mà căm thù lũ giặc, quyết không đội trời chung: “xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.” Ông nguyện hi sinh bản thân để đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc: “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”

Không chỉ một lòng vì nước quên thân, Trần Quốc Tuấn còn là một vị tướng biết yêu thương những binh sĩ như những người anh em cùng nhau xông pha ngoài chiến trường: “không có mặc thì ta cho cơm, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ra cấp bổng, đi thủy thì cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa”. Bởi vậy, những binh sĩ vừa khâm phục đức hi sinh của ông mà lại vừa cảm thấy gần gũi, cảm động trước những ân tình ông dành cho họ.

Song song với sự quan tâm tới các binh sĩ, ông cũng phê phán nghiêm khắc những tư tưởng, ý thức sai trái của họ: “thấy nước nhục mà không biết lo, thấy chủ nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức”. Ông cũng phê bình gay gắt những người chỉ ham chơi mà bỏ bê trách nhiệm, nhất là khi đất nước đang lâm nguy: “lấy việc chọi gà làm vui đùa, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích uống rượu, hoặc mê ca hát.” Trần Quốc Tuấn đã làm thức tỉnh biết bao binh sĩ để họ ý thức được những việc làm sai trái của chính mình, để từ đó mà sửa chữa, trở lại với trách nhiệm mà bản thân cần đảm đương lúc này. Đó chính là cùng nhau đoàn kết, rèn luyện và chiến đấu với quân thù, bảo vệ đất nước.

“Hịch tướng sĩ” thực sự là một áng văn bất hủ cho thấy Trần Quốc Tuấn không chỉ là một vị tướng tài yêu đất nước, có khả năng thu phục lòng người mà còn là một tài năng văn chương xuất chúng. Với giọng văn đanh thép chứa đầy những suy tư về vận mệnh dân tộc, tên tuổi ông sẽ mãi rạng ngời trên những trang văn học, trang sử vàng của dân tộc Việt Nam.

#nducminhtoan

xin hay nhất và 5 sao