1 câu trả lời
Quy chế khoa cử thời phong kiến bao gồm 3 kỳ thi (thi Hương, thi Hội, thi Đình). Trong đó, quan trọng nhất là 2 kỳ thi Hương và thi Hội. Thi Hương được tổ chức quy mô một tỉnh hoặc liên tỉnh để chọn người vào thi Hội, thi Đình. Thể lệ thi Hương được ổn định từ thời Lê Thánh Tông, bắt đầu mở trường thi ở các địa phương.
Ở nước ta khi xưa học trò bắt đầu đi học gọi là sơ học; học các sách Sơ học vấn tân (hỏi bến), Tam tự kinh (Kinh ba tiếng), Tứ tự kinh (Kinh bốn tiếng), Ngũ ngôn (Văn vần năm tiếng). Tập làm văn khi đầu là câu đối 2 tiếng, 3 tiếng, 4 tiếng…biết phân biệt vần trắc, vần bằng. Về đức dục học sinh phải lễ phép kính trên, nhường dưới, thực hiện câu “Tiên học lễ, hậu học văn”.
Chừng 10 tuổi trở lên học Tứ thư, Ngũ kinh, học lịch sử, học Bách gia, Chư tử, Cửu lưu (Chín dòng tư tưởng Cổ đại: Nho gia, Đạo gia, Âm dương gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Tung hoành gia, Tạp gia, Nông gia); học lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng, tập làm văn, làm câu đối 7 tiếng gọi là câu đối thơ, 8 tiếng trở lên là câu đối phú và tập làm văn nghĩa.
Hình thức trường làng phần lớn là trường tư (tư thục). Thầy giáo trường làng được mệnh danh là thầy đồ. Thầy đồ do dân tự chọn. Họ gồm những người hỏng thi, hoặc thi đỗ mà không muốn ra làm quan, người đã nghỉ việc... Nhà nước không đài thọ trường làng mà chỉ mở trường từ cấp huyện, phủ và tỉnh. Quan quản lí giáo dục ở huyện gọi là Huấn đạo, ở phủ gọi là Giáo thụ, còn danh hiệu Đốc học là quan cấp tỉnh.
