Thuyết minh về chiếc nón lá ( không copy )

2 câu trả lời

Trên đất nước Việt Nam có khoảng trên năm mươi dân tộc được chia ra nhiều vùng miền khác nhau. Nhưng có ba khu vực chính: Bắc – Trung – Nam. Ở mỗi miền có phong tục tập quán riêng. Nếu nói về trang phục thì chiếc áo tứ thân là vật dụng đi kèm là nón quai thao sẽ là đại diện cho người Bắc. Còn ở miền Trung và miền Nam thì có áo dài nói chung áo bà ba nói riêng và người bạn đồng hành với chúng không ai khác chính là chiếc nón lá thân quen. Nó làm chiếc áo dài hay áo bà ba thêm phần duyên dáng và dịu dàng, tôn thêm nét đẹp cho người phụ nữ Việt.

Chiếc nón lá là một nhân tố của lịch sử lâu đời. Tiền nhân của nón lá được chạm khắc trên chiếc trống đồng Ngọc Lữ, thạp đồng Đào Thịnh từ khoảng 2500 – 3000 trống đồng năm trước công nguyên. Trải qua biết bao thời kì chống giặc ngoại xâm, nghề chằm nón vẫn được duy trì và tồn tại cho đến nay. Và hiện nay các làng làm nghề chằm nón như làng Đồng Di (Phú Vang), Dạ Lê (Hương Thủy) và ở Phủ Cam (Huế) là làng nón đặc biệt nhất, những làng nghề này đã tạo ra các sản phẩm công phu và nó cũng là một trong những điểm thu hút khách du lịch.

Một chiếc nón lá đẹp phải trải qua rất nhiều công đoạn. Trước tiên là khâu chọn lá, phơi lá, chọn chỉ đến mức tinh xảo trong từng mũi kim. Lá làm nón có thể dùng lá dừa hay lá cọ.

Lá dừa: để có được lá dừa thì phải mua từ trong Nam. Lá được vận chuyển và được làm trước khi chuyển đến nơi. Sau đó, chọn lọc lá để xử lí với lưu huỳnh nhằm đảm bảo được độ bền về thời gian và màu sắc của lá. Dẫu việc chọn lá có công phu nhưng chiếc nón làm ra cũng không sánh bằng nón được làm từ lá cọ.

Lá cọ: để khoác lên cho nón một chiếc áo với chất liệu tốt, người may phải công phu hơn từ việc chọn lá cho đến việc may và khâu. Những chiếc lá cọ phải có những yếu tố sau: lá non vừa độ, gân lá phải xanh, màu lá cũng trắng xanh. Nếu gân và thân lá đều trắng thì chiếc nón làm ra sẽ không được đẹp.

Một chiếc nón đạt đầy đủ tiêu chuẩn là phải có màu trắng xanh với những gân lá màu xanh nhẹ, mặt phải bóng, khi dán lên nón thì màu của gân nổi lên bề mặt thì mới đẹp mặt. Để đạt được điều đó, phải làm đúng theo các quy trình một cách tuân thủ.

Sấy khô phải đúng kĩ thuật, sấy trên bếp than (đối với lá cọ thì không phơi nắng). Sau đó thì phơi sương từ 2 đến 4 giờ cho lá mềm ra. Rồi dùng một búi vải và một miếng gang đặt trên bếp than có độ nóng vừa phải để ủi sao cho từng chiếc lá được phẳng. Mỗi chiếc lá phải được chọn lựa kĩ càng và cắt với cùng độ dài là 50cm (lá cọ).

Với cây mắc sắt, những người thợ làm nón (thường là đàn ông) chuốt từng nan tre sao cho tròn đều và có đường kính rất nhỏ, thường chỉ lớn hơn que tăm một chút. Sau đó uốn nan tre này thành những vòng tròn từ lớn đến bé và đều được bóng bẩy. Mỗi cái nón sẽ có 16 nan tre đã được uốn vòng như thế này. Những vòng ấy sẽ được đặt vào một khung bằng gỗ hình chóp theo vị trí từ dưới lên từ lớn đến bé. Sau đó người thợ sẽ xếp lá lên khung, người xếp lá phải khéo và đều tay để những chiếc lá không bị chồng lên nhau hoặc xô lệch.

Kể về quá trình làm nón mà không nhắc đến nghệ thuật làm nón bài thơ ở Huế thì thật thiếu sót. Đặt biệt nón bài thơ của xứ Huế rất mỏng vì chỉ có hai lớp lá với lớp lá thứ nhất chỉ gồm hai mươi lá, còn lớp ngoài chỉ có ba mươi lá và lớp bài thơ thì được chèn ở giữa. Khi xây lá lợp lá, người làm phải thật sự khéo léo sao cho khi chêm lá sẽ không làm cho lá bị chồng lên nhau hay bị xô lệch, như vậy thì chiếc nón lá của chúng ta sẽ có được độ thanh và mỏng.

Khi soi nón dưới ánh nắng, người ta sẽ thấy được bài thơ, hay nhìn rõ được chiếc cầu Tràng Tiền hoặc chùa Thiên Mụ. Chính những chi tiết đó đã tạo được nét đặc sắc riêng của nón bài thơ ở xứ Huế. Khi đội nón bài thơ người đội nó chắc hẳn hãnh diện lắm vì đã mang trên mình những danh lam thắng cảnh hay một bài thơ mang đậm sắc Việt.

Sau khi xếp lá cho đều và ngay ngắn lên vành, người ta bắt đầu chằm nón. Nón được chằm bằng những sợi ni lông dẻo, dai và săn chắc có màu trắng trong suốt. Các nón lá không được xộc xệch, đường kim chỉ phải đều. Khi nón lá được chằm hoàn tất người ta đính thêm cho chóp nón một cái "xoài" được làm bằng chỉ bóng láng để làm duyên cho nón. Sau khi cho nón một điểm nhấn, thì người thợ sẽ phủ lên nón lớp dầu nhiều lần, phơi đủ nắng để nón vừa đẹp vừa bền. Ở hai vòng tròn lớn bằng nan tre phần dưới của hình chóp, khoảng nan thứ ba và thứ tư, người thợ sẽ dùng chỉ đôi kết đối xứng hai bên để buộc quai.

Quai nón thường được làm bằng lục, the, nhung, với màu sắc tươi tắn như tím, hồng đào, xanh thiên lí, càng làm cho nón thêm phần xinh xắn và càng làm tăng độ duyên dáng cho người đội nón. Chiếc nón lá cũng giống như người phụ nữ Việt Nam, không chỉ đẹp ở từng chi tiết mà còn đẹp ở cách thể hiện ở phần dáng nón. Những người thợ đã gửi gắm vào từng "đứa con những hình ảnh mang nét truyền thống văn hóa dân tộc.

Từ Bắc vào Nam, từ làng Chuông ở Tây Hồ đến Ba Đồn, những chiếc nón lá trải đi khắp các nẻo đường và trở nên thân quen trong đời sống thường nhật của người phụ nữ. Chiếc nón không chỉ là vật dụng thân thiết, mà còn là người bạn thủy chung với người lao động đội nắng dầm mưa, đội nón ra đồng, đội nón đi chợ, nón còn là những chiếc quạt xua đi những mệt mỏi, mồ hôi dưới nắng hè gay gắt mà còn làm tăng nét duyên và tăng thêm nét nữ tính của người phụ nữ.

Vào mỗi buổi tan trường, hình ảnh những cô nữ sinh với tà áo dài trắng tinh khôi, nghiêng nghiêng dưới vành nón lá là lúm đồng tiền làm duyên đã làm say lòng, là cảm hứng nghệ thuật của bao văn nhân, nghệ sĩ. Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái dưới bộ áo dài duyên dàng thể hiện nét dịu dàng, mềm mại kín đáo của người phụ nữ Việt Nam đã nhiều lần xuất hiện và đều nhận được những tràng pháo tay tán thưởng của khán giả.

Muốn nón lá được bền chỉ nên đội dưới nắng, không nên đi trong mưa. Sau khi dùng nên cất vào chỗ bóng râm, không phơi ngoài nắng sẽ làm cong vành, lá nón giòn và ố vàng làm mất tính thẩm mĩ và giảm tuổi thọ của nón. Nón lá là một những bề mặt của đất nước Việt Nam ta, vì thế hãy giữ gìn nó thật kĩ tránh làm hỏng nón. Hãy yêu quý cái nét truyền thống lâu đời đó, nón lá sẽ là một người bạn luôn sát cánh cùng chúng ta dẫu có nắng mưa gian khổ.

Từ hàng ngàn năm trước cho đến ngày nay, chiếc nón lá luôn được xem là biểu tượng của Việt Nam, đi kèm với áo dài là trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Nón lá đã giúp tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Việt Nam.

Chiếc nón xuất hiện từ khi nào không ai biết. Từ thời xưa đã có câu: ‘Nón Chuông, khua lụa, quai thao làng Đơ”. Như thế, nón lá Việt Nam đã có một lịch sử rất lâu đời. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2.500 – 3.000 năm về trước. Từ xa xưa, nón đã hiện diện trong đời sống thường ngày của người Việt qua nhiều chuyện kể. Chiếc nón lá Việt Nam là một phần cuộc sống nông nghiệp bình dị và hòn hậu của con người Việt Nam.

Người Việt từ nông thôn cho tới thành thị đều dùng nón lá, nhưng ít người để ý xem nón lá được làm như thế nào? Đế làm được một chiếc nón đẹp, người làm nón phải tỉ mỉ từ khâu chọn lá, phơi lá, chọn chỉ, đến độ tinh xảo trong từng đường kim, mũi chỉ. Người chằm nón phải chọn lá tươi từ ngoài chợ về, sau đó sấy lá trên bếp than (chứ không phơi nắng) cho lá khô nhưng vẫn giữ được sắc xanh tươi. Rồi lại phơi sương tiếp từ 2 giờ đến 4 giờ để cho lá mềm. Rồi dùng một búi vải tròn và một miếng gang đặt trên bếp than có độ nóng vừa phải để ủi sao cho từng chiếc lá lại thật phẳng phiu.

Mỗi chiếc lá được chọn lựa kĩ càng một lần nữa và cắt gọn còn 50 cm. Với cây mác sắc, họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu; sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy. Nón bài thơ Huế rất mỏng bởi nó chỉ có 2 lớp lá: lớp lá trong gồm 20 lá, lớp lá ngoài gồm 30 lá và lớp bài thơ được nằm ở giữa. Khi soi lên ánh sáng, ta đọc được bài thơ, nhìn thấy rõ hình cầu Tràng Tiền hay chùa Thiên Mụ.

Nón được chằm bằng sợi ni lông dẻo, dai, săn, chắc, và có màu trắng trong suốt. Các lá nón không được xộc xệch, đường kim, mũi chỉ phải đều tăm tắp. Nhìn bên ngoài, những vòng tròn đồng tâm cuộn xoắn tạo thành khung nó hết sức bắt mắt.

Nón lá ở Việt Nam có nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử: nón dấu là nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa. Nón gò găng hay nón ngựa sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi cưỡi ngựa. Nón rơm làm bằng cọng rơm ép cứng. Nón quai thao thường được người miền Bắc dùng trong lễ hội. Nón lá sen cũng còn được gọi là nón liên diệp. Nón thúng là thứ nón lá tròn bầu giống cái thúng. Nón chảo là thứ nón bo tròn lên như cái chảo úp. Nón bài thơ ở Huế là thứ nón lá mỏng có lồng hình hay một vài câu thơ.

Dù nón có nhiều loại, song nét đặc thù chung của nó là rộng vành để chống nóng và có mái dốc để thoát nước nhanh, che mưa. Nón là bạn của người nông dân và mang nhiều chức năng thú vị: là chiếc quạt trong những trưa nắng trên cánh đồng, là chiếc ca múc nước, giỏ đựng đồ đi chợ…

Nón còn công dụng ở chỗ tránh mưa, tránh nắng. Ngoài chức năng ứng phó với môi trường tự nhiên, chiếc nón còn hướng tới mục đích làm đẹp cho con người và phù hợp với cảm quan thẩm mĩ của người Việt: đẹp một cách tế nhị, kín đáo. Dưới vành nón, đôi mắt, nụ cười, lúm đồng tiền, những sợi tóc mai, cái gáy trắng ngần của cô gái dường như được tôn thêm nét duyên dáng, kín đáo mà không kém phần quyến rũ… Ngày nay nón lá còn được làm để bán cho khách du lịch nước ngoài mua nón, đội cho vui, mang về nước làm kỉ niệm.

Muốn nón lá được bền lâu chỉ nên đội khi trời nắng, tránh đi mưa, tránh dùng mạnh tay làm méo nón. Sau khi dùng nên cất vào chỗ bóng râm, không phơi ngoài nắng sẽ làm cong vành, lá nón giòn và ố vàng làm làm mất tính thẩm mĩ và giảm tuổi thọ của nón.

Chiếc nón gợi nguồn cảm hứng cho thơ, cho nhạc. Đã có hẳn một bài về hát về nón: “Nón bài thơ, em đội nón bài thơ, đi đón ngày hội mở”… Giữa những kênh rạch, sông nước chằng chịt ở miệt vườn Nam Bộ, ai đó đã phải ngẩn ngơ vì “Nón lá đội nghiêng tóc dài em gái xõa”. Chiếc nón còn gợi nhớ dáng mẹ tảo tần.

Chiếc nón lá chính là biểu tượng của Việt Nam, là đồ vật truyền thống và phổ biến trên khắp mọi miền đất nước. Nó là người bạn thủy chung của những con người lao động một nắng hai sương. Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái với chiếc áo dài duyên dáng thể hiện tính dịu dàng, mềm mại và kín đáo của người phụ nữ Việt Nam. Nếu ở một nơi xa xôi nào đó không phải trên đất nước Việt Nam, bạn bỗng thấy chiếc nón lá, dó chính là Việt Nam. Chiếc nón cùng với áo dài, áo cánh, váy lĩnh, yếm đào, thắt lưng bao,… chiếc nón được coi là một thứ phục trang truyền thống của phụ nữ Việt Nam.