Thuyết minh về 1 thể loại văn học

2 câu trả lời

Thuyết Minh Về Thể Thơ Thất Ngôn Bát Cú

Thể thơ thất ngôn bát cú được hình thành từ thời nhà Đường. Một thời gian dài trong chế độ phong kiến, thể thơ này đã được dùng cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài. Thể thơ này đã được phổ biến ở nước ta vào thời Bắc thuộc và chủ yếu được những cây bút quý tộc sử dụng.

Cấu trúc bài thơ thất ngôn bát cú gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Nếu tiếng thứ hai của câu 1 là vẫn bằng thì gọi là thể bằng, là vần trắc thì gọi là thể trắc. Thể thơ quy định rất nghiêm ngặt về luật bằng trắc. Luật bằng trắc này đã tạo nên một mạng âm thanh tinh xảo, uyển chuyển cân đối làm lời thơ cứ du dương như một bản tình ca. Người ta đã có những câu nối vấn đề về luật lệ của bằng trác trong từng tiếng ở mỗi câu thơ: Các tiếng nhất - tam - ngũ bất luận còn các tiếng: nhị - tứ - lục phân minh. Tuy nhiên trong quá trình sáng tác bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng - trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ. Ví dụ trong bài "Qua Đèo Ngang" được viết theo thể bằng:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà t - T - b - B - t - T - B
Cỏ cây chen đá lá chen hoa t - B - b - T - t - B - B

Về vần, thể thơ thường có vần bằng được gieo ở tiếng cuối các câu 1 - 2 - 4 - 6 - 8. Vần vừa tạo sự liên kết ý nghĩa vừa có tác dụng tạo nên tính nhạc cho thơ. Ví dụ trong bài "Qua Đèo Ngang", vẫn được gieo là vần "a".

Thể thơ còn có sự giống nhau về mặt âm thanh ở tiếng thứ 2 trong các cặp câu: 1 - 8, 2 - 3, 4 - 5, 6 - 7. Chính điều này tạo cho bài thơ một kết cấu chặt chẽ và nhịp nhàng trong âm thanh. Trong bài thơ "Qua Đèo Ngang": Câu 1 - 8 giống nhau ở tất cả các tiếng, trừ tiếng thứ 6 (TTBBTB) câu 2 - 3 giống nhau ở các tiếng 2, 4, 6 (BTB)...

Vế đối, thể thơ có đối ngẫu tương hỗ hoặc đối ngẫu tương phản ở các câu: 3 - 4, 5 - 6. Ở bài thơ "Qua Đèo Ngang" câu 3 - 4 hỗ trợ nhau để bộc lộ sự sống thưa thớt, ít ỏi của con người giữa núi đèo hoang sơ, câu 5 - 6 cùng bộc lộ nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả. Các câu đối cả về từ loại, âm thanh, ý nghĩa.

Cấu trúc của thể thơ thất ngôn bát cú gồm bốn phần: Hai câu đề nêu cảm nghĩ chung về người, cảnh vật, hai câu thực miêu tả chi tiết về cảnh, việc, tình để làm rõ cho cảm xúc nêu ở hai câu đề; hai câu luận: Bàn luận, mở rộng cảm xúc, thường nêu ý tưởng chính của nhà thơ; hai câu kết: Khép lại bài thơ đồng thời nhấn mạnh những cảm xúc đã được giãi bày ở trên. Cấu trúc như vậy sẽ làm tác giả bộc lộ được tất cả nguồn cảm hứng sáng tác, ngạch cảm xúc mãnh liệt để viết lên những bài thơ bất hủ.

Còn về cách ngắt nhịp của thể thơ, phổ biến là 3 - 4 hoặc 4 - 3 (2 - 2 - 3; 3 - 2 - 2). Cách ngắt nhịp tạo nên một nhịp điệu êm đềm, trôi theo từng dòng cảm xúc của nhà thơ.

Thể thơ thất ngôn bát cú thực sự là một thể tuyệt tác thích hợp để bộc lộ những tình cảm da diết, mãnh liệt đến cháy bỏng đối với quê hương đất nước thiên nhiên. Chính điều đó đã làm tăng vẻ đẹp bình dị của thể thơ. Có những nhà thơ với nguồn cảm hứng mênh mông vô tận đã vượt lên trên sự nghiêm ngặt của thể thơ phá vỡ cấu trúc vần, đối để thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Tóm lại, thể thơ thất ngôn bát cú mãi mãi là một trang giấy thơm tho để muôn nhà thơ viết lên những sáng tác nghệ thuật cao quý cho đời sau.

Cuối thời nhà Đường ở Trung Quốc, người ta đã xác lập quy định về thơ một cách rõ ràng, gọi là thơ Đường. Trong thơ luật Đường, một thể thơ phổ biến nhất và cơ bản nhất chính là thể thơ thất ngôn bát cú.

Thơ Đường luật hay còn gọi là thơ cận thể là một thể thơ cách luật được đặt ra từ thời Đường ở Trung Quốc và thể thơ thất ngôn bát cú là một tiểu loại. Đây là một thể thơ ngay từ tên gọi cũng giúp chúng ta dễ dàng nhận thấy một đặc điểm đó chính là thể thơ này sẽ gồm câu 8 câu, mỗi câu 7 chữ.

Bố cục một bài được làm theo thể thơ thất ngôn bát cú sẽ thường gồm bốn phần: đề – thực – luận – kết, mỗi phần bao gồm hai câu. Hai câu đầu được gọi là hai câu đề, có câu phá đề và câu thừa đề. Câu phá đề có nhiệm vụ mở đầu cho bài thơ còn câu thừa đề sẽ dùng để chuyển tiếp ý từ câu mở đầu cho tới phần nội dung của bài thơ. Phần thực sẽ bao gồm hai câu thứ ba và thứ tư, nội dung phần này sẽ tập trung làm rõ ý của đề bài. Tiếp đến là phần luận gồm hai câu năm và sáu, nội dung phần luận là phát triển mở rộng ý của đề bài. Phần kết gồm hai câu cuối nhằm mục đích kết lại ý của toàn bài đem lại cho bài thơ một bố cục hoàn thiện đối xứng.

Về luật bằng trắc, mỗi bài thơ Đường sẽ được làm theo vần bằng hoặc vần chắc. Luật này sẽ căn cứ vào thanh của chữ thứ hai câu thứ nhất. Nếu chữ thứ hai câu thứ nhất có thanh bằng thì bài thơ sẽ được làm theo luật bằng (Thiếu nữ ngủ ngày, Tự tình 1,2 – Hồ Xuân Hương,…) còn nếu chữ thứ hai câu thứ nhất là thanh chắc thì bài thơ sẽ làm theo luật chắc (Qua đèo Ngang,…). Trong mỗi câu thơ, các cặp bằng trắc này sẽ lượt thay phiên nhau. Đối với cách gieo vần, thể thơ thất ngôn bát cú nói riêng và thơ Đường luật nói chung thì chỉ gieo vần bằng và treo ở cuối câu 1 2 4 6 8.

Đây là một thể thơ rất cẩn trọng trong đối. Trong thơ Đường, đối là đặt các câu sóng đôi với nhau cho lời bài ý cân xứng. Ở thể thơ thất ngôn bát cú, đối sẽ thường là câu 3 – 4 đối nhau và câu câu 5 – 6 đối nhau.

Là một thể thuộc thơ Đường nên những bài thơ được làm theo thể thơ thất ngôn bát cú sẽ có niêm. Niêm là sự kết dính giữa các câu thơ với nhau, đem lại cho bài thơ một sự liên kết đã thống nhất hoàn chỉnh. Hai dòng thơ sẽ gọi là niêm với nhau nếu như chữ thứ hai của hai dòng thơ cùng theo một luật, tức cùng có thanh bằng hoặc của thanh trắc. Trong thơ thất ngôn bát cú đường luật, dòng 1 sẽ niêm với dòng 8, dòng 2 sẽ niêm với dòng 7, dòng 3 sẽ niêm với dòng 6, dòng 4 sẽ niêm với dòng 5. Trong cùng một bài thơ, nếu như các cặp câu này này không niêm với nhau thì sẽ gọi là thất niên, tức mất sự kết dính giữa các câu thơ.

Có thể nói, thất ngôn bát cú theo đúng như đặc điểm của thơ Đường có những quy tắc sách ngặt nghèo về bố cục, niêm, luật… Trong thực tế sáng tác sẽ rất khó để một bài thơ đạt được sự cân chỉnh hoàn hảo tuyệt đối như vậy nên nhiều nhà thơ đã phá cách thơ Đường, xóa bỏ hay thay đổi một số yếu tố. Chính điều này không những không làm mất giá trị của bài thơ mà ngược lại làm cho bài thơ có sự sáng tạo độc đáo và biểu thị những những suy nghĩ riêng của mỗi tác giả.

Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật nói riêng và thơ Đường luật nói chung không phải chỉ là thanh tựu riêng của thơ ca Trung Quốc mà còn là một thành tựu tiêu biểu của thơ ca nhân loại. Chúng ta cần thiết phải trân trọng giá trị của những thể loại văn học này.