Theo giáo sư sử học người Mỹ khẳng định : " ngươi Việt Nam đã tiếp thu nên nên nên văn minh trung hoa mà không mất bản sắc văn hóa của mình ,..người Việt Nam không muốn trở thành nô lệ của Trung Quốc và điều đó chắc chắn đã ăn sâu vào gốc rễ sự tồn tại liên tục của họ với tư cách là 1 quốc gia độc lập có thời Văn Lang Âu Lạc " .em hãy đóng vai trò là một nhà sư học nhí và hãy Quảng bá với du khách nước ngoài về những giá trị văn hóa mà người Việt vẫn còn lưu giữ được trong thời kỳ chóng phong kiến phương Bắc

1 câu trả lời

Việt Nam nằm ở ngã tư giao lưu văn hoá từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam. Viêt Nam khi hình thành quốc gia trên bán đảo Ấn Độ - Trung Quốc thì hai quốc gia châu Á vĩ đại này đã có nền văn hoá phát triển rực rỡ, đang toả ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nước xung quanh. Văn hoá Việt Nam có chung cơ tầng văn hoá bản địa với các nước Đông Nam Á, nhưng đã sớm chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hoá của Trung Quốc và Ấn Độ. Bản thân hai nền văn hoá lớn này cũng có chung đặc điểm của văn hoá phương Đông là tính hỗn dung, cộng sinh cao, nên cũng không trái với truyền thống khoan dung, đối thoại cởi  mở của văn hoá Việt Nam.

Nho giáo với tư tưởng “trung hoà”, chủ trương kết hợp hài hoà các mặt đối lập: “thiên nhân hợp nhất”, “tri hành hợp nhất”, coi “thiên thời, địa lợi bất như nhân hoà”; điều đó đã góp phần làm cho nội bộ dân tộc đoàn kết,  quốc gia hoà hợp, xã hội ổn định, mong đạt tới “mưa thuận gió hoà”. Bản thân Nho giáo, trong quá trình phát triển cũng tiếp thu những yếu tố nhất định của Phật học, Đạo học, Lý học,…để tạo ra sức sống mới trong mỗi thời kỳ phát triển.

Văn hoá Phật giáo cũng mang tính dung hoà rất mềm dẻo, không ham hố tranh giành, chủ trương hoà hợp, hoà giải, kêu gọi tình thương yêu, tha thứ, chấp nhận lẫn nhau. Phật giáo vào Việt Nam từ  đầu công nguyên, góp phần đặt nền tảng nhân văn, hướng thiện cho văn hoá Việt Nam, cho lễ nghi, phong tục Việt Nam, góp phần xây dựng và củng cố nền chính trị và ngoại giao của nhà nước phong kiến Việt Nam trong những thế kỷ đầu vừa giành lại độc lập. Đến khi Nho giáo thịnh lên, Phật giáo mất đi địa vị quốc giáo, nhưng Nho-Phật vẫn cùng nhau chung sống, theo tinh thần “Nhật, Nguyệt tịnh minh, các hữu sở chiếu", (nghĩa là mặt trời, mặt trăng đều chiếu sáng, mỗi cái có cách chiếu riêng) “Ngày vừng ô chiếu sáng, đêm bóng thỏ rạng soi”, “Thích lo việc đạo, Nho lo việc đời “, cả hai đều cần thiết cho cuộc sống con người. Phật giáo chủ trương sự dung thông, vượt lên sự khác biệt về học thuyết, không loại trừ nhau mà dung hoà với  nhau, cùng tồn tại.

Lão giáo (Đạo học) lại thể hiện tinh thần bao dung theo một hướng khác, chủ trương sống hoà hợp với tự nhiên, tôn trọng quy luật của đất trời, từ đó nêu lên thuyết “vô vi, bất tranh”, “được ít không chê, được nhiều không mừng, cái vui đến thì tận hưởng, cái vui đi không than tiếc, vui vẻ với bốn mùa, hoà hợp cùng ngoại vật…”. Lão Tử kêu gọi: “Khoáng hề kỳ nhược cốc”(Hãy trống không như hang núi), nghĩa là “hãy không là gì cả” thì đời sẽ trở nên cực kỳ đơn giản và tốt đẹp.

Kitô giáo vốn là một tôn giáo bất khoan dung, lại được truyền sang phương Đông vào thời đại chủ nghĩa thực dân đi xâm chiếm thuộc địa, mở rộng thị trường, nên lúc đầu không mấy được hoan nghênh. Trong khi cố gắng phúc âm hoá của các linh mục thừa sai tại các nước Viễn Đông như Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Quốc,…ít đạt kết quả, thì Đạo Kitô lại sớm tạo được chân đứng ở Việt Nam. Ngoài “lòng nhân ái cao cả” như Hồ Chí Minh nhận xét, thì tôn giáo này dễ được tiếp nhận ở nước ta  hơn nhiều nơi khác, có thể nói cũng là nhờ tinh thần hoà đồng tôn giáo của văn hoá Việt Nam.

Còn với đông đảo người nông dân Việt Nam thời xưa thì họ có thể vừa thờ Thần, Phật lại vừa thờ cả ma quỷ (thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề), không hoàn toàn tin, nhưng cũng không muốn để nó trở thành kẻ thù có thể làm hại mình.

Những giá trị khoan dung này đã tạo cho con người Việt Nam một nếp tư duy mềm mại, uyển chuyển, không cực đoan. Trong văn hoá đối thoại, người Việt Nam thường nhớ đến một câu Kiều: “Mà trong lẽ phải có người, có ta”, tức là không hề có ý giành độc quyền chân lý! Bởi mỗi sự vật, hiện tượng vốn chứa đựng nhiều khía cạnh, nhiều tầng ý nghĩa, mỗi người, từ góc nhìn của mình, chỉ có thể tiếp cận được một phần chân lý, chứ chưa thể nắm ngay được toàn bộ chân lý tuyệt đối. Nếu “chữ trinh kia cũng có ba bẩy đường”, thì  mỗi vấn đề chính trị-xã hội còn có những nhận thức khác nhau là điều bình thường. Vì vậy, cần thiết có sự lắng nghe nhau, tôn trọng nhau, hợp tác với nhau trong tìm tòi chân lý.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm