Phát biểu cảm nghĩ về một tình huống hài hước mà em đã từng gặp trong cuộc sống
2 câu trả lời
Kho tàng truyện cười, truyện ngụ ngôn của Việt Nam vô cùng phong phú, đã đem lại cho người đọc những tiếng cười bổ ích, những bài học sâu sắc về cuộc sống con người trong thời kỳ xưa.
Truyện cười "Lợn cưới áo mới" là những tiếng cười mỉa mai châm biếm thói hay khoe, háo danh, hay thích thể hiện mình của một số người trong xã hội.
"Lợn cưới áo mới" kể về một chàng trai sắp lấy vợ và có con lợn cưới nhưng chẳng may nó bị sổng chuồng chạy mất anh ta hớt hơ hớt hải đi tìm lợn.
Đáng lý ra trong tình huống nguy cấp này anh ta phải tập trung chuyện tìm được chú lợn của mình nhưng do tính hay khoe của nên đi đâu gặp ai anh ta cũng trình bày vô cùng dài dòng về con lợn cưới. Mục đích là muốn khoe với mọi người rằng mình sắp cưới vợ và có lợn cưới.
Nhưng vỏ quýt dày cho móng tay nhọn. Anh chàng này gặp đúng đối thủ có anh này cũng mắc tính hay khoe của. Nhân tiện anh ta mới mua được chiếc áo mới nên hãnh diện đi khắp đầu làng cuối xóm để khoe. Nhưng ai cũng tránh anh ta như tránh tà vì biết tính anh hay khoe của nên không muốn tiếp chuyện.
Nhân dịp gặp được anh mất lợn cưới. Khi anh chàng mất lợn cưới trình bày về việc con lợn cưới của mình bị sổng chuồng thì anh chàng có chiếc áo mới nhân tiện cũng khoe luôn bằng một câu nói bất hủ chẳng ăn nhập gì vào câu chuyện của anh chàng mất lợn cưới rằng "Từ lúc tôi mặc chiếc áo mới này không có con lợn nào chạy qua"
Truyện cười "Lợn cưới áo mới"mượn câu chuyện để phê phán thói hỡm hĩnh hay khoe của của những người háo danh, thích thể hiện mình trước đám đông, trước mặt người khác, tưởng như thế là hay nhưng thực chất chỉ làm trò cười cho thiên hạ mà thôi
Thông qua câu chuyện ông bà ta muốn nhắn nhủ con cháu mình phải biết sống khiêm nhường, không phải cái gì cũng đem khoe cho thiên hạ biết.
. Văn học dân gian
1.1. Đặc điểm:
- Văn học dân gian ra đời từ rất sớm, khi chưa có chữ viết.
- Các sáng tác dân gian mang tính tập thể, truyền miệng: là tiếng nói tình cảm, kết tinh trí tuệ chung của nhân dân được truyền từ đời này sang đời khác.
- Các đặc trưng cơ bản: Tính tập thể, tính truyền miệng, tính thực hành...
1. 2. Các thể loại chính: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, truyện thơ... và các loại hình diễn xướng như chèo, tuồng, dân ca (sân khấu dân gian).
1.3. Vị trí, ý nghĩa:
- Văn học dân gian là cuốn “Bách khoa toàn thư” của cuộc sống lao động và tình cảm của nhân dân, có giá trị về nhiều mặt.
- Văn học dân gian là một bộ phận quan trọng của nền văn học dân tộc, là cơ sở, nền tảng cho văn học viết hình thành và phát triển.