Phân tích nghệ thuật quân sự của cuộc kháng chiến chống Tống

2 câu trả lời

1. Chiến lược

Các nhà lãnh đạo kháng chiến của Đại Việt lúc đó đã theo dõi sát các hành động của quân địch ngay từ lúc chúng bắt đầu chuẩn bị cho đến khi tiến quân xâm lược nước ta. Trên cơ sở nắm chắc tình hình địch và căn cứ vào tương quan lực lượng địch, ta, mà Tiên Lê cũng như nhà Lý đã nắm được quyền chủ động suốt cả cuộc chiến tranh chống Tống. Lê Hoàn đã phán đoán chính xác hướng tiến công của các đạo quân Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng và Lưu Trừng nên đã chủ động bố trí thế trận chặn đánh địch ở Bình Lỗ, ở Bạch Đằng Giang... Lý Thường Kiệt với chiến lược “Tiên phát chế nhân” đã chủ động đánh sang đất Tống, tiêu diệt căn cứ xuất phát tiến công, triệt phá các căn cứ hậu cần, quân sự của chúng; khiến muốn xâm lược nước ta chúng lại phải bắt tay vào chuẩn bị từ đầu. Tiếp sau đó đã phán đoán đúng ý đồ của nhà Tống, khẩn trương chuẩn bị lực lượng, xây dựng phòng tuyến chủ động phòng ngự và phản công tiêu diệt quân giặc khi thời cơ xuất hiện.

Trong cả hai cuộc kháng chiến chống Tống ta đều khéo léo kết hợp hai cách đánh “công” và “phòng” (tiến công và phòng ngự) trên cả quy mô chiến lược và chiến thuật để đánh bại chiến lược tiên công chớp nhoáng của địch.

Năm 981, Lê Hoàn cùng các tướng lĩnh và quân đội đã tổ chức những trận địa phòng thủ vững chắc mà trọng điểm là trận địa phòng ngự khu vực ở cửa quan Bình Lỗ và trận địa phòng thủ ở cửa sông Bạch Đằng. Dựa vào trận địa đó, Lê Hoàn đã vừa thực hành tác chiến phòng ngự để ngăn chặn tiêu hao giặc, vừa tổ chức mai phục để tiến công tiêu diệt giặc, tạo điều kiện thuận lợi để quân ta thực hiện phân công - tiến công, truy kích tiêu diệt quân Tống.

Trong nhữngnăm 1075 - 1077, Lý Thường Kiệt đã thực hành tập kích chiến lược ở các châu Ung, Khâm, Liêm, phòng ngự chiến lược ở sông Như Nguyệt (sông Cầu) và khi thời cơ đến đã thực hành phản công chiến lược trên quy mô để tiêu diệt địch.

Cả Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt đều khéo vận dụng kết hợp giữa tác chiến trên bộ và trên sông biển, giữa bộ binh và thủy binh, đánh tan kế hoạch hiệp đồng thủy bộ của quân Tống. Trong cả hai lần kháng chiến nói trên, ta đã tạo được một thế trận phòng thủ chiến lược mạnh có thể chặn đánh, phá kế hội sư thủy bộ của địch, đồng thời lại tạo điều kiện để thực hiện tác chiến phôi hợp giữa quân triều đình và thổ binh; vừa có thể đánh địch ở phía trước vừa quấy rối, tiêu hao địch ở sau lưng chúng, vừa đập tan được các đột tiến công quy mô  của địch, vừa có thể liên tục thực hành tiến công cục bộ, từng bước đẩy quân thù vào tình thế khó khăn. Kết hợp tác chiến các loại quân và kết hợp đánh nhỏ tiêu hao với đánh lớn, tạo thời tạo thế phản công tiêu diệt giặc là phương pháp tác chiến đúng đắn, có hiệu quả trong cả hai lần kháng chiến chống Tống.

2. Chiến thuật

Trong hai cuộc kháng chiến chống Tống đã xuất hiện nhiều hình thức chiến thuật như đánh chặn, tiến công bao vây các đồn trại, dựa vào chiến tuyến đánh phòng ngự, thực hành phản đột kích, đánh phục kích, tập kích tiêu hao địch, rồi cuối cùng là những trận đánh tập trung, đánh, đánh tiêu diệt và truy kích quân địch. Trong chiến tranh, tổ tiên ta đã vận dụng các hình thức tác chiến phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu trong từng khu vực, từng địa bàn, cả trên bộ và trên thủy.

Trong cuộc tiến công sang đất Tống (1075), Lý Thường Kiệt đã khéo léo vận dụng phổ biến hình thức chiến thuật tập kích, đánh úp, đánh bất ngờ. Nhờ đó, quân đội Đại Việt đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: hàng loạt thành trại của giặc đã bị hạ. Trường hợp đối với thành Ung châu - căn cứ lớn nhất và chủ yếu của giặc, có thành vững với lũy cao hào sâu và do 5 vạn quân trấn giữ, Lý Thường Kiệt đã kiên quyết dùng cách đánh “cường công”, tức đánh thành bằng sức mạnh. Các kỹ thuật, chiến thuật công thành thời ấy đều được áp dụng: dùng vân thê vượt tường thành đánh vào, cho quân đào hầm từ dưới đất đánh lên, dùng hỏa tiễn (tên lửa) làm kế “hỏa công” đốt phá trại giặc, rồi đắp đất cao ngang tường thành để trèo lên v.v... Đáng chú ý là Lý Thường Kiệt, trong khi đánh thành còn kết hợp với diệt viện và kết quả của trận tiêu diệt một vạn viện binh địch ở cửa Côn Luân đã tác động mạnh mẽ và tạo điều kiện thuận lợi cho trận công phá thành Ung. Trận đánh thành Ung là trận công thành bằng sức mạnh đầu tiên trong lịch sử quân sự dân tộc, chứng tỏ ông cha ta đã đạt đến trình độ cao trong chiến thuật công thành ở thời bấy giờ.

- Ở cuộc kháng chiến chống Tống, sau trận quyết chiến chiến lược trên sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đã chủ động đề nghị giảng hòa. Quách Quỳ vội vã chấp nhận và nhanh chóng rút quân về nước

- Trong khởi nghĩa Lam Sơn, sau chiến thắng Chi Lăng- Xương Giang, Vương Thông đã vội vàng xin hòa và chấp nhận mở hội thề Đông Quan. Tại đây Vương Thông thề sẽ rút hết quân đội về nước, cam kết không đem quân xâm lược Đại Việt. Lê Lợi thề sẽ cấp thuyền lương để quân Minh nhanh chóng rút quân về nước thuận lợi

Câu hỏi trong lớp Xem thêm